intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế hay không? Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước thường sử dụng các biện pháp nào? Ở Việt Nam hiện nay có lạm phát không? Nếu có thì chính phủ Việt Nam sử dụng những biện pháp nào?

Chia sẻ: Đức Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:34

304
lượt xem
53
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận giải đáp những câu hỏi "Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế hay không? Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước thường sử dụng các biện pháp nào? Ở Việt Nam hiện nay có lạm phát không? Nếu có thì chính phủ Việt Nam sử dụng những biện pháp nào?". Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế hay không? Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước thường sử dụng các biện pháp nào? Ở Việt Nam hiện nay có lạm phát không? Nếu có thì chính phủ Việt Nam sử dụng những biện pháp nào?

  1. [Type text] Tiểu luận Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ  tiêu tăng trưởng kinh tế hay không? Để kiềm chế lạm phát chính phủ các nước thường sử  dụng các biện pháp nào?  Ở  Việt Nam hiện nay có lạm phát không? Nếu có thì chính phủ  Việt Nam sử dụng những biện pháp nào? MỤC LỤC BIỂU ĐỒ   Đồ thị 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2003­2008    14 Đồ thị 2:Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2003­2007    15 Đồ thị 3: Thể hiện CPI, USD, Vàng 2007­2008                     17 Đồ thị 4 : so sánh mức cung tiền của việt Nam so với Trung Quốc và Thái Lan    18 Đồ thị 5: tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán    19  Đồ thị 6: tăng trưởng dư nợ cho vay ngành ngân hàng 2004­2007                20                                                                                                                                   LỜI MỞ ĐẦU          Lạm phát có ảnh hưởng tới tất cả các đối tượng từ người tiêu dùng, doanh nghiệp, đến chỉ  tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008, thế  giới rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế  tồi tệ nhất kể  từ  cuộc Đại suy thoái 1929­1933. Bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ, thế giới chứng kiển   sự sụp đổ của những định chế tài chính khổng lồ. Lý do sâu xa của nó là sự mất cân bằng quốc tế  của các khu vực kinh tế trụ cột trên thế giới và những vấn đề nội tại của hệ thống ngân hàng Mỹ  và Châu Âu. Cho đến thời điểm này, hàng loạt ngân hàng tên tuổi đã phải tuyên bố  phá sản hoặc  nhờ chính phủ cứu trợ. Thị trường tài chính nhiều nước gần như đóng băng, kéo theo là nền kinh  tế thực sự suy thoái.Nạn thất nghiệp tăng đến mức báo động, nhất là trong tầng lớp dân nghèo ở  các nền kinh tế  mới nổi và các nước đang phát triển Thương mại quốc tế  giảm mạnh, sự  sụt   giảm tốc độ  tăng trưởng kinh tế  vẫn chưa có dấu hiệu ngừng lại, lạm phát xảy ra  ở  khắp nơi.   Mặc dù nhiều nước đã đưa ra những gói kích cầu lớn, với tổng số  tiền công bố  toàn cầu xấp xỉ  2000 tỉ USD.        Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. 2008 là năm nền kinh tế  Việt Nam phải đối   1
  2. [Type text] mặt với những vấn đề  phức tạp cũng như  những tác động khó lường từ  tình hình thế  giới. Đặc  biệt là nạn lạm phát tăng cao khiến nền kinh tế nước ta không tránh khỏi rơi vào tình trạng khủng   hoảng trầm trọng, ngân sách Chính phủ thâm hụt, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.         Chính vì thế, lạm phát hiện nay đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Ổn định lạm   phát là một vấn đề  cực kỳ  quan trọng, bởi lẽ  lạm phát là một trong những chỉ  tiêu vĩ mô quan   trọng đánh giá “tình hình sức khỏe” của một nền kinh tế bên cạnh các chỉ tiêu tăng trưởng và thất   nghiệp. Lạm phát có  ảnh hưởng tới tất cả  các đối tượng từ  người tiêu dùng, doanh nghiệp,  đến  chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế .Bên cạnh đó, lạm phát luôn luôn là kết quả của sự tác động tổng hợp  từ  các yếu tố  kinh tế  khác nhau, và rất khó nhận ra đâu là nguyên nhân chủ  yếu, nên việc kiềm  chế lạm phát thường gặp rất nhiều khó khăn. Theo báo cáo, Việt Nam chỉ là một nền kinh tế nhỏ  trong khu vực châu Á vì GDP của Việt Nam   chỉ chiếm xấp xỉ 1% so với toàn khu vực, trừ Nhật Bản. Trong những năm gần đây, Việt Nam gây  ấn tưởng bởi tốc độ  tăng trưởng kinh tế tăng liên tục. Mặc dù vậy, Việt Nam đang chịu tác động   từ chính thành công quá lớn và quá nhanh chóng của mình. Đặc biệt, đối với Việt Nam, một nước   đi theo con đường kinh tế  thị  trường chưa lâu, cuộc khủng hoảng kinh tế  lần này có thể  làm xói   mòn niềm tin vào thị trường, nhất là khi vai trò của Nhà Nước đã được nhấn mạnh trở lại ngay cả  ở Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm lớn nếu Việt Nam không tiếp tục   con đường đang đi. Nên coi cuộc khủng hoảng lần này như một cơ hội tái cơ cấu lại nền kinh tế  và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Cùng với các trào lưu biến đổi của thế giới đang diễn  ra mạnh mẽ, Việt Nam cần lựa chọn cho mình một chiến lược phát triển khôn ngoan và bền vững.                                                PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan về lạm phát 1.1.1.  Khái niệm về lạm phát Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung của nền kinh tế. Trong  một nền kinh tế, lạm phát là sự  mất giá trị  thị  trường hay giảm sức mua của đồng tiền. Khi so   sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại   tiền tệ  khác. Thông thường theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị  tiền tệ  trong phạm vi nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ  hai thì người ta hiểu là lạm phát  của một loại tiền tệ  trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi  ảnh hưởng của hai thành phần  này vẫn là một chủ  đề  gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế  học vĩ mô. Ngược lại với lạm phát là   giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số dương nhỏ thì được người ta gọi là sự  ổn  định giá cả. Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền được lưu hành trong dân chúng tăng lên  do nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm   thủng ngân sách v.v...). Trong khi đó, số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay  nhiều tiền quá sẽ tranh mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát.  2
  3. [Type text] 1.1.2  Phân loại lạm phát  Lạm phát do cầu kéo:  Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung  ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ  sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD­AS. Đường AD dịch sang phải trong khi  đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng.Trong khi đó, chủ  nghĩa tiền   tệ  giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về  tiền mặt cao hơn, dẫn tới  cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. Nguyên nhân dẫn đến cầu kéo: do hàng hóa ngày càng trở nên khan hiếm trong khi nhu cầu ko tăng   hay do nhu cầu ngày càng tăng trong khi hàng hóa ko tăng hoặc tăng chậm hay do cả nhu cầu tăng  trong khi hàng hóa thì có xu hướng ngày càng khan hiếm (các giả  sử  chỉ  là tương đối). Do các   nguyên nhân trên tất yếu làm cho giá cả  thị  trường tăng cao. chúng ta đã tìm ra nguyên nhân gây   tăng giá do cầu kéo và để giải quyết nó cần tìm ra các biện pháp tăng lượng hàng hóa đáp ứng nhu  cầu trên thị trường, có rất nhiều cách trong đó phần lớn nhờ cách giải quyết của chính phủ về các   chính sách về  đầu tư  ... nhằm tăng hiệu quả  sx nhằm đưa sp vào thị  trường. Ngoài chính phủ  tất  cả các yếu tố khác trên thị trường cạnh tranh tự do đều góp phần làm giảm tăng giá trên thị trường  như  làm thế  nào để  thay đổi thói quen tiêu dùng hay nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu   dùng, ... Lạm phát do cầu thay đổi  Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng   lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ  có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi  đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả  là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm   phát. Lạm phát do chi phí đẩy Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì  muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể  nền kinh tế cũng tăng. 3
  4. [Type text] Nguyên nhân dẫn đến chi phí đẩy: Trong hàng loạt các yếu tố  tác động đến chi phí đầu vào của  một sản phẩm như giá cả  nguyên vật liệu, chi phí lao động, chi phí mua sắm tài sản cố định, cho   đến các chính sách của nhà nước đều ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả  của sản phẩm; mà khi các   yếu tố  này cao đương nhiên sẽ  đẩy chi phí đầu vào tăng và làm tăng giá sản phẩm ... . Để  giải  quyết chúng cần đặc biệt chú ý tới các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước mà đặc biệt là các   chính sách về thuế. chúng ta đã biết các nguyên nhân dẫn đến chi phí tăng từ đó sẽ biết biện pháp  giải quyết, bản thân từng dn sản xuất hàng hóa tự tìm cách hạ bớt chi phí đầu vào như tìm mua các  yếu tố đầu vào thuận tiện để giảm thiểu chi phí phát sinh, tính toán hao phí nguyên vật liệu chính   xác để  dự  trữ  cho phù hợp tránh chi phí sử  dụng vốn tăng... tận dụng giảm thiểu lãng phí do sử  dụng nguyên vật liệu, tận dụng nguồn lao động sẵn có tăng năng suất tối đa, tránh lãng phí những   chi tiêu ko cần thiết hay tinh giảm hệ thống quản lý cồng kềnh ko hiệu quả .Hay các chính sách vĩ  mô của nhà nước như giảm các loại thuế đầu vào, giảm thuế thu nhập . Lạm phát do cơ cấu Ngành kinh doanh có hiệu quả  tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh   không hiệu quả, vì thế, không thể  không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình.   Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả  sẽ tăng giá thành sản phẩm.   Lạm phát nảy sinh vì điều đó. Lạm phát do xuất khẩu Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất   khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng   cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.  Lạm phát do nhập khẩu Sản phẩm không tự  sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do   nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như  trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng  tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi   mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.  Lạm phát tiền tệ Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại   tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu   cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Lạm phát sinh ra lạm phát Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý sẽ cho rằng tới đây giá cả hàng hóa sẽ còn  tăng, nên đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại. Tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung, gây ra lạm phát. 1.2. Cách tính lạm phát Lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát , là suất tăng của mức giá tổng quát theo thời gian.   Và mức giá tổng quát được tính toán bằng thước đo chỉ số giá tiêu dùng CPI .Chỉ số giá tiêu dùng   CPI là một chỉ  tiêu thống kê phản ánh xu hướng và mức độ  biến động giá cả  chung của một số  lượng cố  định các loại hàng hóa dịch vụ  ( Được gọi là rổ  hàng hóa) đã được chọn đại diện cho   4
  5. [Type text] tiêu dùng , phục vụ đời sống bình thường của người dân , qua thời gian Bảng 1.1: Tóm tắt các thành phần tác động chủ yếu  đối với các mặt hàng trong CPI Giá  Giá  lương  phân  Giá  Tỷ   giá  Giá  Giá   xăng    thực bón thép hối đoái thuốc dầu Giá đất Tác   động 42.7 0 3.1 27.6 1.7 3.3 0  trực tiếp Tác động   5.2 42.7 0.3 1.1 0.7 2.6 0.2 gián tiếp Tổng  47.9 42.7 3.4 28.7 2.4 5.9 0.2 cộng Theo cách tiếp cận của học thuyết trọng tiền giải thích “lạm phát” là một hiện tượng thuộc về  tiền tệ, biểu thị thông qua phương trình : M*V=P*Q . Theo đó, với giả định với tốc độ  lưu thông  tiền tệ (V) không đổi thì lạm phát (P) sẽ không xảy ra nếu cung tiền (MS) không tăng (MS = P*Q /   V)         Theo thông thường, tỷ lệ lạm phát tháng hay quý có thể so sánh với các kỳ gốc khác nhau k i,t Chẳng hạn gọi :   = k ­1 * ( Pi,t – P i,t­k ) / Pi,t­k ; với : k i,t    : là tốc độ biến động giá hàng i so với kì so sánh k K :      kỳ so sánh k  Pi,t :    giá hàng i kỳ t P i,t­k : giá hàng i kỳ k ­ Khi đó tỷ lệ lạm phát CPI sẽ là  k i,t  = k­1  wi * (Pi,t – Pi,t­k) / Pi,t­k (I) k i,t  : lạm phát CPI  Wi : tỷ trọng hàng hóa i  Trong đó K thường nhận giá trị 1,3,12 … Tỷ lệ lạm phát ở đây chính là số bình quân giản đơn của   các tỷ lệ lạm phát tháng của k tháng  Giả sử chúng ta có thể phân tích tỷ lệ lạm phát của nhóm hay mặt hàng thứ i thành tỷ lệ lạm phát   CPI trung bình ( t ) và các sốc đối với giá mặt hàng thứ i (Vi,t ), ta có :  CPI i,t   =  t + Vi,t ; khi đó tỷ lệ lạm phát mặt hàng i ở kỳ t so với kỳ k là :  CPI i,t   =  t + 1/k  Vi,t (II) Từ (II) có thể thấy K càng lớn thì độ biến thiên của tỷ lệ lạm phát càng bé, do các phần nhiễu sẽ  khử  trừ  nhau.Vì vậy việc công bố  phân tích lạm phát tháng bình quân quý (K=3), bình quân năm  5
  6. [Type text] (K=12) sẽ  cho thấy rõ xu thế  lạm phát và ít bị  nhiễu hơn so với (K=1), cách tính lạm phát này  tương đương tỷ lệ lạm phát so với tháng cùng kỳ chia cho 12 hoặc 3  Tính lạm phát theo tỷ lệ phần trăm giữa bình quân CPI 12 tháng liên tục đến tháng hiện tại và tỷ  lệ lạm phát tính bình quân CPI các tháng cùng kỳ trừ đi 100. Các chỉ số này phải là chỉ số định gốc  hay chung gốc so sánh (1995=100). Cách tính này có ý nghĩa về mặt thống kê. Theo một cách tính khác : tỷ lệ lạm phát trung bình chung ( IICPIt) có thể phân tích hai cấu phần  P tác động xu thế lâu dài hay thường trực, thường xuyên, ổn định ( t ) và tác động nhiễu nhất thời,   CPI P P tức thời ( Tt) là :  t =  t  +  Tt  . Khi đó  t thể hiện xu thế lâu dài, thường trực do áp lực   của cầu được gọi là lạm phát xu thế dài hạn hay lạm phát cơ bản P Khi lạm phát CPI nhiễu cần chọn cách tách lọc khử nhiễu để lấy ra cấu phần xu thế dài hạn  t ,  nếu nhiễu  Tt của biến động giá các nhóm hàng  thuộc cấu phần CPI có chung phân bố chuẩn N  (   2 ) thì lạm phát CPI có thể  coi là lạm phát cơ  bản. Khi đó giá trị  trung bình là  ước lượng   không chêch với phương sai bé nhất. Khi CPI bị  nhiễu nhiều nhất thời đến chừng mực mà ( Pi,t – Pi,t­k) /Pi,t­k khơng còn tuân theo   phân bố chuẩn . Khi đó CPI sẽ không còn là ước lượng tốt nhất và sẽ phản ánh sai lệch xu thế lâu   dài của lạm phát. Để hoạch định chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà nước cần một thước đo phản ánh xu thế  lâu dài  của lạm phát. Chỉ tiêu này được gọi là lạm phát cơ bản hay lạm phát tiền tệ. Lạm phát cơ  bản là  chỉ tiêu phản ảnh tác động của chính sách tiền tệ, đo lường được các tác động hay áp lực lâu dài   ổn định của cầu đến sự biến động của giá cả.Vì vậy chỉ  tiêu này cần được tính toán sao cho loại   trừ  được tác động của các sốc cung nhất thời, điều chỉnh giá không đều, thuế  gián thu hay việc   gán “giá không đổi “khi hàng hóa tạm thời vắng… 1.3. Lạm phát cơ bản 1.3.1. Khái niệm lạm phát cơ bản Lạm phát cơ bản (Core Inflation): là tỷ lệ  lạm phát thể  hiện sự thay đổi mức giá mang tính chất   lâu dài mà loại bỏ những thay đổi mang tính tạm thời nên lạm phát cơ bản chính là lạm phát xuất  phát từ nguyên nhân tiền tệ (hay chính lạm phát theo quan niệm của Friedman). Do đó không phải   là CPI mà Lạm phát cơ bản là một công cụ đắc lực giúp Ngân hàng trung ương  có con mắt đánh   giá đúng đắn về lạm phát, qua đó mới có thể chỉ dẫn cho mục tiêu chính sách tiền tệ  trong tương  lai và một khi giá cả ổn định sẽ là tiền đề cho các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác ổn định và phát triển.   Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng các tác động của chính sách tiền tệ sau một độ  trễ  thời gian   mới có hiệu lực, do đó sẽ là quá muộn nếu các ngân hàng trung ương đợi cho đến khi tỷ lệ  Lạm   phát cơ bản bắt đầu tăng thì mới bắt đầu cố gắng làm giảm sức ép lạm phát.  Tùy vào các phương pháp đo lường khác nhau, các nước công nghiệp tiên tiến có phân biệt rõ ràng   giữa tỷ lệ lạm phát được công bố rộng rãi theo thông lệ (thường là CPI, chỉ số giảm phát GDP) và   6
  7. [Type text] tỷ  lệ  Lạm phát cơ  bản (có thể  công bố  hoặc không công bố  mà chỉ  để  sử  dụng nội bộ  tuỳ  từng   quốc gia). 1.3.2. Các phương pháp tính lạm phát cơ bản Tùy theo đặc thù ở một số nước mà người ta sử dụng một số phương pháp khác nhau để xây dựng  phương pháp tính, các phương pháp phổ biến được dùng như : Phương pháp loại trừ chủ quan Đầu thập niên 70, nhiều nước bắt đầu áp dụng tính lạm phát cơ  bản theo phương pháp loại trừ  một số nhóm hàng, mặt hàng dễ bị sốc bởi cung như hàng hóa thuộc loại lương thực thực phẩm,   nhiên liệu năng lượng, điện năng thuế  gián thu. Cách tính này chỉ  cần loại bỏ  một số  mặt hàng   thuộc loại lương thực thực phẩm, nhiên liệu năng lượng, thuế  gián thu sau đó tính lại quyền số  rồi tính bình quân gia quyền. Tuy nhiên việc xác định mặt hàng loại trừ  trên khá máy móc, không  có kiểm định .Hiện phương pháp loại trừ chủ quan (CPI­FET) vẫn được áp dụng ở nhiều nước. Phương pháp tinh theo trung vị gia quyền (WM­CPI) Là ước lượng thô nhất khi trung bình gia quyền không còn là ước lượng tốt nhất cho xu thế trọng   tâm.Trung vị là ước lượng tốt hơn ước lượng trung bình do nó không chịu ảnh hưởng của các sốc   tăng giá tạm thời. Đây cũng là ước lượng khoa học không tùy tiện như phương pháp CPI­FET . Phương pháp trung bình lược bỏ (TM­CPI) Cuối thập kỷ 80 trở lại đây, phương pháp tính giá trị trung bình lược bỏ  ngày càng được sử dụng   rộng rãi. Khi phân bố xác suất của phần nhiễu của biến động giá của nhóm ngành hàng có chung   2 2 kỳ vọng   nhưng lại có phương sai khác nhau (  I     J  ) thi trung bình mẫu ( CPI) là ước lượng  không chệch đối với phương sai không bé nhất . Khi đó cần loại trừ  các nhóm hàng rơi lệch hẳn  về hai phía của đồ thị phân bố tần suất của biến động giá của các nhóm hàng .Tỷ lệ phần trăm số  nhóm lược bỏ  ( ) được chia đều  hoặc không chia đều cho cả  2 phía . Khi loại trừ  xong trung  bình mẫu được tính cho các quan sát còn lại. TM­CPI có thể là bình quân giản đơn hay gia quyền. Phương pháp bình quân gia quyền nghịch đảo độ lệch chuẩn và phương sai Ngoài ba phương pháp trên còn có : Phương pháp bình quân gia quyền nghịch đảo độ  lệch chuẩn  hoặc phương sai, phương sai  ở  đây được tính riêng cho từng nhóm hàng theo thời gian .Mô hình  kinh tế lượng : tự hồi quy vecto VAR hay mô hình tính toán lạm phát Quah­Vahey…cũng đã được  tính thử tại một số nước. Mô hình này có ưu thế là dựa trên lý thuyết tiền tệ nhưng các giả thuyết  xây dựng mô hình lại không sát với thực tế.       Phương pháp tính lạm phát cơ bản cũng cần tính thử, kiểm nghiệm bằng dự báo ngắn hạn và  trung hạn cho các phương pháp như : Phương pháp điều chỉnh cụ thể : điều chỉnh thời vụ, thuế gián thu và các mặt hàng nhà nước quản   lý, ngoài ra có thể áp dụng kết hợp với phương pháp loại trừ  mặt hàng do nhà nước quản lý giá,   lương thực phẩm, nhiện liệu , năng lượng ra khỏi rổ tính hàng hóa CPI ( phương pháp này thường   dùng để công bố); Một số  phương pháp thống kê thuần túy bao gồm : tính trung vị  , trung bình lược bỏ  có quyền   7
  8. [Type text] số/không có quyền số  hay phương pháp tính lại quyền số  mới hay phương pháp bình quân gia  quyền nghịch đảo độ  lệch chuẩn hoặc phương sai ( những phương pháp này thường sử  dụng nội  bộ để nghiên cứu và phân tích);Phương pháp sử dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích, tính   toán và dự báo lạm phát cơ bản cũng nên tính thử nghiệm sử dụng nội bộ để  nghiên cứu và phân  tích. Khi tính toán, lựa chọn , dự  báo được lạm phát cơ  bản thì ngân hàng nhà nước có thể  chủ  động   tiến hành lượng hóa mục tiêu ổn định lạm phát gắn liền với thực thi chính sách tiền tệ. 1.4. Những ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Đối với các quốc gia đang phát triển: Tác hại dễ thấy nhất là lạm phát phủ định (negate) tăng trưởng kinh tế nếu bằng hay cao hơn tăng   trưởng kinh tế. Ví dụ theo World Factbook, nếu một nền kinh tế tăng trưởng kinh tế ở mức 8.4%  nhưng tỉ lệ lạm phát lên tới 8.3%. Như vậy, trung bình người dân có thu nhập cao hơn 8.4% nhưng  đời sống sinh hoạt mắc hơn 8.3% cùng thời kỳ thì coi như cũng không tích lũy được gì. Tiêu chuẩn  đời sống không được cải thiện bao nhiêu. Nếu không có biện pháp ngăn chận, lạm phát sẽ làm tê   liệt dần bộ máy kinh tế vì doanh nhân sẽ không thiết tha hoạt động sản xuất nữa vì không có lợi   nhuận. Tâm lý chung sẽ chỉ mua bán “chụp giựt” và chuyển tài sản thành kim loại quý hay ngoại   tệ mạnh để tránh lạm phát. Điều này rõ ràng không có lợi cho sự xoay vòng của đồng tiền để phát   triển nền kinh tế.       Đối với các quốc gia công nghiệp (industrialized countries) mà xã hội đã chuyển qua dạng xã  hội tiêu thụ rồi thì lạm phát tác hại theo một qui trình ba bước: Lạm phát (inflation) ­ Giảm phát (deflation) – Suy thoái kinh tế (economic recession). Lạm phát không kiểm soát nổi sẽ đưa đến tình trạng giá thành các mặt hàng tăng cao. Giá hàng hóa   lên cao sẽ làm giảm nhu cầu tiêu thụ. Hàng hoá trở nên dư thừa và ế ẩm. Để sống còn, công ty sản   xuất phải chịu lỗ, hạ giá bán và thu nhỏ  hoạt động lại. Một số  hãng xưởng sẽ  phải đóng cửa và  công nhân bị  sa thải ra làm nhu cầu chung về  tiêu thụ  lại càng giảm nữa. Đến đây bắt đầu giai   đoạn giảm phát. Hàng hoá sẽ xuống giá cho đến khi nào tìm được một sự quân bình mới giữa cung   cầu. Lúc đó kinh tế  đi vào giai đoạn suy thoái và tiêu chuẩn sống (standards of livings) của người  dân bị giảm sút. 1.5. Các bài học trên thế giới về kiểm soát lạm phát Lạm phát là hiện tượng vốn có của nền kinh tế sử sụng tiền tệ.Ngày nay không có một nền kinh   tế  nào không dùng tiền, và do đó cũng không có một nền kinh tế nào có thể  nói là không có lạm  phát .Lạm phát trong không ít trường hợp đã là một biện pháp phát triển kinh tế , làm tăng nhu cầu,   thúc đẩy các hướng đầu tư  có lợi. Song khi lạm phát vượt quá một giới hạn nhất định, vượt quá  mức tăng thu nhập quốc dân thì nó trở thành một căn bệnh gây nhiều tác hại cho sự phát triển kinh   tế­ xã hội. Ở các nước Tư  Bản Chủ nghĩa phát triển, mức tăng thu nhập quốc dân trung bình hàng năm tuỳ  theo từng nước trong những năm 1970 vào khoảng 3­3.5%, mức lạm phát vào khoảng trên dưới  10%, có nước đã tới trên 20%. Vào những năm 80 này, mức lạm phát  ở  các nước Tư  Bản Chủ  8
  9. [Type text] Nghĩa phát triển nói chung đã giảm xuống trên dưới 3­4%, nghĩa là chỉ cao hơn mức tăng  thu nhập  quốc dân một chút ( khoảng trên dưới 3%). Lạm phát hai chữ số là hiện tượng cá biệt ở các nước   này. Có thể  nói những nước Tư  Bản chủ  nghĩa phát triển đã đạt được những tiến bộ  đáng kể  trong việc chống lạm phát. Ở các nước đang phát triển tình hình lạm phát nghiêm trọng hơn, ở nhiều nước Châu Phi thường   xuyên lạm phát  ở  mức hai con số,  ở  Châu Mỹ  La Tinh – ba con số,  ở  Châu Á mức độ  lạm phát   thấp hơn thường là ở một chữ số. 1.5.1. Hàn Quốc  Trước tình hình lạm phát đầu năm 2008 tại Hàn Quốc, Chính phủ đưa ra mục tiêu bình ổn giá tiêu   dùng và hỗ trợ  các gia đình có thu nhập thấp. Một  ủy ban chống tăng giá và chống đầu cơ  được   thành lập do thứ  trưởng Choi Joong Kyung đứng đầu. Chính phủ  Hàn Quốc giảm giá điện sinh  hoạt và duy trì cho đến năm 2010. Chính phủ cũng quyết định miễn, giảm một số dòng thuế  tiêu   thụ và nhập khẩu; tiến hành hỗ trợ  trên 1,0 tỷ USD cho nông dân vay vốn ưu đãi nhằm tăng mức   cung lương thực và thực phẩm; giảm 50% mức phí giao thông vận tải trên các tuyến đường cao   tốc trong một số  giờ... Các biện pháp tiết kiệm sử  dụng năng lượng của Chính phủ, cải cách   mạng lưới phân phối và dịch vụ, giảm phí dịch vụ y tế, viễn thông... đã được đưa ra, nhằm giảm  chi phí cho người dân.  1.5.2. Trung Quốc Lạm phát tăng cao vào đầu năm 2008 tại Trung Quốc, cao nhất trong 11 năm qua.Nguyên nhân   chính là giá lương thực ­ thực phẩm tăng tới 23,3% so với mức 18,2% đến hết tháng 1/2008. Để  chống lạm phát, Chính phủ Trung Quốc chủ trương ưu tiên thực hiện chính sách tài chính ổn định,   minh bạch và siết chặt chính sách tiền tệ trong năm 2008, hạn chế cung ứng tiền. Chính phủ cũng   ưu tiên các lĩnh vực liên quan trực tiếp tới đời sống nhân dân, cho phép đồng nhân dân tệ  biến   động linh hoạt hơn. Thực ra Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (Trung  ương) đã thực thi chính sách tiền tệ  thắt chặt   ngay từ  năm 2007 với các biện pháp nới lỏng quy định giao dịch ngoại tệ, tăng tỷ  lệ  dự  trữ  bắt   buộc tới 10 lần và thực hiện 6 lần tăng lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng   thương mại, với mức tăng không lớn, để thị trường tiền tệ không bị tác động cũng như không gây   khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Quyết định nới rộng biên độ giao dịch của đồng Nhân Dân tệ so với Đô la Mỹ nhằm kiểm soát lưu  thông tiền tệ và kiềm chế tốc độ cho vay quá mạnh của các ngân hàng thương mại vào bất động  sản. Biện pháp này được phối hợp với quy định tăng mức đặt cọc khi vay tiền mua ngôi nhà thứ  hai, tăng lãi suất cho vay và tăng thuế  lợi tức tiền gửi ngân hàng, hạn chế  tiền đầu tư  vào thị  trường chứng khoán. Theo sau các biện pháp trên, Chính phủ Trung Quốc cũng phát hành tín phiếu   đối với các ngân hàng thương mại nhằm thu hút tiền từ lưu thông về.  Kinh nghiệm của Trung Quốc Để kiềm chế lạm phát, Chính phủ Trung Quốc thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp cả  về tiền tệ,   thị  trường, sản xuất... Báo cáo tại kỳ  họp Quốc hội Trung Quốc đưa ra các nhóm giải pháp cấp   9
  10. [Type text] bách để kiềm chế chỉ số giá tiêu dùng (CPI).  Hỗ  trợ  thúc đẩy phát triển sản xuất, nhất là sản xuất các mặt hàng thiết yếu như: lương thực,   thực phẩm, dầu thực vật, thịt,... Kiểm soát chặt chẽ ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu là lương thực ­ thực phẩm. Đẩy mạnh và kiện toàn hệ  thống dự  trữ, điều tiết xuất nhập khẩu, bình ổn giá thị  trường trong   nước. Thực hiện tốt khâu quản lý và điều tiết, điều hành giá cả, ngăn chặn tình trạng đua nhau tăng giá.  Giám sát việc thu phí và lệ  phí giáo dục, y tế, giá cả  mặt hàng dược phẩm và nguyên nhiên vật  liệu phục vụ nông nghiệp... kiên quyết xử lý các trường hợp liên kết đầu cơ trục lợi.  Hoàn thiện và thực hiện các biện pháp trợ cấp đối với người có thu nhập thấp.  Ngặn chặn kịp thời tình trạng giá cả nguyên nhiên vật liệu leo thang.  1.5.3. Các nước khác trên thế giới Các ngân hàng trung ương mỗi quốc gia như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể  tác động đến lạm   phát ở một mức độ đáng kể thông qua việc thiết lập các lãi suất. Các lãi suất cao (và sự tăng chậm   của cung ứng tiền tệ) là cách thức truyền thống để các ngân hàng trung ương kiềm chế lạm phát,   sử  dụng thất nghiệp và suy giảm sản xuất để  hạn chế  tăng giá. Tuy nhiên, các ngân hàng trung  ương xem xét các phương thức kiểm soát lạm phát rất khác nhau. Ví dụ, một số  ngân hàng theo   dõi chỉ tiêu lạm phát một cách cân xứng trong khi các ngân hàng khác chỉ kiểm soát lạm phát khi nó  ở mức cao. Bên cạnh đó cần xét tới các giải pháp như giảm thuế nhằm giảm chi phí sản xuất để  tăng đầu tư và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu So sánh Chính sách mục tiêu lạm phát của một số nước trên thế giới Hơn một chục năm qua kể từ khi chính sách mô tả lạm phát được biết đến, đã có rất nhiều   quốc gia áp dụng nó. Tuy có những điểm giống nhau vì cùng dựa trên những lý thuyết cơ sở nhưng   chính sách mục tiêu lạm phát của mỗi nước lại mang những mầu sắc khác nhau. Để  có cái nhìn   tương đồng cũng như cở sở so sánh về chính sách mục tiêu lạm phát của các nước này, chúng ta có   thể  nhìn vào bảng dưới đây với những tiêu chí hết sức cơ bản tương  ứng với một số vấn đề  đã  đặt ra .  Bảng 1.2 Quốc gia New Zealand Canada EU Thời điểm áp dụng  chính sách  4/1990 26/2/1991 1/1/1999 mục tiêu lạm phát nhỏ  hơn và gần  Chỉ số lạm phát mục tiêu  0% ­ 3% 1% ­ 3% 2% Tính   độc   lập   của   ngân   hàng Tương đối Đối   tượng   của   học Tuyệt đối 10
  11. [Type text] thuyết “trách nhiệm tay  trung ương đôi” Sự  thoả  thuận giữa Bộ   tài   chính   và     ngân Ngân hàng trung  Cơ   quan   công   bố   lạm   phát  Bộ   tài   chính   và hàng   trung   ương     phối ương   Châu   Âu  mục tiêu chính phủ   . hợp công bố ECB Công cụ đo lường lạm phát CPI CPI HICP HICP   loại   trừ  CPI loại trừ tác động giá  CPI   loại   trừ   tác  tác   động   của  Chỉ số lạm phát cơ bản lương   thực   và   năng  động của lãi suất thực phẩm chưa  lượng chế biến Công bố báo cáo Hàng quý từ 3/1990 Nửa năm từ 5/1995 Hàng tháng Dự báo lạm phát Có Không Không Rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam      Việc nghiên cứu chính sách mục tiêu lạm phát của các nước này có thể gợi ý cho chúng ta một   số vấn đề:           Lựa chọn chính sách mục tiêu lạm phát phải trên cơ sở sau một thời kỳ kiềm chế lạm phát   thành công. Điều này sẽ  giúp tạo ra niềm tin của công chúng vào khả  năng của ngân hàng trung  ương trong việc thực thi các mục tiêu mình đã định ra cũng như tạo tiền đề  cở  sở cho việc kiểm  soát lạm phát về sau. Còn việc sau bao nhiêu năm  thì phải phụ thuộc vào điều kiện của từng quốc   gia cụ thể, khi thấy mình đã hội tụ đầy đủ  những yếu tố  có thể  thực hiện thành công chính sách   mô tả lạm phát thì chính thức công bố. Bởi vì một khi đã công khai công bố thì phải bằng mọi cách  đạt được, nếu không sẽ gây mất niềm tin với công chúng.          Chỉ số CPI và chỉ số lạm phát cơ bản – song song sử dụng. Mặc dù như đã nói ở trên chỉ số  CPI có nhiều  ưu điểm nhưng một nhược điểm lớn là nó lại bao gồm cả  những yếu tố khiến giá   cả biến động trong ngắn hạn mà có thể nhanh chóng mất đi sau đó nên bên cạnh đó các ngân hàng   trung  ương đều sử  dụng thêm chỉ  số  lạm phát cơ  bản vì cho rằng chỉ  số  này mới thể  hiện bản  chất xu hướng biến động của giá cả và giúp ngân hàng trung ương có thể nhìn nhận về tình trạng   lạm phát chính xác hơn.          Chính sách mục tiêu lạm phát phải có tính linh hoạt cao. Đây là một vấn đề quan trọng, bởi   vì các biến cố kinh tế, chính trị, xã hội biến đổi không lường, dẫn đến những phản ứng khác nhau  của nền kinh tế vào từng thời kỳ, rất cần thiết phải cho ngân hàng trung ương những sự linh hoạt  nhất định để họ có thể phản ứng lại các biến động này một cách có hiệu quả.           Chính sách mục tiêu lạm phát phải có sự công khai minh bạch và gắn liền với trách nhiệm  cao của ngân hàng trung ương. Điều này có tác dụng là khi mà các chủ thể khác trong nền kinh tế  biết được ngân hàng trung  ương đang làm gì, chính sách tiền tệ  đang  ở  đâu thì những sự  dự  tính   của họ  về  các nhân tố  có liên quan đến lạm phát sẽ  gần hơn với những gì mà ngân hàng trung  ương mong muốn và tỷ lệ lạm phát trong dài hạn sẽ rơi vào khung mục tiêu đã đặt ra.           Chính sách mục tiêu lạm phát không được phép xung đột với các chính sách kinh tế vĩ mô   11
  12. [Type text] khác. Ngoài chính sách tiền tệ, bất cứ quốc gia nào cũng còn phải thực hiện nhiều các chính sách   kinh tế  vĩ mô khác. Việc đặt ra các chính sách chồng chéo và xung đột lẫn nhau tất sẽ  gây ra   những khó khăn cho các cơ quan chủ quản trong việc thực thi các chính sách này. Vì vậy ngay từ  khi hoạch định chúng ta đã phải cố  gắng làm sao cho các chính sách này không có xung đột với   nhau mới tạo ra những thuận tiện trong quá trình thực hiện sau này.   Dự  báo lạm phát ­ nhân tố  góp phần trong thành công của chính sách mục tiêu lạm phát.  Tất nhiên không phải bất cứ quốc gia nào cũng thực hiện dự báo lạm phát, và cũng không phải bắt   buộc phải dự báo lạm phát mới đem đến thành công cho chính sách mô tả lạm phát , nhưng có thể  dự báo trước được những gì có thể xẩy ra cũng không phải là tồi. Nó sẽ góp phần giúp ngân hàng   trung ương có được cái nhìn tốt hơn và không bị bất ngờ trước những gì mà mình sẽ phải đối mặt  và vì thế đưa ra được những biện pháp ứng phó. PHẦN  II: THỰC TRẠNG VỀ  TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI   GIAN QUA 2.1. Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của VN trong thời gian vừa qua.        Tốc độ tăng GDP có thể nói là khởi sắc. Nợ nước ngoài thấp. Khả năng trả nợ không có vấn   đề. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã mở rộng thêm khả  năng gắn bó và mở  rộng thị  trường với   kinh tế thế giới mà không còn bị vấn đề  chính trị ngăn cản. Sự hồ hởi của người nước ngoài với   nền kinh tế  Việt Nam là chưa từng thấy. Điều này đã phản ánh qua luồng ngoại tệ  đổ  vào Việt   Nam cao nhất từ xưa đến nay từ đầu tư trực tiếp đến đầu tư  gián tiếp qua việc mua cổ phiếu và  trái phiếu Việt Nam. Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng Việt Nam 2003­2008 Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tốc   độ  7.3% 7.8% 8.4% 8.2% 8.3% 8.2% tăng GDP Đồ thị 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2003­2008 12
  13. [Type text] 8.60% 8.40% 8.20% 8.00% Tốc độ tăng GDP 7.80% 7.60% 7.40% 7.20% 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 ( Nguồn tổng cục thống kê) Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn đạt mức cao (trung bình xấp xỉ 8%/năm) và   luôn là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới.  Bảng 2.2 : Tốc độ tăng nguồn vốn FDI Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 FDI 2.6 2.8 6 12 20.3 ­ (Tỷ USD) Nguồn: Ministry of Foreign Affairs (Bộ ngoại giao)            Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt kể từ năm 2006, năm đánh dấu sự kiện Việt Nam   gia nhập WTO, trong vòng 3 năm từ năm 2004­2007, FDI đổ vào Việt Nam đã tăng lên gấp 8 lần.   Khi các hoạt động đầu tư  tăng lên mạnh mẽ, trong giai đoạn đầu, hoạt động nhập khẩu nguyên   vật liệu, thiết bị  cần thiết cũng sẽ  theo đó tăng mạnh. Và sau đó, khi giai đoạn bùng nổ  đầu tư  tạm lắng xuống, các kết quả (sản phẩm) phần lớn sẽ được xuất khẩu ngược lại thị trường nước  ngoài. Việc các doanh nghiệp nước ngoài đẩy mạnh đầu tư  vào Việt Nam thông qua FDI là yếu  tố hết sức quan trọng đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu từ đó mở ra cơ hội kinh doanh khổng   lồ cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực vận chuyển. Bảng 2.3 : Tình hình cán cân thương mại 2003­2008 Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Cán cân thương mại ­4.9% ­3.4% ­0.9% ­0.3% ­3.2% ­3.2% Nguồn: Ministry of Foreign Affairs (Bộ ngoại giao)         Năm 2007 số ngoại tệ đưa vào Việt Nam mà ngân hàng nhà nước mua vào đã trên 9 tỉ  đô la.  Việt Nam đang tìm cách quản lý tình hình phức tạo này.Ngoại tệ vào nhiều đã tạo ra hai vấn đề :         Số cung ngoại tệ nhiều sẽ làm ngoại tệ mất giá , hay nói cách khác, tiền đồng lên giá đối với   ngoại tệ . Làm ảnh hưởng đến xuất khẩu , mất cân đối cán cân thương mại.         Việc phát hành tiền đồng để đổi ngoại tệ sang tiền đồng đã làm tăng số cung tiền đồng trên   thị trường dẫn đến lạm phát tăng cao, vấn đề  phát hành lượng lớn tiền đồng ra thị trường  nhằm  13
  14. [Type text] mục đích tăng chi tiêu nhà nước, nhất là vào đầu tư  để  chạy đua lập thành tích đạt con số  tăng   GDP cao. Do đó không thể  đánh đồng tỷ  lệ  tăng GDP cao với tỷ  lệ  phát triển kinh tế. GDP cao   nhưng tình hình lạm phát còn tăng cao hơn, chất lượng xây dựng thấp kém, ô nhiễm môi trường  nặng nề, tăng tỷ lệ nghèo   2.2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua Bảng 2.4 :  Tình hình lạm phát giai đoạn 2003 – 2007 Năm 2003 2004 2005 2006 2007 lạm  9.50% 9.40% 8.40% 6.60% 12.60% phát Đồ thị 2 :Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2003­2007 14.00% 12.60% 12.00% 10.00% 9.50% 9.40% 8.00% 8.40% 6.60% lạm phát 6.00% 4.00% 2.00% 0.00% 2002 2003 2004 2005 2006 2007 ( nguồn bộ tài chính) Từ năm 2003 đến đầu năm 2006 .Năm 2003­2004 tỷ lệ lạm phát nước ta 9.5%­ 9.4%, cao hơn mức   tăng trưởng kinh tế  (7.3%­7.8%) .Trong 6 tháng đầu năm 2004 có thể  thấy rõ được lạm phát  ở  nước ta là lạm phát tiền tệ hay lạm phát giá cả, cũng như hiểu  thêm về tình hình lạm phát chung  của khu vực. Trong bối cảnh giá cả một số mặt hàng nhạy cảm của thế giới, đặc biệt là trong khu   vực tăng đáng kể trong thời gian gần đây, như giá xăng dầu tăng cao nhất trong nhiều năm qua, giá   phôi thép biến động mạnh, giá gạo xuất khẩu tăng khá, tới mức 43% trong vòng 1 năm. Giá các   mặt hàng khác, như: phân bón, nguyên liệu nhựa, bột giấy, cao su, ... cũng tăng lên. Nhiều quốc gia   trong khu vực bị  ảnh hưởng của tình hình biến động của thị  trường, nên lạm phát cũng gia tăng.   Cùng với dịch cúm gia cầm làm cho lạm phát năm 2004 vẫn cao, bước sang năm 2005 tỷ  lệ  lạm   phát chỉ còn 1 con số .Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) công bố Báo cáo cho rằng việc kết  thúc thành công các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại  Thế giới của Việt Nam (WTO)  là điều chủ  yếu để  giữ  vững đà tăng trưởng. Nó giúp Việt Nam giảm thiểu khó khăn đối với  ngành dệt may ­ vẫn còn chịu hạn ngạch xuất khẩu trong năm 2005 trong khi các đối thủ  cạnh   tranh khác đã là thành viên của WTO rồi lại không phải theo hạn ngạch. Cùng với việc sử  dụng  chính sách thắt chặt  tiền tệ hiệu quả của nhà nước và chính phủ lạm phát vào năm 2005 là 8.4% ,  và tốc độ tăng trưởng vào năm 2005 là 9.4% cao hơn so với tỷ lệ lạm phát đó là một dấu hiệu khởi  14
  15. [Type text] sắc cho nền kinh tế.Vào bốn tháng đầu năm 2006 tốc độ  tăng giá tiêu dùng cao hơn nhiều so với   cùng kỳ năm ngoái dẫn đến tình trạng cảnh báo lạm phát ở  nước ta , từ đó tìm những biện pháp   tích cực để kiềm chế lạm phát. Cuối năm 2006 đến cuối năm 2007 đô­la Mỹ bị mất giá mạnh trên thị trường thế giới, lãi suất của   nó liên tục giảm; trong thời gian đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách duy trì tỷ  giá tiền đồng   thấp; đầu năm 2007 nước ta chính thức gia nhập WTO. Đầu năm 2008 do biến đổi về  khí hậu đã   gây thiệt hại cho cây trồng và gia súc đẩy giá lương thực thực phẩm lên cao.Cùng lúc đó chính phủ  đã tăng giá xăng dầu lên 36%.Để đối phó với áp lực lạm phát gây ra thì tiền lương của công nhân   viên chức cũng đã được tăng lên vào tháng giêng 2008.Giá lương thực và nhà  ở  leo thang đã làm   cho lạm phát đạt tới mức 19.4%   năm qua ,vào tháng 3 mức cao nhất trong hơn 1 thập kỉ  qua.  Chính sách thắt chặt tiền tệ  được áp dụng để  dần dần đẩy lạm phát về  mức  ổn định hơn trong   quý 2 năm 2008. Nhưng có lẽ  lạm phát còn nằm trong phạm vi 16% vào tháng 12 .Mức lạm phát   trung bình được dự báo là khoảng 18.3% năm 2008  và 10.2% năm 2009 2.3. Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát       Trong những năm qua lạm phát  ở  Việt Nam diễn biến rất phức tạp .Có thể  nói lạm phát lên   đến mức hai con số vào năm 2007 là cao nhất trong 12 năm qua mà nguyên nhân sâu xa là do việc   điề  hành chính sách tài chính và tiền tệ  có nhiều bất  ổn, trong điều kiện kinh tế  thị  trường chưa   phát triển đẩy đủ, có thể tóm tắt nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam như sau : 2.3.1  Việc áp dụng phương pháp tính chỉ số CPI ở Việt Nam       Chỉ số giá tiêu dùng là một tỷ số phản ánh giá của rổ hàng hóa trong nhiều năm khác nhau so  với gia của cùng rổ hàng hóa đó trong năm gốc. Chỉ số giá này phụ thuộc vào năm được chọn rổ  hàng hóa tiêu dùng. Nhược điểm chính của chỉ số này là mức độ bao phủ cũng như sử dụng trọng   số cố định trong bài toán .Mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới hạn đối với một số hàng hóa  tiêu dùng và trọng số cố định dựa vào tỷ phần chi tiêu đối với một số hàng hóa cơ  bản của người  dân thành thị mua vào năm gốc. Những nhược điểm mà chỉ  số  này gặp phải khi phản ánh giá cả  sinh hoạt là không phản ánh sự biến động của giá hàng hóa tư bản ; không phản ánh sự  biến đổi   trong cơ cấu hàng tiêu dùng cuãng như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng cho   những hàng hóa khác nhau theo thời gian. Việt Nam trong những năm qua cũng sử  dụng chỉ  số giá tiêu dùng (CPI) để  tính tỷ  lệ  lạm   phát và sử  dụng nó cho mục đích điều hành chính sách tiền tệ  .Ngoài những nhược điểm như  đã   phân tích ở trên , việc điều hành chính sách tiền tệ , chỉ số này không phản ánh được tình hình lạm   phát vì nó thường xuyên dao động. Sự giao động trong ngắn hạn đôi khi không có liên quan gì đến   áp lực lạm phát căn bản trong nền kinh tế  và việc sử  dụng chỉ  số  này làm mục tiêu điều hành  chính sách tiền tệ có thể dẫn đến sai lệch trong chính sách.  Ở Việt Nam theo phương pháp tính CPI hiện nay, giá cả của nhóm hàng lương thực chiếm   quyền số lớn nhất, tới 47.9% trong rổ hàng hóa tính CPI .Trong các năm trước đây , mặc dù nhiều  nhóm mặt hàng khác có biến động tăng đáng kể, nhưng nhóm mặt hàng lương thực thực phẩm ,  nhất là lúa gạo , giá cao su, cà phê , hạt đều , thịt heo, rau hoa quả biến động thất thường. Trong   15
  16. [Type text] các năm 1997, 1999, 2000, các mặt hàng lương thực thực phẩm giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đã làm   cho chỉ  số  CPI  ở  mức thấp , thậm chí là âm .Nhưng trong năm 2007 nhóm mặt hàng lương thực   phẩm tăng…đã tác động làm gia tăng chỉ số CPI nói chung  => Do đó nếu loại bớt được sự tăng giá   đột biến gây nên những tác động lớn trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm phát không cao như đã  công bố.Ta có biểu đồ  chỉ  số  giá tiêu dùng , chỉ  số  giá vàng và USD của các tháng năm 2007­ 2008so với kỳ gốc 2005 (%). Đồ thị 3 : Thể hiện CPI, USD, Vàng 2007­2008 % 250 200 150 CPI Vàng 100 USD 50 0 Tháng 7 07 7 07 08 7 07 8 ­0 ­0 ­0 ­0 ­ n­ p­ n­ l ov ay ar ar Ju Se Ja Ja M M M N 2.3.2. Mức cung tiền tăng cao vào năm 2007 Năm 2007 Việt Nam gia nhập WTO gia nhập vào môi trường mới , áp dụng nhiều chính sách mở  cửa thương mại quốc tế .Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đẩy lượng cung ngoại  tệ lên cao. Để thu hồi số ngoại tệ về ngân hàng trung ương chính quyền đã bỏ tiền Việt Nam ra   mua ngoại tệ . Số tiền đó quá lớn dẫn đến tình trạng dư thừa nội tệ trên thị  trường và là nguyên   nhân dẫn đến lạm phát . Từ  năm 2003­2007 số  lượng tiền  ở  Việt Nam tăng quá nhanh so với số  lượng hàng hóa và dịch  vụ .Số tiền lưu hành tăng khoảng 25% mỗi năm, số tín dụng tức số tiền cho vay tăng khoảng trên   35% .Trong khi đó số  lượng hàng hóa dịch vụ  mà dân chúng có thể  mua chỉ  tăng dưới 10 % một   năm. Trong năm ngân hàng nhà nước đã bỏ một lượng lớn nội tệ  để  mua ngoại tệ  ( đầu tư  trực  16
  17. [Type text] tiếp và đặc biệt là đầu tư vào thị trường chứng khoán) đã làm cho mức cung tiền tăng cao. Đồ thị 4 : so sánh mức cung tiền của việt Nam với Trung Quốc và Thái Lan (Nguồn: Số  liệu Thống kê tài chính quốc tế  của  Tổ  chức Tiền tệ  Quốc tế, riêng số  liệu tăng  trưởng   GDP   6   tháng   đầu   năm   2007   của   Việt   Nam   và   Trung   Quốc lấy   từ   nguồn   Economist  Intelligent Unit.)            Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tinh t ́ ừ đâu năm 2005 cho đên cuôi thang 6 năm 2007, ̀ ́ ́ ́   GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền măt cho l ̣ ưu thông va tiên g ̀ ̀ ửi ngân hang đa tăng ̀ ̃   lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ  tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan hâu nh ̀ ư không đang kê. ́ ̉           Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn  rất nhiều. Đo chinh la ly do chính đ ́ ́ ̀ ́ ể  giai thich tai sao lam phat  ̉ ́ ̣ ̣ ́ ở  Viêt Nam cao h ̣ ơn hăn nh ̉ ững  nươc khac. Gia gao hay gia dâu thê gi ́ ́ ́ ̣ ́ ̀ ́ ới co tăng cao bao nhiêu, thi s ́ ̀ ức ep cua các y ́ ̉ ếu tố này tới lam ̣   ́ ở Viêt Nam, Trung Quôc va Thai Lan không thê khac nhau nhiêu. phat  ̣ ́ ̀ ́ ̉ ́ ̀ 2.3.3. Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. Đối với đầu tư công  thì đây là một vấn đề  lớn tồn tại hàng chục năm chưa giải quyết được. khi   nói đến lạm phát người ta thường nhắc đến yếu tố  tiền tệ  mà không chú ý đến vấn đề  đầu tư,  đặc biệt là đầu tư  công, tức là đầu tư của nhà nước, sử dụng tiền rất lớn nhưng đa số  lại không   phát huy hiệu quả cũng như làm thất thoát rất nhiều theo số liệu thống kê cho thấy năm 2007 đầu  tư  công chiếm 200.000 tỷ  trong số  461.000 tỷ  đồng đầu tư  của toàn xã hội. vì vậy một trong   những nguyên nhân sâu xa của tình trạng lạm phát hiện nay là sự thất thoát và lãng phí trong đầu  tư công, hàng năm các chuyên gia đều có khuyến cáo nhưng những nhà làm chính sách hình như coi   nhẹ vấn đề này. Nguyên nhân nữa là các khoảng đầu tư  không hiệu quả  của nhiều công ty quốc  doanh lớn hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Nếu con số này chính xác thì tronh năm qua đã có 60.000   tỷ đồng lãng phí đang nằm trong lưu thông, làm trầm trọng thêm tình hình lạm phát. Thâm hụt ngân  17
  18. [Type text] sách 5,8% GDP trong khi theo kinh nghiệm quốc tế, thâm hụt 3% đã đáng lo ngại. thâm hụt thương   mại ước chừng 12 tỷ USD, tức khoảng 16% GDP trong khi mức 5­10% đã là đáng lo ngại đối với  quốc tế. Chưa kể  những khoản đầu tư  nước ngoài được rót vào những dự  án mà hiệu suất kinh tế  khá   thấp.Một nghiên cứu gần đây của các nhà kinh tế  học harvard (mỹ) chỉ  số  ICOP của Việt Nam   năm 2007 là 4.7 ; nghĩa là trong nền kinh tế của chúng ta muốn tăng 1% GDP thì phải tăng 4.7%   vốn đầu tư. Đó là chỉ  số  quá cao so với ICOP thông thường của nước, chỉ  từ  1.2 đến 2 mà thôi.   Việc sử dụng vốn không hiệu quả cũng góp phần làm gia tăng lạm phát như hiện nay. Vì mục tiêu   phải duy trì tăng trưởng Việt Nam đã phải đầu tư  nhiều hơn   các  nước  khác  và tăng cung tiền  nhiều hơn.và đương nhiên lạm phát cũng vì đó mà tăng lên. Có thể  nói, lạm phát hiện nay là kết   quả của chính sách tìm mọi biện pháp ngắn hạn (mà chủ yếu là thông qua gia tăng chi tiêu công và   đầu tư) để kích thích tăng trưởng của nhiều năm trước trong khi ICOP không được cải thiện.     2.3.4. Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng mạnh. Tổng phương tiện thanh toán tăng 20% ­ 30% và dư  nợ  cho vay nền kinh tế  tăng 18­22% so với  năm 2006 cùng với nhiều cơ  chế, chính sách đi kèm.Tổng phương tiện thanh toán cả  năm 2007   tăng cao hơn nhiều năm trước: tăng khoản 37% so với năm 2006, cao hơn mức tăng trung bình của   thời kỳ 2001­ 2007 (xem đồ thị 2.1.2). Như vậy, nếu so với chỉ tiêu đề ra đầu năm thì tốc độ  tăng  tổng phương tiện thanh toán năm 2007 quá cao, vượt 80% so với kế hoạch. Đây là con số  nói lên   lượng cung tiền tệ  tăng quá mức cần thiết của nền kinh tế.Tuy nhiên, trong vấn đề  này, có thể  khẳng định là cả  nguyên nhân khách quan và chủ  quan. Nguyên nhân khách quan là do năm 2007,   lượng ngoại tệ vào nhiều thông qua con đường FDI, FII và kiều hối chuyển về, xuất khẩu tăng…   về nguyên nhân chủ quan phải thừa nhận chúng ta chưa chú trọng đúng mức việc thắt chặt tiền tệ  ngay từ  đầu năm mà đôi khi lại áp dụng chính sách có phần nới lỏng như  phát hành tiền ra quá  mức để mua ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại tệ một cách ồ ạt như trong 6 tháng đầu năm 2007.  Theo kinh nghiệm nhiều năm trước đây thì tổng phương tiện thanh toán tăng ở  mức 20 – 30% so   với năm 2006 Như kế hoạch đề ra là phù hợp. nếu có sự tăng đột biến cung ngoại tệ vào nền hinh   tế thì nên có giải pháp khác, không phải phát hành tiền ra mua ngoại tệ thì sẽ tốt hơn. Đồ thị 5 : tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán   18
  19. [Type text] 40 35 30 25 20 15 10 5 0 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 T ổng phương tiện thanh toán (nguồn : trang web ngân hàng nhà nước) Bên cạnh đó có thể thấy dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn nền kinh tế  năm 2007 cũng  tăng khá mạnh, tăng 37,8%; cao đột biến so với nhiều năm trước đây. Tính chung trong cả  nước,   tính đến hết tháng 11/2007, tổng dư nợ  cho vay và đầu tư  đối với nền kinh tế  của hệ thống NH   tăng gần 34% và ước tính hết năm 2007 tăng tới 37­38% so với cuối năm 2006 và tăng gấp khoảng  2 lần so với mức dự kiến từ đầu năm là 17­21%. Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín   dụng NH trong năm 2007 đó là đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản mà đặc biệt   là các dự án khu nhà ở mới và khu đô thị mới, đầu tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi  trồng hải sản… bên cạnh đó, đối tượng đầu tư  chứng khoán, vàng,tiêu dung… cũng thu hút một   khối lượng rất lớn vốn tín dụng. đây là chỉ tiêu quan trọng đối với kiềm chế lạm phát và phát triển   nền kinh tế.  vấn đề chuyển dịch cơ cấu tín dụng còn chưa đúng hướng và có diễn biến phức tạp,   thể hiện ở chỗ  cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất có xu hướng tăng mạnh, trong khi lĩnh vực   sản xuất lại chưa đáp  ứng được nhu cầu( xem đồ  thị  2.1.3), cụ thể, giá điện tăng 7%, nhiên liệu  tăng 7,8%. Tuy nhiên, đây chỉ là hiệu ứng một lần, không phải là liên tục. Đồ thị 6 : tăng trưởng dư nợ cho vay ngành ngân hàng 2004­2007 ( Nguồn : ESP research) Theo tin từ  ngân hàng nhà nước chi nhánh TP.HCM , dư  nợ  bất động sản của các ngân hàng cổ  phần trên địa bàn đang được ở mức khá cao, xấp xỉ 10% trên tổng dư nợ, số liệu chưa đầy đủ cho   thấy khoảng 40.000 tỉ đồng đã đổ  vào thị  trường bất động sản trong năm qua vì vậy, nếu không   19
  20. [Type text] thận trọng nguy cơ “bong bóng” tín dụng bất động sản có thể xảy ra. 2.3.5. Do cầu kéo                                                   Đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết   bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước   ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong   một bộ phận dân cư nhũng nhu cầu mới cao hơn. Tuy nhiên, trong nước hai năm 2006­2007, thiên   tai, dịch bệnh gây thiệt hại rất nặng nề (thiệt hại kinh tế khoảng 33.600.000 tỷ đồng) đã làm ảnh   hưởng lớn đến giá lương thực, thực phẩm. trong khi đó nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng, làm cho   mặt bằng giá cả của nước tăng đột biến. mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản vào năm  2007, nhu cầu xây dựng tăng cao, dẫn đến giá cả của nguyên vật liệu xây dựng, sắt thép, các mặt   hàng trang trí nội thất tăng giá. Một diễn biến khác xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất   khẩu gạo của Việt Nam được cải thiện, khối lượng gạo xuất khẩu gia tăng, thị trường xuất khẩu   thuỷ sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá cả của các mặt hàng lương thực thuỷ sản tăng lên.  Tất cả  các yếu tố  nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số  hàng hoá và dịch vụ, nhất là   lương thực thực phẩm tăng theo. Giá lương thực, thưc phẩm cuối năm 2007 tăng 18,92% so với   cuối năm 2006. Đây lại là nhóm hàng chiếm tỷ trọng 42,85%, tỉ trọng lớn nhất, trong rổ giá hàng   hoá được khảo sát.          Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị  trường   thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng lên   15% so với năm 2006) kéo theo cầu về  lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Tong khi đó,  nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bênh không thể tăng kịp =>Tất cả  các yếu   tố  nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số  hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực   phẩm tăng thêm. Cuối năm 2007, giá lương thực thực phẩm tăng 18,92% so với cuối năm 2006.  đây lại là nhóm hàng chiếm tỉ trọng lớn 42,85% trong rổ giá  hàng hoá được khảo sát. 2.3.6. Do chi phí đẩy. Nhân tố  chủ  yếu do giá cả  các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị  trường Thế  Giới tăng   lên, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, phân đạm ure, bột giấy, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế  …, giá sắt thép tăng là do ngành xây dựng và cơ khí chế tạo tăng chi phí. Nguyên vật liệu tăng giá   nên một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên. Đặc biệt là sự  biến động lớn của thị  trường bất  động sản năm 2007, hệ luỵ của nó là vô cùng lớn. đáng lẽ  các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh   tế đặc biệt là trong dân cư phải được tập trung để đầu tư  phát triển sản xuất thì nay, mọi người   dùng tiền để kinh doanh bất động sản gây rối loạn thị trường, đẩy giá bất động sản tăng cao. Do  vậy giá thuê mặt bằng để  sản xuất, thuê cửa hàng để kinh doanh tăng lên tương ứng, đẩy chi phí  sản xuất lên cao. Bên cạnh đó, dưới tác động của quá trình ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nên ảnh   hưởng từ  giá thế  giới đến Việt Nam cũng nhanh và rất rõ nét. Việt nam đang nhập khẩu nhiều  nguyên liệu đầu vào cho sản xuất như 100% xăng dầu, 70% nguyên liệu dệt may, nhiều vật tư cơ  bản khác như phôi thép, phân bón …Đây là những mặt hàng tăng giá mạnh trong thời gian qua.  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
24=>0