Tiểu luận: Thực trạng về phá sản tại Việt Nam hiện nay
lượt xem 41
download
Tiểu luận: Thực trạng về phá sản tại Việt Nam hiện nay được nghiên cứu với mong muốn làm rõ cơ sở lý luận và việc áp dụng cơ sở lý luận đó thông qua tìm hiểu tình hình thực trạng phá sản ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét đánh giá và giải pháp cho việc áp dụng thủ tục phá sản. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết tài liệu. Hi vọng tài liệu sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu của mình.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tiểu luận: Thực trạng về phá sản tại Việt Nam hiện nay
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................... 2 LƠI M ̀ Ở ĐÂU ̀ .................................................................................................................................. 3 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG ............................................................................................. 6 1.1.Khái niệm................................................................................................................................................ 6 1.1.1.Theo từ điển bách khoa........................................................................................................................6 1.1.2.Theo luật phá sản 2004.........................................................................................................................7 1.1.3.Theo một số nước khác trên thế giới....................................................................................................8 1.1.3.1.Pháp luật về phá sản ở Pháp........................................................................................................8 1.1.3.2.Pháp luật về phá sản ở Liên bang Nga.......................................................................................10 1.2.Vai trò.................................................................................................................................................... 10 1.2.1. Vai trò của pháp luật phá sản nhìn từ góc độ lợi ích của chủ nợ. ...................................................10 1.2.2. Vai trò của pháp luật phá sản đối với con nợ....................................................................................12 1.2.3.Vai trò của pháp luật phá sản đối với người lao động.......................................................................17 1.2.4.Vai trò của pháp luật phá sản đối với nền kinh tế..............................................................................17 CHƯƠNG II: THỰC TIỄN PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM ............................................................. 19 2.1.Giai đoạn từ năm 1993 đến 2004......................................................................................................... 19 2.2.Giai đoạn từ năm 2004 đến nay.......................................................................................................... 20 2.2.1.Sự sàng lọc tất yếu của chuyển đổi...................................................................................................20 2.2.2. Những con số cụ thể..........................................................................................................................21 CHƯƠNG III: NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP ............................................................................. 23 3.1.Nhận xét................................................................................................................................................ 23 3.1.1.Thiếu nhận thức...................................................................................................................................24 3.1.2.Luật phá sản còn phức tạp.................................................................................................................25 3.2.Giải pháp............................................................................................................................................... 27 3.2.1.Cần thay đổi cách nhìn về hiện tượng phá sản.................................................................................27 3.2.2.Cần có một hệ thống tư pháp đủ mạnh..............................................................................................28 3.2.3.Hoàn thiện hơn pháp luật phá sản......................................................................................................30 KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 32 DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT WTO: World Trade Organization_ Tổ chức thương mại thế giới. Phá sản và giải quyết tranh chấp 1
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam HTX: Hợp tác xã HNCN: Hội nghị chủ nợ BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự DN: Doanh nghiệp ̣ ́ ̉ LPS: Luât pha san TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật phá sản 2004 và văn bản hướng dẫn thi hành 2. Pháp luật phá sản PGS.TS Dương Đăng Huệ 3. Giáo trình Luật thương mại, tập 1 (NXB. Công an nhân dân, Hà Nội – 2009 4. Tạp chí điên tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ 5. Diễn đàn kinh tế Việt Nam 6. Phạm Duy Nghĩa Tạp chí Tia Sáng 7. Khóa luận tốt nghiệp “Những tiến bộ và hạn chế của Luật phá sản 2004” (Đôn Minh Tiến). 8. http://diendankienthuc.net/diendan/luatkinhtethuongmai/77026vaitro cuaphapluatphasannhintugocdoloiichcuachuno.html 9. http://sunlaw.com.vn/phasan/timhieuphapluatphasantrenthegioi.aspx 10. http://www.anninhthudo.vn/Kinhdoanh/Hon50000doanhnghiepphasan Hieuungdomino/440084.antd Phá sản và giải quyết tranh chấp 2
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam LƠI M ̀ Ở ĐÂU ̀ 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau khốc liệt từng giờ, từng phút, từng cơ hội. Vì thế các doanh nghiệp có khả năng tài chính yếu, năng lực quản lý không cao, sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh, xoay chuyển nguồn vốn và nợ chưa tốt…sẽ mất thế đứng trong trường kinh tế và hậu quả không thể tránh khỏi là rút khỏi kinh doanh với hai từ “phá sản”. Tuy nhiên tại Việt Nam suy nghĩ và chấp nhận phá sản chưa phải là vấn đề luôn được các nhà quản trị doanh nghiệp và chủ sở hữu dễ dàng chấp nhận. Pháp luật phá sản là bộ phận cấu thành không thể thiếu của pháp luật kinh doanh để đưa ra cách xử lý tốt nhất cho các doanh nghiệp đang gặp phải vô vàng khó khăn và khánh kiệt về tài chính. Theo tâm lý chung hiện nay, thủ tục phá sản thường chỉ được biết đến như một thủ tục đòi nợ tập thể, trong đó vấn đề trọng tâm là bảo vệ và đảm bảo công bằng cho các chủ nợ. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường chúng ta nên thay đổi cách nhìn một cách toàn diện hơn. Pháp luật phá sản hiện đại không chỉ đặt mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ mà đồng thời cũng bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thủ tục phá sản còn được xem là một cơ hội để các doanh nghiệp mắc nợ có thể được phục hồi. Luật phá sản 2004 ra đời được đánh giá như là một cố gắng của các nhà lập pháp trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với tình trạng phá bằng việc khắc phục những hạn chế bất cập của Luật phá sản doanh nghiệp 1993, bổ sung những nội dung mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn 9 năm áp dụng Luật phá sản doanh nghiệp 1993, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, thể chế hóa chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn phát triển mới của đất nước. Chính vì thế việc thực thi hai từ “phá sản” được nâng cao hơn nhưng vẫn ở mức trung bình và chưa phát huy hết tác dụng. Theo khảo sát của cơ quan Tổng cục Thống kê và Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì xu hướng thành lập doanh nghiệp thì ít, thu hẹp, phá sản thì nhiều . Theo nhận xét của Bộ Phá sản và giải quyết tranh chấp 3
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam chủ quản hoạt động đầu tư thì trong 4 tháng đầu năm 2012, chỉ số tồn kho doanh nghiệp tiếp tục tăng cao, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Tính đến hết ngày 30/4/2012, trong tổng số 647.627 doanh nghiệp đã được thành lập, cả nước còn 463.802 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm tỉ lệ 71,6%, có 81.929 doanh nghiệp đã giải thể, 16.075 doanh nghiệp đã đăng ký dừng hoạt động và 85.821 doanh nghiệp dừng hoạt động nhưng không đăng ký. Mức 71,6% doanh nghiệp còn hoạt động trên tổng số đã thành lập từ khi đổi mới kinh tế cho đến nay, theo Bộ Kế hoạch Đầu tư đây là tỷ lệ chấp nhận được ở mức trung bình so với thế giới. Trong khi tại Anh, tỷ lệ doanh nghiệp còn tồn tại sau 3 năm hoạt động cũng chỉ 70%; còn tại Mỹ, tỷ lệ doanh nghiệp tồn tại sau 5 năm hoạt động là dưới 50%.1 Qua các số liệu thống kê và sự so sánh với các nước đã cho thấy được hiệu quả và ý nghĩa thực tiễn của việc áp dụng luật phá sản ở nước ta chưa cao, các doanh nghiệp vẫn rất e dè với hai từ “phá sản” nên dù đang đứng trước vô vàng khó khăn các doanh nghiệp vẫn không muốn nộp đơn xin phá sản. Bài tiểu luận này sẽ rất cần thiết cho việc lý giải nguyên nhân trên cũng như đưa ra giải pháp trên cơ sở lý luận và thực trạng tình hình phá sản tại Việt Nam. 2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích làm rõ cơ sở lý luận và việc áp dụng cơ sở lý luận đó thông qua tìm hiểu tình hình thực trạng phá sản ở Việt Nam. Trên cơ sở đó đưa ra nhận xét đánh giá và giải pháp cho việc áp dụng thủ tục phá sản. Phân tích cơ sở pháp lý để cho thấy khái niệm và đặc điểm của việc áp dụng thủ tục phá sản. Đưa ra những thông số cụ thể về tình hình và thực trạng phá sản của doanh nghiệp. Qua đó cho nhận xét trên phương diện khách quan dưới góc độ của một người học luật và khái quát một số biện pháp cần thiết cho việc hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả, tính thực thi của việc áp dụng thủ tục phá sản trong nền kinh tế hiện nay. 3.Phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu Luật Phá sản vẫn còn khá mới mẻ ở nước ta, tuy nhiên có không ít các văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này. Vì thế bên cạnh nghiên cứu Luật phá sản 2004, bài 1 http://vef.vn/20120506dnthanhlapmoiitphasannhieunothuetang Phá sản và giải quyết tranh chấp 4
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam tiểu luận còn xem xét và so sánh với Luật phá sản doanh nghiệp 1993 cũng như các văn bản liên quan, các văn bản hướng dẫn thi hành. Nghiên cứu cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng của các văn bản trên nhằm đề ra nhận xét và giải pháp cho hướng đi mới của doanh nghiệp. Bài tiểu luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác Lênin và các quan điểm, đường lối, chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp đã và đang đứng trước sự lựa chọn áp dụng thủ tục phá sản. Bên cạnh đó các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như: phương pháp tổng hợp, phân tích,giải thích, phương pháp thống kê, nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn...cũng được áp dụng để làm rõ thực trạng phá sản qua đó giải thích nguyên nhân đưa ra giải pháp. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng vì khả năng có hạn nên bài tiểu luận này chắc chắn còn nhiều điểm thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các bạn, cũng như sự nhận xét của thầy để bài tiểu luận được hoàn thành hơn. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Thầy Nguyễn Ngoc Th ̣ ư, v ́ ới sự hướng dẫn tận tình về cách làm một đề tài nghiên cứu. Cùng với đó là sự giúp đỡ tôi trong quá trình học tập nên tôi mới có thể hoàn thành đề tài này thành công hơn mong đợi. Phá sản và giải quyết tranh chấp 5
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG 1.1.Khái niệm 1.1.1.Theo từ điển bách khoa Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam thì "phá sản là tình trạng một công ti, xí nghiệp do gặp khó khăn về tài chính hay bị thua lỗ, hoặc khi thanh lí xí nghiệp không bảo đảm thanh toán đủ tổng số các khoản nợ đến hạn. Trong trường hợp này, toà án hay một cơ quan tài phán có thẩm quyền tuyên phán xí nghiệp bị ha san. Xí nghi ́ ̉ ệp bị ́ ̉ pha san dù có lỗi hay không, dù đã có tuyên phán vỡ nợ hay không, kể cả trong trường hợp tài sản có còn lớn hơn tài sản nợ mà vẫn không trả được nợ. Phân biệt pha san đ ́ ̉ ơ n ́ ̉ và pha san gian l ận, tuỳ theo lỗi nặng hay nhẹ theo những điều khoản của luật pha san. ́ ̉ ́ ̉ ơn là khi người chủ xí nghiệp phạm lỗi sơ xuất, bất cẩn hay quản lí tồi như pha san đ chi tiêu quá mức, vay mượn tuỳ tiện, thiếu tính toán, có làm một nghề nghiệp không hợp pháp, kế toán không minh bạch, không tôn trọng những nghĩa vụ đã cam kết, không khai báo cho toà án hay cơ quan có thẩm quyền về tình hình ngừng chi trả theo đúng thời hạn luật pháp quy định. Pha san gian l ́ ̉ ận là khi người chủ xí nghiệp cố ý gian trá trong kế toán, giấu bớt tài sản nợ, khai gian tăng tài sản có. pha san gian l ́ ̉ ận bị phạt nặng hơn phá sản đơn. Chế tài pha san áp d ́ ̉ ụng cho cả những người không phải chủ xí nghiệp mắc nợ, nếu người đó phạm một số hành vi gian trá đồng loã với chủ xí nghiệp. Việc pha san có th ́ ̉ ể do chủ xí nghiệp tự nguyện nộp đơn xin pha san, ho ́ ̉ ặc do một hay nhiều chủ nợ có đơn yêu cầu, hoặc do cơ quan có thẩm quyền kiến nghị. Đơn yêu cầu hay kiến nghị pha san ph ́ ̉ ải được cơ quan tài phán có thẩm quyền xét xử và tuyên phán. Phá sản và giải quyết tranh chấp 6
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam Tài sản, tiền vốn của xí nghiệp có thể được đem bán đấu giá để thanh toán nợ cho các chủ nợ". 2 1.1.2.Theo luật phá sản 2004 Điều 3 Luật phá sản quy định: "Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản". Theo hướng dẫn tại mục 2 Phần I Nghị quyết số 03/2005/NQHĐTP thì khi có đầy đủ các điều kiện sau đây, doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng phá sản: Có các khoản nợ đến hạn: các khoản nợ đến hạn phải là các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần (chỉ tính phần không có bảo đảm); đã rõ ràng; được các bên xác nhận, có đầy đủ các giấy tờ, tài liệu để chứng minh và không có tranh chấp; Chủ nợ đã có yêu cầu thanh toán các khoản nợ đến hạn, nhưng doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán. Chủ nợ yêu cầu phải có căn cứ chứng minh là chủ nợ đã có yêu cầu, nhưng không được doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán (như văn bản đòi nợ của chủ nợ, văn bản khất nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã…). Như vậy, một doanh nghiệp, HTX bị coi là lâm vào tình trạng phá sản khi doanh nghiệp, HTX đó có các khoản nợ đến hạn mà các chủ nợ đã yêu cầu phải thanh toán các khoản nợ đó nhưng doanh nghiệp, HTX đó không có khả năng thanh toán. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia khác nhau, do xuất phát từ điều kiện kinh tếxã hội khác nhau nên có thể có các quan điểm tương đối khác nhau về “tình trạng phá sản”. có nước khi xác định tình trạng phá sản, ngoài yếu tố chung, cơ bản, thiết yếu là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn còn phải có thêm một dấu hiệu nữa là thời hạn chậm thanh toán Ví dụ: theo Điều 3 Luật mất khả năng thanh toán của Cộng hòa Liên bang Nga năm 2002, thể nhân pháp nhân chỉ bị coi là đã lâm vào tình trạng phá sản nếu sau ba tháng kể từ ngày đến hạn phải trả mà họ không trả được các nợ đến hạn đó. Sự quy định thêm về thời hạn chậm thanh toán có ý nghĩa nhất định nhằm khẳng định thêm tính trầm trọng của tình trạng mất khả năng thanh toán của con nợ. Ngoài ra một số nước còn bổ 2 http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1_s%E1%BA%A3n Phá sản và giải quyết tranh chấp 7
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam sung thêm một dấu hiệu nữa vào tình trạng phá sản là con nợ không thể thanh toán được một khoản tiền tối thiểu nào đó. Ví dụ: theo Luật Phá sản của Singapore năm 1999, con nợ sẽ bị áp dụng thủ tục phá sản khi không trả được số nợ đến hạn ít nhất 5000$ Singapore; theo Luật mất khả năng thanh toán của Cộng hòa Liên bang Nga năm 2002 thì số tiền đó đối với pháp nhân là không dưới 100.000Rup và đối với cá nhân là không dưới 10.000 rúp; ở Mỹ số tiền này là không dưới 10.000USD. Mục đích của việc quy định này nhằm khuyến khích các chủ nợ và con nợ tự tìm cách giải quyết êm thấm các vụ tranh chấp có quy mô nhỏ bằng hình thức khác thay vì đưa ra Tòa án để giải quyết theo thủ tục phá sản nhằm giúp tiết kiệm thoài gian, công sức, tiền bạc cho các đương sự và nhà nước. 1.1.3.Theo một số nước khác trên thế giới 1.1.3.1.Pháp luật về phá sản ở Pháp Quy định của pháp luật hiện đại về phá sản của Pháp được đưa ra trong các luật năm 1955, năm 1967. Hiện tại, việc giải quyết phá sản ở Pháp được quy định tại Luật ngày 25011985 (được sửa đổi theo Luật Phá sản ngày 20101994). Một trong những đặc trưng của pháp luật phá sản hiện đại của Pháp là khuyến khích sự sống sót của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Pháp luật cũng phân biệt rõ các quyền yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản và sự phân biệt thứ tự ưu tiên các quyền của chủ nợ đối với người mắc nợ. Pháp luật về phá sản của Pháp cũng quy định hai thủ tục: Thủ tục phục hồi và thủ tục phá sản. Luật Phá sản năm 1985 quy định, theo những chứng cứ do người nộp đơn đưa ra, Toà án sẽ quyết định áp dụng thủ tục nào, nếu áp dụng thủ tục phục hồi thì Toà án sẽ chỉ định người giám sát doanh nghiệp. Người giám sát doanh nghiệp sẽ đánh giá khả năng của doanh nghiệp, nếu có khả năng phục hồi, người này sẽ đề nghị Toà án cho áp dụng thủ tục phục hồi. Người đề nghị sẽ xây dựng kế hoạch phục hồi. Trong trường hợp ngược lại, doanh nghiệp sẽ bị làm thủ tục phá sản. Người giám sát doanh nghiệp sẽ xây dựng và chuẩn bị kế hoạch bán doanh nghiệp. Phá sản và giải quyết tranh chấp 8
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 quy định thủ tục phục hồi tư pháp. Thủ tục này cấp cho thẩm phán chỉ trong những trường hợp mà sự phục hồi rõ ràng là có thể, quyền ấn định một giai đoạn giám sát mà thời hạn của nó có thể dao động từ 6 tháng đến 20 tháng. Trong khoảng thời gian này, việc quản lý doanh nghiệp được đặt dưới sự giám sát của Toà án. Kết thúc giai đoạn giám sát, Toà án ra quyết định thanh lý công ty hoặc có thể yêu cầu người mắc nợ và các chủ nợ một kế hoạch phục hồi. Kế hoạch của người giám sát phải được Toà án thông qua và chấp thuận. Trong thời gian thực hiện kế hoạch giám sát, mọi khiếu nại (đòi nợ) đối với doanh nghiệp bị giám sát sẽ tạm ngừng. Toà án sẽ xem xét chấp thuận hoặc không chấp nhận kế hoạch do người được Toà án chỉ định đệ trình mà không cần phải có ý kiến của các chủ nợ. Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 đã có những quy định cụ thể hơn để tạo thêm khả năng có thể bỏ qua quá trình áp dụng thủ tục phục hồi, nếu doanh nghiệp không thể có khả năng phục hồi thì sẽ áp dụng thủ tục thanh toán ngay, còn trong trường hợp áp dụng thủ tục phục hồi thì cũng có những quy định chặt chẽ để hạn chế quá trình giám sát doanh nghiệp. Thực tế này cho thấy họ đã bỏ bớt những giai đoạn không cần thiết giúp nhanh chóng thực hiện được mục tiêu: hoặc là áp dụng thủ tục phục hồi, hoặc là nhanh chóng thanh lý được doanh nghiệp không còn khả năng tồn tại. Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 cũng thể hiện xu hướng thay đổi trong pháp luật phá sản của Pháp. Nếu như trước năm 1994, mục tiêu của pháp luật phá sản “hướng vào người mắc nợ” rất rõ nét với quan điểm rõ ràng là trong tình trạng thất nghiệp cao, khả năng về việc làm và sản xuất phải được đảm bảo bằng mọi biện pháp thì Luật Phá sản sửa đổi năm 1994 đã làm giảm nhẹ mục tiêu hướng vào người mắc nợ, tăng quyền hạn của các chủ nợ và nâng cao tính hiệu quả của quá trình tổ chức lại doanh nghiệp. Khác với Luật Phá sản của Nhật Bản yêu cầu kế hoạch tổ chức lại doanh nghiệp phải được một tỷ lệ nhất định các chủ nợ ở mỗi nhóm chủ nợ thông qua, Luật Phá sản của Pháp cho phép Toà án quyết định chấp thuận hay từ chối kế hoạch do người được Toà án chỉ định đưa ra mà không cần các chủ nợ lớn phải thông qua. Người được Toà án chỉ định có trách nhiệm tư vấn cho các nhà quản lý doanh nghiệp, những người đại diện cho người lao động, các chủ nợ của doanh nghiệp và các cơ quan có liên quan khác Phá sản và giải quyết tranh chấp 9
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam và yêu cầu họ cho biết quan điểm của họ là nên để doanh nghiệp tiếp tục tồn tại hay là thanh toán nó. Nhưng quyết định cuối cùng lại do Toà án quyết định mà không cần sự đồng ý của các chủ nợ. Đây là đặc điểm riêng của Luật Phá sản của Pháp.3 1.1.3.2.Pháp luật về phá sản ở Liên bang Nga Theo quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1992 của Liên bang Nga thì tình trạng phá sản của doanh nghiệp được hiểu là việc mất khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ nợ về thanh toán hàng hóa (công việc, dịch vụ) kể cả việc mất khả năng bảo đảm các thanh toán phải nộp ngân sách và các quỹ ngoài ngân sách do nghĩa vụ của người mắc nợ vượt quá tài sản của mình hoặc do mất cân đối trong cán cân thanh toán của người mắc nợ. Dấu hiệu bên trong về tình trạng phá sản của doanh nghiệp là sự ngừng việc thanh toán bình thường của mình, nếu doanh nghiệp không bảo đảm hoặc rõ ràng không có khả năng thực hiện các yêu cầu của chủ nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày đến hạn thực hiện các yêu cầu đó. Doanh nghiệp bị coi là phá sản kể từ thời điểm Toà án trọng tài công nhận tình trạng phá sản hoặc từ thời điểm doanh nghiệp mắc nợ chính thức tuyên bố phá sản tự nguyện (Điều 1 Luật Phá sản doanh nghiệp của Cộng hòa Liên bang Nga năm 1992). 1.2.Vai trò 1.2.1. Vai trò của pháp luật phá sản nhìn từ góc độ lợi ích của chủ nợ. Trong LPS của đa số các nước đều xác định chủ nợ là các pháp nhân hay thể nhân có các khoản nợ không được trả đúng hạn. Chủ nợ thường được phân thành ba loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có bảo đảm. Khi mới hình thành, LPS chủ yếu được áp dụng cho các thương gia nhằm bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. Ví dụ: LPS đầu tiên của nước Anh đã quy định nhiều biện pháp rất nghiêm ngặt, kể cả bỏ tù con nợ. Đồng thời với quá trình dân chủ hóa các hoạt động kinh tế, nhất là xu thế mở rộng quyền tự do và bình đẳng trong kinh doanh, pháp luật về phá sản ngày càng có xu hướng nhân đạo hóa các biện pháp áp dụng đối với chủ DN bị phá sản, phát triển các quy định nhằm bảo vệ lợi ích của các con nợ. Tuy nhiên lợi ích của các chủ nợ vẫn là mục tiêu bảo vệ hàng đầu. 3 http://sunlaw.com.vn/phasan/timhieuphapluatphasantrenthegioi.aspx Phá sản và giải quyết tranh chấp 10
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam Các chủ nợ của DN là những người có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất trong một vụ phá sản. Do đó, chủ nợ được pháp luật quy định các quyền để họ có thể tham gia bảo vệ lợi ích của mình. Pháp luật cho phép các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX (Khoản 1, Điều 13, LPS 2004). Chủ nợ có quyền khiếu nại về quyết định không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN, có quyền khiếu nại DN về danh sách chủ nợ do tổ quản lí tài sản lập, có quyền khiếu nại về quyết định tuyên bố phá sản DN. Đại diện chủ nợ là thành viên của tổ chức quản lí tài sản. Các chủ nợ có quyền tham gia hội nghị chủ nợ để xem xét, thông qua phương hướng hòa giải tổ chức lại hoạt động kinh doanh của DN hoặc thảo luận và kiến nghị với Thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của DN nếu không có phương án hòa giải hoặc phương án hòa giải không được thông qua (chỉ những chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền biểu quyết tại hội nghị chủ nợ)4 Ngoài ra, vai trò của LPS trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ còn được thể hiện qua quy định tại Điều 31, LPS 2004 : kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, nghiêm cấm DN, HTX cất giấu, tẩu tán tài sản; thanh toán nợ không có bảo đảm; từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ; chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của DN.Bên cạnh đó, sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản DN, HTX phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán trước khi thực hiện những họat động sau: cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng, bán, tặng cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng; chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ mới phát sinh từ hoạt động kinh doanh của DN, HTX và trả lương cho người lao động trong DN, HTX.5 Để bảo vệ tuyệt đối quyền lợi cho các chủ nợ, LPS cho phép chủ nợ không có bảo đảm còn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch của DN, HTX quy định tại 4 Luật Phá sản năm 2004 và văn bản hướng dẫn thi hành (NXB. Chính trị Quốc gia). 5 PGS.TS Dương Đăng Huệ, Pháp luật phá sản của Việt Nam (NXB Tư pháp). Phá sản và giải quyết tranh chấp 11
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam khoản 1,Điều 43 của LPS 2004 vô hiệu. Khi các giao dịch này được tuyên bố vô hiệu thì những tài sản thu hồi được phải nhập vào khối tài sản của DN, HTX. Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản nếu xét thấy việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có lợi hơn cho DN, HTX thì chủ nợ cũng có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng. LPS đã tạo ra một thủ tục pháp lí đảm bảo sự bình đẳng quyền lợi giữa các chủ nợ, không cho phép chủ nợ nào được tự ý xé lẻ đi kiện riêng con nợ để đòi nợ, không một chủ nợ nào được con nợ ưu tiên trả nợ trong khi các chủ nợ khác chưa được trả (trừ chủ nợ có đảm bảo đặc biệt cho món nợ của mình, chủ nợ có tài sản cầm cố, thế chấp). LPS 1993 hạn chế khả năng thu hồi vốn của các chủ nợ. Ví dụ như quy định về nghĩa vụ của chủ nợ phải chứng minh DN, HTX mất khả năng thanh toán vì thua lỗ trong hoạt động kinh doanh khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, quy định thời hạn hai năm thua lỗ hoặc khó khăn trong kinh doanh như là một yếu tố bắt buộc của khái niệm “lâm vào tình trạng phá sản”, quy định về trình tự phục hồi như là giai đoạn bắt buộc trong mọi trường hợp sau khi có quyết định mở thủ tục giải quyết tuyên bố phá sản… LPS 2004 đã khắc phục những hạn chế đó, mở rộng khả năng đòi nợ của các chủ nợ khi đưa ra khái niệm phá sản đã đoạn tuyệt với nguyên nhân khó khăn, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh và thời hạn thua lỗ. Đây là một bước tiến lớn của pháp luật phá sản nước ta, thể hiện sự can thiệp sớm của Nhà nước vào hiện tượng phá sản.6 1.2.2. Vai trò của pháp luật phá sản đối với con nợ Hoạt động kinh doanh là một hoạt động chứa nhiều rủi ro. Do sự biến động của thị trường và các yếu tố khách quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ đến hạn đều có thể sảy ra bất cứ lúc nào với bất cứ nhà kinh doah nào. Mặt khác, một doanh nghiệp bị phá sản có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu đối với xã hội, mà trước hết là đối với người lao động và chủ nợ. Chính vì vậy mà ngày nay, khi các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì vấn đề đầu tiên mà nhà nước quan tâm không phải là tuyên bố phá sản ngay và phân chia tài sản cho chủ nợ mà phải tìm cách giúp đỡ doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản. Điều đó lý giải tại sao, pháp luật của đa số 6 Giáo trình Luật thương mại, tập 1 (NXB. Công an nhân dân, Hà Nội – 2009 Phá sản và giải quyết tranh chấp 12
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam các nước đều quy định nhiều hình thức phục hồi khác nhau để doanh nghiệp lựa chọn và áp dụng. Không giống như ở nhiều quốc gia khác, thất bại trong kinh doanh ở Hoa Kỳ không bị coi là xấu. Trên thực tế, luật phá sản của Hoa Kỳ được xây dựng để sao cho những người thất bại trong kinh doanh lại được khuyến khích tiếp tục theo đuổi công việc kinh doanh của mình. Tác giả viết rằng “Nếu một doanh nhân ở Hoa Kỳ phá sản thì anh ta có thể tiếp tục sống mà không cảm thấy xấu hổ hay phải sống trong nghèo đói tột cùng”.Khả năng có thể bắt đầu lại công việc kinh doanh chính là động lực khiến cho một số người Mỹ sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong kinh doanh, và đây là điều có lợi cho toàn bộ nền kinh tế”.7 Nathalie Martin, Giáo sư Luật của Trường Đại học New Mexico, hiện đang công tác tại Viện Phá sản Hoa Kỳ với tư cách là học giả thường trú của chương trình Robert M. Zinman.8 Hoa Kỳ chủ yếu dựa vào việc sử dụng các nguồn tín dụng của cả tư nhân lẫn doanh nghiệp để bơm vốn cho nền kinh tế. Hoa Kỳ cũng có luật phá sản rất khoan hồng nhằm bảo vệ các cá nhân và doanh nghiệp khi họ lâm vào tình trạng không trả được nợ. Chính vì vậy mà luật phá sản của Hoa Kỳ hỗ trợ cho chủ nghĩa tư bản và sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ thông qua việc khuyến khích doanh nhân chấp nhận rủi ro. Đối với cá nhân chúng ta có hai loại phá sản chính: Loại thứ nhất được quy định tại chương 7 cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể “thanh toán” –được xoá nợ hầu hết các khoản nợ không có thế chấp. Loại phá sản này không giúp cho cá nhân giữ được tài sản của mình trước những khoản nợ có bảo đảm, tức là khi vay người vay phải thế chấp tài sản, chẳng hạn như đất đai, của mình. 7 Khóa luận tốt nghiệp “Những tiến bộ và hạn chế của Luật phá sản 2004” (Đôn Minh Tiến). 8 http://diendankienthuc.net/diendan/luatkinhtethuongmai/77026vaitrocuaphapluatphasannhintu gocdoloiichcuachuno.html Phá sản và giải quyết tranh chấp 13
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam Loại thứ hai được quy định tại chương 13 cho phép cá nhân gặp rắc rối về tài chính có thể trả dần từng phần khoản nợ trong một khoảng ân hạn từ ba đến năm năm. Đến cuối kỳ thanh toán, nếu người vay nợ đã dùng hết thu nhập của mình để trả nợ theo kế hoạch thì số nợ còn lại sẽ bị xóa. Loại này có thể dùng để thanh toán những khoản nợ có bảo đảm quá hạn mà không bị mất tài sản thế chấp. Luật phá sản áp dụng cho doanh nghiệp hơi khác một chút. Một số doanh nghiệp có thể tiếp tục kinh doanh theo quy định tại chương 11 khi họ tái cơ cấu lại các khoản nợ. Vì vậy, khác với hầu hết các quy định về phá sản trên thế giới, luật pháp Hoa Kỳ cho phép một công ty phá sản được tiếp tục hoạt động dưới sự lãnh đạo của đội ngũ quản lý cũ khi công ty này cố gắng tái cơ cấu lại các khoản nợ. Nói cách khác là về mặt cơ bản thì không có sự chỉ định người giám sát công ty. Một số người cho rằng hệ thống này, hệ thống có tên là người vay nợ bị khống chế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm bởi nhiều công ty vẫn được tiếp tục kinh doanh và tài sản của các công ty được bảo vệ. Các doanh nghiệp cũng có thể thanh lý tài sản theo quy định tại chương 7 và sử dụng số tiền thu được để trả cho chủ nợ. Nền kinh tế Hoa Kỳ rất mạnh mẽ và năng động. Nền kinh tế sẽ ngày càng vững mạnh hơn khi có nhiều hoạt động kinh tế. Cấu trúc luật pháp của Hoa Kỳ được tạo ra nhằm khuyến khích mọi người thành lập doanh nghiệp với hy vọng rằng họ sẽ thành công, thuê nhiều nhân công, nộp thuế và vì vậy mà họ sẽ thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế. Chúng ta nhận thấy rằng trong quá trình phát triển thì một số doanh nghiệp sẽ thất bại. Nhưng theo như văn hóa của chúng ta, những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro đối với công việc và tiền bạc của mình (và cả tiền mình đi vay mượn) để có thể thành công thì đều được đánh giá cao. Những ý tưởng này không có gì là mới. Xét về mặt xã hội, người Mỹ luôn khuyến khích hoạt động kinh tế thông qua việc sử dụng vốn ồ ạt. Ngay từ đầu thế kỷ 18, khi nền kinh tế Hoa Kỳ còn đang phải cạnh tranh với những nền kinh tế phát triển hơn rất nhiều ở châu Âu thì nó đã phát triển nhanh đến nỗi không ai có thể tưởng tượng nổi và đã nhanh chóng trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Việc sử dụng tín dụng ồ ạt trong thời kỳ sơ khai của nền kinh tế Hoa Kỳ là điều duy nhất có trên thế giới, với việc một số người bán chịu hàng hóa và nguyên vật liệu Phá sản và giải quyết tranh chấp 14
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam đầu vào hàng tháng thậm chí là hàng năm. Điều này cho phép các doanh nhân khởi nghiệp khi trong túi học không có nhiều tiền. Nguồn tín dụng dồi dào khiến cho các hoạt động kinh tế phát triển và từ đó chúng ta có một nền kinh tế hùng mạnh dựa trên tín dụng. Việc vay nợ quá nhiều trong nền kinh tế cũng có những mặt trái của nó. Một số doanh nhiệp đã phá sản. Thậm chí như vậy thì nền kinh tế Hoa Kỳ cũng rất phù hợp với tinh thần doanh nhân của các nhà tư bản vì mục tiêu của nền kinh tế là khuyến khích mọi người chấp nhận rủi ro trong kinh doanh nhằm thúc đẩy nền kinh tế còn non trẻ. Yếu tố pháp lý lượng thứ cho việc không trả được nợ đã khuyến khích mọi người tiếp tục con đường kinh doanh của mình, cho dù là trước đó họ đã thất bại. Sự tương đối khoan dung của luật phá sản Hoa Kỳ so với luật của Châu Âu lục địa đã khiến một số người kinh ngạc. Trong số những người này có cả triết gia Pháp tên là Alexis de Tocqueville, người đã chỉ trích sự “tha thứ kỳ lạ” đối với các công ty bị phá sản ở Mỹ vào đầu thế kỷ 19. Triết gia này cho rằng theo quan điểm như vậy thì “người Mỹ không chỉ khác những dân tộc ở châu Âu mà còn khác tất cả các dân tộc làm kinh doanh trong thời đại của chúng ta”. Nếu một doanh nghiệp ở Hoa Kỳ phá sản thì cá nhân chịu trách nhiệm về doanh nghiệp vẫn có thể tiếp tục cuộc sống của mình mà không cảm thấy xấu hổ hoặc phải sống trong nghèo đói tột cùng. Đây quả là một lý thuyết rất hay. Rất nhiều trong số các doanh nhân Hoa Kỳ thành đạt đã bị phá sản khi họ mới bắt đầu kinh doanh, trong đó bao gồm cả các ông trùm tư bản như John Henry Heizn, Henry Ford của công ty Ford và Phineas Barnum, người thành lập rạp xiếc ở Mỹ. Tất cả những người này đương nhiên đã trở nên rất giàu có và một phần là do họ đã có cơ hội thử kinh doanh, thất bại và sau đó lại có thể bắt đầu lại từ đầu. Các doanh nghiệp nhỏ của Hoa Kỳ chính là động lực phát triển của nền kinh tế và sử dụng nhiều nhân công hơn các công ty đa quốc gia lớn. Hệ thống tín dụng và các đối tác tham gia hệ thống tín dụng, hệ thống luật phá sản rõ ràng đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và tinh thần kinh doanh của họ. Tuy chỉ có rất ít nguồn tín dụng sẵn có ở Hoa Kỳ không tuân thủ các chuẩn mực quốc tế với rất nhiều người Mỹ trung lưu có Phá sản và giải quyết tranh chấp 15
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam thể vay 50.000 đôla hoặc hơn từ các khoản vay ngân hàng, thẻ tín dụng và các nguồn khác mà không phải thế chấp. Nhiều doanh nhân khởi nghiệp từ những nguồn vốn này.9 Nhiều người nước ngoài thấy luật phá sản Hoa Kỳ rất kỳ quặc, một phần là bởi luật pháp Hoa Kỳ rất khác so với luật của các nước. Ở hầu hết các quốc gia thì xóa nợ không phải là một việc đơn giản và thường thì phá sản là một sự sỉ nhục. Ở nhiều nước châu Âu, bất cứ thất bại nào trong kinh doanh cũng bị coi là một điều xấu hổ, thậm chí kể cả khi bạn làm việc cho một doanh nghiệp và doanh nghiệp đó bị phá sản. Những ai từng làm cho một doanh nghiệp bị phá sản thậm chí gặp khó khăn khi đi tìm một công việc khác. Ở một số quốc gia như Nhật Bản chẳng hạn, nghiên cứu của tôi cho thấy rằng sự sỉ nhục vì bị phá sản lớn đến nỗi người ta có thể tự sát. Tuy nhiên, một số quốc gia khác như Nhật Bản, Ý, Pháp, Anh và Đức hiện đang bắt đầu làm luật theo hướng dễ dãi hơn nhằm thúc đẩy giới doanh nhân và hỗ trợ cho nền kinh tế phát triển năng động hơn. Ở một số nước, các nhà lập pháp cho rằng hệ thống luật phá sản dễ dãi hơn sẽ giữ được tài sản và hỗ trợ cho các nền kinh tế chưa phát triển nhanh. Nước Nhật bị giảm phát là ví dụ về việc một quốc gia cố gắng dùng luật phá sản dễ dãi hơn để kích thích vay mượn và thúc đẩy hoạt động kinh tế. Do hầu hết các luật này đều mới nên chưa rõ là liệu những thay đổi này có giúp thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ hay không. Đôi khi những yếu tố văn hóa cũng khiến người ta không tận dụng được những cơ hội mà luật phá sản mới này đem lại. Ở Hoa Kỳ thì chẳng có gì là xấu hổ khi chúng ta bị phá sản. Một số ông chủ cấp tiến thậm chí còn coi nhân viên từ những công ty bị phá sản là đáng quý hơn do họ đã có một bài học từ thất bại trước đó. Ngoài ra, nghiên cứu của tôi còn cho thấy rằng nhiều ông chủ Mỹ thành công đã từng thất bại trong những lần kinh doanh trước. Khả năng có thể khởi nghiệp lại chính là điều khiến cho người Mỹ sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong kinh doanh và điều này đem lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế. Nguồn tín dụng dồi dào cũng rất hữu ích cho các doanh nhân mới bắt tay vào kinh doanh.10 Ngoài khoản nợ mà người Mỹ dùng để bắt tay vào kinh doanh thì họ cũng vay tiền để mua các mặt hàng tiêu dùng như nhà cửa, xe hơi, đồ đạc, quần áo. Người Mỹ 9 http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_ej0106_iv.html 10 https://www.google.com.vn/search?hl=vi&tbo=d&sclient=psy Phá sản và giải quyết tranh chấp 16
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam thường dùng thẻ tín dụng nhiều hơn so với người dân ở các nước khác. Xét tổng thể thì họ cũng mua nhiều hàng tiêu dùng hơn, thậm chí là nhiều hơn cả người dân sống ở những quốc gia giàu có như Nhật Bản và Canada. Duy trì mức tiêu thụ hàng tiêu dùng cao là điều có lợi cho nền kinh tế Hoa Kỳ, đặc biệt là khi nền kinh tế suy thoái. Tuy nhiên, luật phá sản của Hoa Kỳ cũng không dễ dãi đối với các doanh nghiệp bán hàng trả góp cho những cá nhân mua hàng tiêu dùng với giá trị lớn. Như biểu đồ trong bài cho thấy, có mối tương quan chặt chẽ giữa nợ tiêu dùng và phá sản và phá sản thường do chi tiêu cho hàng tiêu dùng. Hơn nữa, những người chi tiêu nhiều quá mức cho hàng tiêu dùng sẽ khó có cơ hội trả nợ. Đây là lý do cho sự thay đổi gần đây trong luật phá sản của Hoa Kỳ nhằm hạn chế chi tiêu cho hàng tiêu dùng. Thúc đẩy hoạt động kinh tế ở Hoa Kỳ có thể được coi là một nhiệm vụ của mọi công dân. Chấp nhận rủi ro tín dụng để khởi nghiệp có thể đem lại những lợi nhuận tài chính khổng lồ. Nếu doanh nghiệp làm ăn tốt thì doanh nhân sẽ phát đạt. Nếu công việc kinh doanh thất bại thì doanh nhân sẽ có cơ hội làm lại. Vay mượn quá nhiều để chi cho tiêu dùng cũng có những rủi ro tương tự nhưng không đem lại khoản lợi nhuận nào.11 1.2.3.Vai trò của pháp luật phá sản đối với người lao động Khi doanh nghiệp bị phá sản thì những người lao động trong doanh nghiệp sẽ phải chịu hậu quả trực tiếp, họ sẽ bị mất việc làm, mất nguồn thu nhập để đảm bảo đời sống. Sự bảo vệ của Luật Phá sản đối với người làm công thể hiện ở chỗ pháp luật cho phép người lao động được quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố phá sản doanh nghiệp hoặc phản đối yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, quyền được tham gia quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương trước các khoản nợ khác của doanh nghiệp, …. 1.2.4.Vai trò của pháp luật phá sản đối với nền kinh tế Phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả về kinh tế xã hội nhất định nhưng phá sản không phải là hiện tượng hoàn toàn tiêu cực. Phá sản là một giải pháp hữu hiệu trong việc cơ cấu lại nền kinh tế, là sự đào thải tự nhiên đối với doanh nghiệp làm ăn 11 Tạp chí điên tử của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ Phá sản và giải quyết tranh chấp 17
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam yếu kém, góp phần duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Vì vậy, Luật Phá sản là công cụ răn đe buộc các nhà kinh doanh luôn luôn phải năng động sáng tạo nhưng không được mạo hiểm và liều lĩnh, đồng thời, Luật Phá sản doanh nghiệp là cơ sở pháp lý để xóa bỏ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư. Phá sản và giải quyết tranh chấp 18
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam CHƯƠNG II: THỰC TIỄN PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM 2.1.Giai đoạn từ năm 1993 đến 2004 Theo quy đinh tại Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 thì: “ Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiêp găp khó khăn hoăc b ̣ ̣ ị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn”. Như vậy, theo quy định này thì tình trạng phá sản chỉ được coi ́ ện khi có đủ các dấu hiệu sau đây: là đã xuât hi Thứ nhât, doanh nghiệp đã không thể thanh toán được các khoản nợ đến hạn của mình; Thứ hai, nguyên nhân của việc không trả được nợ là do thua lỗ trong hoạt động kinh doanh chứ không phải là do những nguyên nào khác. Ví dụ, do con nợ đánh bạc, buôn ma túy hoặc do thực hiện các hành vi bất hợp pháp khác mà dẫn tới tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì Tòa án cũng không thụ lý hồ sơ yêu cầu mở thủ tục phá sản vì không thỏa mãn được dấu hiệu thứ 2 này. Thứ ba, con nợ đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không thể thoát khỏi tình trạng không trả được nợ. Theo dấu hiệu này thì Tòa án sẽ không thụ lý hồ sơ và không mở thủ tục phá sản nếu con nợ không chứng minh đươc rằng, mình đã sử dụng các biện pháp trong khả năng cho phép nhất là các biện pháp tài chính để tự cứu mình mà không đạt kết quả Thứ tư, khoản 1 điều 3 Nghị định số 189 quy định thêm 1 dấu hiệu thứ 4 của tình trạng phá sản đó là việc con nợ bị thua lỗ liên tục trog thời gian ít nhất là 2 năm. Như vậy, Tòa án cũng thể ra quyết định mở thủ tục phá sản nếu việc thua lỗ của con nợ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán chưa vượt quá thời hạn này Tóm lại, đặc điểm thứ 2 của pháp luật phá sản Việt Nam là khái niệm tình trạng phá sản đã được quan niệm một cách rất phức tạp. Tính phức tạp của khái niệm này thể hiện ở chỗ , ngoài dấu hiệu quan trọng nhất là việc con nợ không thể thanh toán được các khaonr nợ đến hạn, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền có bổ sung vào khái niệm này một số dấu hiệu quan trọng nữa như là nguyên nhân của việc thua lỗ , thời Phá sản và giải quyết tranh chấp 19
- Thực trạng phá sản ở Việt Nam gian thua lỗ và việc con nợ phải tự áp dụng các biện pháp để tụ cứu mình trước khi bị ra Tòa mà không đạt kết quả. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng, ở Việt Nam, trong vòng 10 năm qua( 1993 2004 ) số vụ phá sản được Tòa án thụ lý giải quyết còn rất thấp.12 2.2.Giai đoạn từ năm 2004 đến nay 2.2.1.Sự sàng lọc tất yếu của chuyển đổi Trong những năm qua, với điều kiện thuận lợi, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng các DN khoảng 80.000 doanh nghiệp ra đời mỗi năm. Tuy nhiên, đi kèm với sự bùng nổ số lượng thì một điểm cốt tử của DN Việt Nam là quy mô và năng lực nhỏ yếu và chậm có sự cải thiện. Với một năng lực nhỏ yếu và chậm cải thiện nhưng tỷ lệ DN tồn tại khá cao cho thấy, thời gian qua, các DN Việt Nam đã được hưởng nhiều thuận lợi để phát triển nhanh một cách dễ dàng. Với sự tồn tại quá nhiều DN nhỏ yếu và chậm phát triển cũng cho thấy sự canh tranh và đảo thải vẫn chưa quyết liệt. Tuy nhiên, khi môi trường gặp khó khăn, các điều kiện thuận lợi không còn thì tất yếu sự thử thách và đảo thải sẽ mạnh hơn. Phá sản, có thể trong quan niệm chung vẫn còn là một chuyện nặng nề. Tuy nhiên, với quan niện mới, phá sản là hiện tượng kinh tế bình thường. Phá sản hiện nay không chỉ là việc chấm dứt hoạt động mà phá sản tạo cơ tái cấu trúc lại doanh nghiệp để trở lại hoạt động bình thường. Chính vì thế, nhiều luật phá sản trên thế giới đều xem tuyên bố phá sản chỉ là một biện pháp nhằm tái cơ cấu doanh. Vậy nên, những cuộc khủng hoảng trên thế giới gần đây đều cho thấy, rất nhiều tập đoàn lớn đã tuyên bố phá sản nhưng đó là một biện pháp để đổi mới lại và cải tổ hoạt động sản xuất kinh doanh, cải tổ cơ chế để đáp ứng tôt hơn nhu cầu thị trường. Và dưới góc độ đó, phá sản là việc loại bỏ và đào thải những gì không còn là phù hợp.Việt Nam đang chuẩn bị thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế. Việc tái cơ cấu nền kinh tế sẽ bắt đầu từ thực thể cơ bản nhất là các DN. Và trong quá trình đó tất nhiên sẽ có sự cắt bỏ những bộ phận, tổ chức kém hiệu quá nhất. Sự thực thì trong chính quá trình đổi mới 12 Pháp luật phá sản của PGSTS Dương Đăng Huệ Phá sản và giải quyết tranh chấp 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận - Thực trạng quy trình phục vụ nhà hàng The Grill- khách sạn Duxton Saigon
14 p | 2511 | 617
-
Tiểu luận kinh tế môi trường: Các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí ở Hà Nội
33 p | 1078 | 271
-
Tiểu luận THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP RÁC THẢI SINH HOẠT HÀ NỘI
21 p | 802 | 92
-
Đề tài: Thực trạng pháp luật về phá sản và việc hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam
98 p | 217 | 53
-
Tiểu luận: Tổng quan về sử dụng chất tạo màu trong sản xuất thực phẩm
44 p | 208 | 41
-
Tiểu luận: Biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học
64 p | 195 | 30
-
Tiểu luận: Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam trong thời gian qua. Giải pháp hạn chế đô la hóa
26 p | 254 | 26
-
Luận văn: ạo lập và sử dụng vốn cho người nghèo, thực trạng - giải pháp
75 p | 108 | 20
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn hóa du lịch: Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác một số ngôi chùa cổ tiêu biểu của Hải Phòng phục vụ phát triển du lịch
104 p | 117 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực trạng giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và một số giải pháp hoàn thiện
83 p | 53 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển dịch vụ city tour tại thành phố Quy Nhơn ở Công ty lữ hành Miền Trung
137 p | 33 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu sự hài lòng của nhân viên đối với công việc tại công ty cổ phần dệt may 29/03
105 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển nguồn nhân lực cho trường Cao đẳng nghề Gia Lai
115 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp marketing cho sản phẩm cà phê Đăk Hà
106 p | 8 | 2
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Giáo dục học: Tổ chức hoạt động khám phá khoa học theo định hướng giáo dục STEM cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi
28 p | 19 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Giải pháp truyền thông marketing cho khu du lịch sinh thái Măng Đen tỉnh Kom Tum
113 p | 4 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Phát triển dịch vụ E-Mobifhone banking tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - chi nhánh tỉnh Kom Tum
123 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn