intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Tìm hiểu tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu chủ nghĩa xã hội phi mác xít

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

212
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng nhất về giải phóng xã hội và giải phóng con người. Trong quá trình hình thành và phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn phải đấu tranh chống các trào lưu tư tưởng đối lập, trào lưu tư tưởng XHCN phi Mác xít. Cách mạng Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động cũng đã không ngừng phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin chống...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Tìm hiểu tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu chủ nghĩa xã hội phi mác xít

  1. Tiểu luận Tìm hiểu tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu chủ nghĩa xã hội phi mác xít
  2. Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng nhất về giải phóng xã hội và giải phóng con người. Trong quá trình hình thành và phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn phải đấu tranh chống các trào l ưu tư tưởng đối lập, trào lưu tư tưởng XHCN phi Mác xít. Cách mạng Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động cũng đã không ngừng phải đấu tranh bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin chống lại các tư tưởng phản Mác xít. Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam đã đóng góp hết sức to lớn vào cuộc đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng sai trái, phi Mác xít trong phong trào cách mạng Việt Nam. Nghiên cứu, kế thừa, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về cuộc chiến đấu chống lại các quan điểm, tư tưởng xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin là việc làm bổ ích, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi tình hình thế giới và trong n ước đang có những biến động sâu sắc thì việc nghiên cứu, kế thừa đó lại càng có ý nghĩa quan trọng và mang tính thời sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là một ngôi sao sáng chói trên bầu trời cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cho nên đã có không ít các nhà khoa học trong và ngoài nước, các công trình nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, về tư tưởng của Hồ Chí Minh. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng của Hồ Chí Minh thường tập trung tìm hiểu tư tưởng của Người về đường lối cách mạng, về CNXH, về xây dựng Đảng, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, về văn hóa, đạo đức cách mạng... Cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu riêng về tư tưởng của Hồ Chí Minh đối với các trào lưu CNXH phi Mác xít, đối với các quan điểm, tư tưởng sai trái, phi Mác xít trong cách mạng Việt Nam. Đối với sinh viên chuyên ngành CNXH khoa học , vấn đề tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về các quan điểm, tư tưởng phi Mác xít trong cách mạng Việt Nam là vấn
  3. đề thiết thực và bổ ích nhằm trước hết nâng cao nhận thức trong quá trình học tập các môn học thuộc chuyên ngành CNXH. Mặt khác làm rõ h ơn các tư tưởng về đấu tranh chống các quan điểm sai trái, tư tưởng phi Mác xít trong cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh. 3. Phạm vi, phương pháp nghiên cứu đề tài Do hạn chế về khả năng nghiên cứu và tài liệu tham khảo nên trong tiểu luận này giới hạn của việc nghiên cứu là chỉ " Tỡm hiểu tư tưởng cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu chủ nghĩa xó hội phi Mỏc xớt ". Trong tiểu luận này, ngoài phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tiểu luận còn sử dụng phương pháp tổng hợp và phân tích để nghiên cứu đề tài. 4. Bố cục của tiểu luận - Mở đầu - Nội dung 1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 2. Hồ Chí Minh đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng phi Mác xít trong cách mạng Việt Nam. 2.1. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa Tờ-rôt-xkít. 2.2. Hồ Chí Minh phê phán khuynh h ướng "giáo điều", "khuynh hữu", "khuynh tả" trong Đảng Cộng sản Việt Nam. 2.3. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ vai trò của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam. 2.4. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam. 2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, văn nghệ gián tiếp phủ nhận bọn "nhân văn - giai phẩm". 2.6. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. 3. ý nghĩa của việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh có liên quan đến trào lưu CNXH phi Mác xít. 3.1. ý nghĩa lý luận 3.2. ý nghĩa thực tiễn
  4. - Kết luận.
  5. Nội dung 1. Vài nét về tiểu sử và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên thật là Nguyễn Tất Thành sinh n ăm 1890 trong một gia đình nhà Nho có truyền thống yêu nước tại Nam Đàn, Nghệ An. Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị đặt dư ới ách đô hộ của thực dân Pháp, nhân dân lao động sống trong cảnh lầm than, cực khổ của những người nô lệ mất nước, chịu ảnh hưởng từ truyền thống gia đình, tinh thần yêu nước của dân tộc nên ngay từ thuở thanh niên, Nguyễn Tất Thành đã nung nấu một ý chí, quyết tâm giải phóng dân tộc khỏi cảnh nô lệ, đem lại cho những người lao động cuộc sống ấm no, hạnh phúc, dân tộc được độc lập, tự do. Trước sự thất bại của các phong trào yêu n ước, giải phóng dân tộc, tháng 7 năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành lên tàu đi bôn ba thế giới để tìm cho ra con đường đúng đắn nhất nhằm giải phóng dân tộc mình. Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều nước trên thế giới từ các nước thuộc địa đến các nước tư bản chủ nghĩa, từ châu á đến châu Phi, châu Mỹ và châu Âu, ở đâu người cũng nhận thấy một điều là xã hội luôn chia làm hai hạng ng ười. Một bên là những người lao động nghèo khổ, bị bóc lột và một bên là những kẻ giàu có, bọn bóc lột, ngay cả ở những nước tư bản chủ nghĩa đư ợc coi là tiến bộ nhất, văn minh nhất thì cũng như vậy, do đó Người càng quyết tâm tìm cho ra con đường thực sự để giải phóng dân tộc mình. Năm 1920, Người bắt gặp bản "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của V.I.Lênin, trong bản sơ thảo đó, Người đã tìm thấy con đường cách mạng để giải phóng dân tộc mình và từ đó người hướng các tìm hiểu, học tập chủ nghĩa Lênin, tích cực hoạt động trong phong trào công nhân Pháp và phong trào công nhân quốc tế. Lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần nhân đạo cao cả cùng với ý chí và nghị lực phi thường đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với phong trào cộng sản quốc tế, dần dần Hồ Chí Minh đã chuyển hẳn từ chủ nghĩa yêu nước chân chính sang lập trường của chủ nghĩa cộng sản.
  6. Từ 1925, Hồ Chí Minh đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam và lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, đến năm 1930, Người đã chủ trì hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Suốt từ năm 1930, Hồ Chí Minh khi ở trong n ước, khi ở nước ngoài đã luôn luôn lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, năm 1954, thực dân Pháp đã phải rút khỏi Việt Nam sau khi thất bại trước cuộc "kháng chiến kiến quốc" của nhân dân Việt Nam do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Sự nghiệp giải phóng dân tộc đang còn dang dở thì Hồ Chí Minh mãi mãi ra đi khi người được 79 mùa xuân, năm 1969. H ồ Chí Minh ra đi là nỗi đau thương, mất mát vô cùng to lớn của cả dân tộc Việt Nam và của nhân loại tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Nén đau thương, nén mất mát lại, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phấn đấu để hoàn thành tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng miền Nam, nước nhà hoàn toàn thống nhất, độc lập năm 1975 và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu, Người cha già của dân tộc đã để lại cho nhân dân Việt Nam nói riêng và nhân dân lao động trên thế giới nói chung một sự nghiệp to lớn, một kho tàng tri thức cách mạng phong phú, một tấm lòng nhân đạo cao cả. Là một "Anh hùng giải phóng dân tộc", một "danh nhân văn hóa thế giới", di sản Hồ Chí Minh để lại rất to lớn. Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã sáng tác nhiều bài viết, lời nói, nhiều tác phẩm văn thơ chứa đựng tinh thần yêu nước, tư tưởng cách mạng của Người. Từ cuộc đời hoạt động, từ các tác phẩm sáng tác của Người, Đảng và nhân dân Việt Nam đã được kế thừa toàn bộ những t ư tưởng cách mạng của Hồ Chí Minh, đó là cái vốn quý giá để Đảng và nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. "Tư tưởng của Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân ch ủ nhân
  7. dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng và sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai c ấp và giải phóng con người" [7, 8]. Trong hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh, có nhiều vấn đề chủ yếu như: tư tưởng về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc; t ư tưởng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; tư tưởng về Đảng Cộng sản, về đoàn kết dân tộc, về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, về đạo đức, về văn hóa... Trong đó không ít lần Hồ Chí Minh đã đấu tranh, phê phán các quan điểm, tư tưởng sai trái trong cách mạng Việt Nam, các quan điểm cách mạng có tính chất phi Mác xít. Tư tưởng của Hồ Chí Minh đã soi sáng con đường cách mạng, đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chính vì vậy việc học tập, kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung, về các quan điểm sai trái, phi Mác xít trong cách mạng nói riêng là điều tất yếu để đi đến thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2. Hồ Chí Minh đấu tranh chống các quan điểm, tư tưởng phi Mác xít trong cách mạng Việt Nam 2.1. Hồ Chí Minh đấu tranh chống chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít Chủ nghĩa Tờ -rốt-xkít là một trào lưu tư tưởng chính trị tiểu tư sản cơ hội chủ nghĩa thù địch với chủ nghĩa Mác - Lênin, che đậy bản chất cơ hội chủ nghĩa bằng những lời lẽ cấp tiến tả khuynh. Trào lưu tư tưởng này xuất hiện đầu thế kỷ XX như một biến dạng của chủ nghĩa Men sê vích trong Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga mà lãnh tụ là nhà tư tưởng Tờ-rốt-xkít. Chủ nghĩa Tờ -rốt-xkít hình thành như một phản ứng đối với giai đoạn phát triển Lê-nin-nít của chủ nghĩa Mác, đối với sự ra đời của một đảng cách mạng chân chính, kiểu mới ở Nga và nó phản ánh tâm trạng của một bộ phận trí thức tiểu tư sản thành thị ham thích cách mạng đ ầu lưỡi nhưng lại đứng ngoài những trận chiến đấu giai cấp và tiến hành tuyên truyền các quan điểm đầu hàng chủ n ghĩa trên tất cả mọi vấn đề cơ bản đấu tranh cách mạng.
  8. Về mặt phương pháp luận và nhận thức luận thì chủ nghĩa Tờ -rốt-xkít có đặc trưng là chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa duy ý chí, chủ nghĩa công thức thô bạo và lối ngụy biện. Trong nửa đầu thế kỷ XX, những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít bao gồm: không tin vào năng lực của GCCN có thể tập hợp xung quanh mình các bạn đồng minh; phủ nhận vai trò của giai cấp nông dân; xu h ướng phiêu lưu cách mạng, muốn thúc cách mạng, bỏ qua giai đoạn chưa hoàn thành của cách mạng; phủ nhận các phong trào dân chủ chung; chủ trương phát triển những cuộc chiến tranh cách mạng; phủ nhận khả năng xây dựng thành công CNXH ở một n ước; chủ nghĩa bài xô trắng trợn... Chủ nghĩa Tờ -rốt-xkít đã tác hại không ít tới cách mạn g Việt Nam, nhất là trong những năm 1936-1939. Cao trào cách mạng Việt Nam 1936-1939 là cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, kết hợp đấu tranh công khai và bí mật, thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương. Lợi dụng các sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ này như "lãnh đạo không thật sát, cho nên nhiều n ơi cán bộ phạm phải bệnh hẹp hòi, bệnh công khai, say sưa vì thắng lợi bộ phận, mà xao lãng việc củng cố tổ chức bí mật của Đảng" [25, 156], bọn Tờ -rốt-xkít ở Đông Dương ra sức phá hoại đường lối, chủ trương của Đảng ta lúc đó. Chúng lôi kéo, mua chuộc, lợi dụng cán bộ của Đảng, hợp tác với chúng đề ra tờ báo công khai của chúng, tờ báo "La Lut te", một tờ báo phản động. Chúng tham gia tranh cử nghị trường, chống lại việc đưa cán bộ vào hoạt động nghị trường của Đảng. Do sự phá hoại của chúng mà trong cuộc tranh cử vào Hội đồng quản hạt Nam Kỳ tháng 4 n ăm 1939, "Mặt trận trân dân chủ không thắng lợi, trái lại bọn Tờ -rốt-xkít đã thắng ở quận nhì Sài Gòn [25, 157]. Ngay từ năm 1936, bọn Tờ-rốt-xkít ở Đông Dương đã ráo riết hoạt động chống chủ trương, chính sách của Đảng. Khi Đảng ta nêu khẩu hiệu: "ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp" thì chúng nêu kh ẩu hiệu "đ ả đảo mặt trận nhân dân" [25, 150]; khi Đảng vận động thành lập mặt trận dân chủ thì chúng "kêu gào c hỉ lập mặt trận công - nông" [25, 150]. Khi Đ ảng chủ trương tổ chức công nhân vào các hội hữu ái để tiến tới thành lập nghiệp đoàn, thì chúng "ra sức bài bác hội hữu ái..." [2,150].
  9. Thực chất của bọn Tờ -rốt-xkít là cơ hội chủ nghĩa, chống đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, phá hoại cách mạng song trong hàng ngũ của Đảng ta, có một số cán bộ, đảng viên mất cảnh giác, thỏa hiệp và hợp tác với bọn Tờ -rốt-xkít. Đối với bọn Tờ -rốt-xkít, Trung ương Đảng lúc đó cũng đã kiên quyết phê phán chúng, khẳng định lập trường, thái độ của Đảng đối với chúng. "Trung ương Đảng đã phê phán tư tưởng thỏa hiệp và hợp tác với bọn Tờ -rốt-xkít trong việc xuất bản báo La Lutte và coi đó là một điều lầm lỗi rất lớn [25, 150]. Không chỉ như vậy mà Trung ương Đảng còn nhấn mạnh: "Trong cuộ c vận động dân chúng, chủ nghĩa Tờ -rốt-xkít là nguy hiểm nhất, không triệt để chống chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít thì khó thi hành được chiến thuật lập Mặt trận nhân dân thống nhất Đông Dương" [25, 150]. C ần phải đấu tranh chống bọn Tờ -rốt-xkít ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào: "vô luận chỗ nào, nó thò đầu ra là đập ngay" [25, 150]. Quan điểm trên của Trung ương Đảng lúc đ ó cũng đồng thời là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với bọn Tờ -rốt-xkít. Chủ tịch Hồ Chí Minh, lúc đó mang tên Nguyễn ái Quốc đang được "giam lỏng" ở Liên Xô. Năm 1938, Nguyễn ái Quốc được sự giúp đỡ của một số bạn bè trong Quốc tế cộng sản đã trở về Trung Quốc, từ đây Người lại tiếp tục chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Tuy không trực tiếp vạch ra những quan điểm sai tría của bọn Tờ-rốt-xkít ở trong nước nhưng trong những ý kiến lãnh đạo đối với Đảng ta, Nguyễn ái Quốc khẳng định rõ rằng đối với bọn Tờ -rốt-xkít thì "không thể có thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về mặt chính trị" [25, 152]. Bản chất của bọn Tờ -rốt-xkít là cơ hội chủ nghĩa, chống đối chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm và hành động của chúng trong thực tiễn đều nhằm phá hoại cách mạng. Chính vì vậy Nguyễn ái Quốc khẳng định không thể nhượng bộ cũng như không thể thỏa hiệp với chúng. Mặt khác cũng nh ư mọi trào lưu chủ nghĩa xã hội phi Mác xít khác, chủ nghĩa Tờ -rốt-xkít cũng núp dưới bóng của chủ nghĩa Mác - Lênin, khoác cái áo cách mạng để hoạt động, tuyên truyền trong phong trào các h mạng. Cho nên quần chúng cũng như một số cán bộ đảng viên có thể bị chúng qua mặt, do đó
  10. trách nhiệm của Đảng là phải bằng "mọi cách để lột mặt nạ chúng". Cao hơn nữa, theo Nguyễn ái Quốc là phải "tiêu diệt chúng về mặt chính trị". Hơn hai mươi năm sau, sau phong trào dân chủ 1936-1939, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng năm 1951, Hồ Chí Minh cũng đã nhấn mạnh một trong những khuyết điểm của Đảng trong cao trào dân chủ 1936-1939 là trong Đảng, có "một số đồng chí hợ p tác vô nguyên tắc với bọn Tờ -rốt- xkít" [9, 156]. Khi ến cho phong trào cách mạng lúc đó gặp thêm khó khăn. Tóm lại, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đấu tranh chống bọn Tờ -rốt-xkít, vạch mặt chúng, tiêu diệt chúng là một việc làm cần thiết. Trong phong trào cách mạng, nếu để cho những bọn cơ hội, bọn phản cách mạng như bọn Tờ-rốt-xkít hoạt động, phá hoại thì phong trào sẽ đi xuống cho nên phải đấu tranh với chúng, lột mặt nạ của chúng và tiêu diệt chúng. 2.2. Hồ Chí Minh phê phán khuynh hướng "tả", "hữu", "giáo điều" trong Đảng 2.2.1. Phê phán khuynh hướng giáo điều Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng nhất, khoa học nhất, nó mở ra và soi sáng con đường đấu tranh của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh viết: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nh ưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa LêniN" [11, 268]. Học tập và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam là một trong những điều quan trọng hàng đầu. Theo Hồ Chí Minh, "thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc c ơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì hành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông". Vậy mà trong thực tiễn cách mạng Việt Nam lại có những khuynh hướng hết sức sai lầm trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin. Người chỉ ra hai khuynh h ướng sai lầm là: "Có một số đồng chí không chịu nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của cách mạng Việt Nam. Họ không hiểu rằng: chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh. Vì vậy họ chỉ học thuộc ít câu của Mác - Lênin, để loè người ta.
  11. Lại có một số đồng chí khác chỉ bo bo giữ lấy những kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hà nh cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc cách mạng" [16, 247]. Trong hai khuynh hướng sai lầm ấy của các đồng chí cách mạng, Hồ Chí Minh cho rằng khuynh hướng giáo điều là nguy hại hơn cả. "Hai khuynh hướng ấy đều sai lầm. Sai lầm nhất là khuynh hướng giáo điều, vì nó mượn những lời của Mác, Lênin, dễ làm cho người ta lầm lẫn" [16, 247]. Đối với Hồ Chí Minh, để sửa chữa những khuynh h ướng sai lầm ấy, phương pháp tốt nhất là không ngừng học tập chủ nghĩa Mác - Lênin gắn liền với hoạt động thực tiễn của cách mạng. Học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là học một câu chữ, giáo điều máy móc, học tập như vậy sẽ lại dẫn đến sai lầm mà theo Hồ Chí Minh, độc lập lý luận không phải để biến "thành những người lý luận suông" [1, 138] mà học tập lý luận là để nhằm cho công tác thực tiễn được tốt hơn. Nghĩa là phải "học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin; học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng" [1, 138]. Nắm vững lý luận rồi lại phải vận dụng lý luận đó vào thực tiễn, đó là cách tốt để khắc phục khuynh hướng giáo điều. Bản thân lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận cách mạng song "lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn cần đ ược bổ sung bằng những kết luận mới rút ra trong thực tiễn sinh động" [1, 137]. Do vậy mà Hồ Chí Minh viết: "Khi học tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho sạch. Không phải học để thuộc lòng từng câu từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp dụng một cách máy móc. Nh ưng chúng ta phải học chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích và giải quyết vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp vớ i
  12. điều kiện đặc biệt của nước ta" [1, 138]. "Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta" [1, 138]. Vì không chịu hoạt động thực tiễn, lại chỉ học lý luận một cách máy móc mà sinh ra giáo điều, như thế rất nguy hại đối với cách mạng Việt Nam. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, lý luận và thực tiễn gắn bó rất chặt chẽ với nhau, lý luận và thực tiễn là một thể thống nhất. Người viết: "Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành" [16, 247]. "Thực hành, hiểu biết, lại thực hành, lại hiểu biết nữa. Cứ đi vòng như thế mãi, không bao giờ ngừng. Và nội dung của thực hành và hiểu biết lần sau cao h ơn lần trước" [16, 257]. Đó chính là "nội dung vấn đề hiểu biết trong duy vật biện chứng" [16, 257] là vấn đề có thể khắc phục được khuynh hướng giáo điều trong cách mạng Việt Nam. 2.2.2. Phê phán khuynh hướng "khuynh hữu", "khuynh tả" Cách mạng là một vấn đề rộng lớn và phức tạp, cách mạng lại không ngừng vận độn g và phát triển, vì vậy người cách mạng phải có vốn lý luận phong phú, có hiểu biết thực tiễn cách mạng sâu sắc, có nh ư vậy mới đảm bảo đưa cách mạng đến thắng lợi. Tuy vậy không phải ai cũng tiến kịp với tiến trình cách mạng mà vì thế dẫn tới "khuynh tả" và "khuynh hữu" trong cách mạng. Hồ Chí Minh nhận định về vấn đề này, như sau: "Trong thời kỳ cách mạng, tình hình biến đổi rất mau. Nếu sự hiểu biết không theo kịp thì khó mà đưa cách mạng đến thắng lợi. Thường có khi tư tưởng không theo kịp thực tế. Đó là vì sự hiểu biết của người bị điều kiện xã hội hạn chế" [16, 255]. Từ sự không theo kịp tình hình thực tế đó mà dẫn đến sai lầm và Hồ Chí Minh kiên quyết phản đối cả khuynh hướng "tả" và khuynh hướng "hữu" trong cách mạng. "Phải phản đối những người khuynh hữu. Tư tưởng của hệ thống theo kịp sự biến đổi của tình hình khách quan. Tình hình đã tiến lên mà sự hiểu biết của họ cứ ở chỗ chủ, vì tư tưởng của họ xa rời thực hành" [16, 255]. Chính họ sẽ là ng ười làm phương hại đến sự nghiệp của cách mạng. Hồ Chí M inh ví "Họ cũng như những người
  13. không đi trước xe để hướng dẫn, lại chạy sau xe và tránh xe chạy mau quá. Họ muốn gò xe lại, làm cho xe thụt lùi" [16, 255]. Còn đối với người tả khuynh, Hồ Chí Minh viết: "Lại cần phản đối những người khuynh tả. Họ chỉ biết nói cho sướng miệng. Tư tưởng của họ nhảy qua những giai đoạn phát triển nhất định. Họ cho ảo tưởng là sự thật. Họ xa rời thực hành của đại đa số nhân dân. Họ không thiết thực. Họ hành động một cách liều mạng" [16, 255]. Những người "khuynh hữu" làm lùi l ại bánh xe cách mạng, còn những người "khuynh tả" thì không thực tế, r ơi vào "ảo tưởng" và hành động liều mạng. Cả hai hạng người này, hai khuynh hướng này đều cần phải chống. Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta chống sai lầm tả khuynh và hữu khuynh, vì nó trái vớ i điều kiện lịch sử" [16, 256] và như thế sẽ làm tổn hại đến tiến trình cách mạng. Như vậy là trong quá trình cách mạng Việt Nam, khuynh h ướng "giáo điều", "khuynh tả', "khuynh hữu" đều đa xnảy sinh và chúng có ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nếu không đấu tranh chống các khuynh hướng này sẽ rất nguy hiểm vì chúng có thể dẫn tới sự xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, xa rời hệ tư tưởng của GCCN một cách nhanh chóng h ơn. Trong tác phẩm "Làm gì", Lênin viết: trong xã hội có giai cấp, không có h ệ tư tư ởng phi giai cấp, hệ tư tưởng trung gian. Mọi sự xa rời hệ tư tưởng của GCCN đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng của giai cấp tư sản. ý thức được ý nghĩa của việc đấu tranh chống các khuynh hướng sai lầm trong Đảng, Hồ Chí Minh đã phê phán các khuynh hướng đó, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến khuynh hướng sai lầm. Hoặc là do không chịu học tập lý luận, hoặc chỉ học tập lý luận một cách máy móc, không vận dụng vào thực tiễn hoặc do t ư tưởng không theo kịp thực tiễn. Nói gọn lại các khuynh h ướng sai lầm đó là do không gắn lý luận với thực tiễn, gắn "biết với làm" làm một. Khắc phục chúng phải bằng cách không ngừng học tập lý luận đồng thời phải vận dụng lý luận vào thực tiễn sinh động của cách mạng. Có như vậy mới làm cho lý luận và thực tiễn trở thành một thể thống nhất và có như vậy, cách mạng mới tiến lên. 2.3. Hồ Chí Minh phê phán quan điểm nghi ngờ vai trò của giai cấp công nhân trong cách mạng Việt Nam
  14. Đối với Hồ Chí Minh, phê phán, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, quan điểm phi Mác xít là công việc cần thiết và quan trọng trong tiến trình cách mạng. Việc đấu tranh, phê phán đó không những đã loại bỏ được những phần tử xấu, phần tử phản động khỏi phong trào cách mạng, góp phần làm t ăng thêm sức mạnh của cách mạng mà về mặt lý luận nó còn bảo vệ, khẳng định tính đúng đắn và phát triển thêm học thuyết cách mạng và khoa học. Người viết: "Đấu tranh một cách không điều hòa chống bọn cải lương và bọn xuyên tạc chủ nghĩa Mác đủ các loại, Lênin đã nâng chủ nghĩa xã hội khoa học lên một giai đoạn mới. Người đã làm phong phú chủ nghĩa Mác... Lênin đã xây dựng lý luận mới, hoàn chỉnh về cách mạng XHCN, đã chứng minh CNXH có thể thắng lợi ở một nước riêng lẻ" [1, 53]. Từ lẽ đó, trong quá trình cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng luôn luôn chú ý tới những quan điểm, khuynh hướng sai trái, xa rời nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, do đặc thù ra đời và phát triển của mình mà GCCN Việt Nam ra đời với số lượng ít và trình độ còn non yếu. Từ đó đã đưa tới quan điểm phủ nhận hay nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của GCCN Việt Nam đối với cách mạng. Hồ Chí Minh viết: "GCCN Việt Nam số ng ười còn ít, không lãnh đạo được cách mạng" [10, 212] và Người cũng trả lời ngay đối với sự nghi ngờ đó: "Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp" [10, 212]. Để làm rõ thêm luận điểm này, Hồ Chí Minh đã luận giải thêm về đặc tính cách mạng, tổ chức cách mạng của GCCN Việt Nam và những đặc điểm của các giai tầng khác trong xã hội khiến cho chỉ có GCCN chứ không phải là một giai cấp nào khác có khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Về đặc tính cách mạng của GCCN, Hồ Chí Minh viết: " Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm để chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, GCCN có thể thấm nhuần một t ư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng
  15. và giáo dục các tầng lớp khác, vì vậy, về mặt chính trị, t ư tưởng, tổ chức và hành động, GCCN đều giữ vai trò lãnh đạo" [10, 212]. Đó là xét về đặc tính, còn xét về hệ tư tưởng và tổ chức, "GCCN có chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin là Đảng lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu t ư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng và vô sản hóa. Thành thử đội ngũ chính trị của GCCN ngày càng phát triển" [10, 212]. Phân tích về giai cấp nông dân, Người nhận xét: "Vì hoàn cảnh kinh tế mà nông dân thường có tính thủ cựu, rời rạc, t ư hữu. Cho nên giai cấp công nhân p hải đoàn kết họ, giúp tổ chức họ và lãnh đạo họ, thì họ là một lực lượng rất to lớn vững chắc" [10, 213]. Còn giai cấp tiểu tư sản, theo Hồ Chí Minh, họ có những nh ược điểm như: "t ự tư tự lợi, rời rạc, kém kiên quyết... cho nên đối với họ, GCCN cần phải tu yên truyền, tổ chức họ, giúp họ phát triển ưu điểm, sửa chữa nhược điểm, cần phải khôn khéo lãnh đạo họ, làm cho họ quyết tâm phụng sự nhân dân, cải tạo t ư tưởng, cùng với công nông kết thành một khối, thì họ mới trở nên tác dụng to lớn trong công cuộc khá ng chiến, cách mạng" [10, 214]. Giai cấp tư sản dân tộc, "một mặt thì họ bị đế quốc và phong kiến ngăn trở, cho nên họ cũng muốn chống đế quốc và phong kiến. Nhưng mặt khác họ là giai cấp bóc lột, cho nên họ cũng sợ giai cấp bóc lột nổi lên đấu tranh... Do đó mà tư sản dân tộc vừa muốn cách mạng vừa muốn thỏa hiệp. Bởi vậy GCCN vừa phải đoàn kết với họ vừa phải đấu tranh với họ để bảo vệ quyền lợi của công nhân" [10, 214 -215]. Từ việc phân tích đặc điểm, vai trò, khả năng của các giai tầng xã hội trong cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm toát lên vai trò to lớn của GCCN Việt Nam. Chỉ có GCCN mới là giai cấp cách mạng nhất, triệt để nhất, có tinh thần kỷ luật nhất, có tổ chức nhất nên họ sẽ là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Hồ Chí Minh viết: "Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng t ăng thêm. Tuy hiện nay ở nước ta GCCN còn nhỏ, song ở thế giới thì GCCN rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do GCCN nắm" [10, 212].
  16. Hồ Chí Minh cũng khẳng định, không có sự lãnh đạo của GCCN thì cách mạng không thể đi đến thắng lợi: "Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do GCCN lãnh đạo... Cách mạng ở Liên Xô và ở các n ước khác trong phe XHCN đã chứng thực điều đó, không ai chối cãi được" [17, 283]. Như vậy, bằng những luận điểm khoa học, bằng những chứng cứ thực tiễn, Hồ Chí Minh đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của GCCN trong cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh luôn luôn tin t ưởng và khẳng định vai trò cách mạng to lớn của GCCN, dưới sự lãnh đạo của GCCN, cách mạng Việt Nam nhất định thắng lợi. 2.4. Quan điểm nghi ngờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930, từ đó Đảng luôn luôn giữ vai trò tiên phong và lãnh đạo trong phong trào cách mạng Việt Nam. D ưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn nh ư cách mạng tháng Tám 1945, kháng chiến thắng lợi n ăm 1954, miền Bắc được giải phóng. Tuy nhiên trong quá trình phát tri ển tổ chức và lãnh đạo cách mạng, Đảng cũng gặp không ít khó khăn và mắc phải một số sai lầm khuyết điểm. Đảng đã phải đổi tên mấy lần, Đảng đã có lúc phải tuyên bố giải tán mà thực chất là rút vào hoạt động bí mật, Đảng đã mắc sai lầm trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc năm 1954... từ những điều đó mà trong Đảng cũng như trong quần chúng nhân dân, nảy sinh sự nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng. Sự hoài nghi đó là chính đáng. Trước vấn đề "có người hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng, có đúng không?" [1, 143], Hồ Chí Minh để giải đáp một cách đơn giản và khoa học. Trước hết Hồ Chí Minh đã đặt thêm một số câu hỏi để người nghi ngờ tự trả lời và tự khẳng định về sự lãnh đạo của Đảng. "Nếu Đảng lãnh đạo không đúng thì cách mạng tháng Tám có thành công không? kháng chiến có thắng lợi không? h ơn 8 triệu nông dân miền bắc có ruộng cày không? 3 n ăm khôi phục kinh tế có hoàn thành được không? Và ngày nay, đang vào thời kỳ quá độ lên CNXH có được không? [1, 143].
  17. Về vai trò và tính tất yếu lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, trong nhiều bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh đã luận giải rất rõ ràng. Hồ Chí Minh viết: "Có Đảng lãnh đạo, cách mạng và kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Vì sao? "[10, 228]. Người trả lời, dù trong cách mạng giải phóng dân tộc và trong xây dựng đất nước cũng đều phải cần có sự lãnh đạo của Đảng. Không có Đảng, các cuộc đấu tranh của nhân dân chỉ là tự phát và sẽ thất bại. "Kinh nghiệm thế giới và trong n ước chứng tỏ rằng: Những cuộc đấu tranh "tự phát" của nhân dân, th ường không có mục đích rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, tổ chức chắc chắn. Vì vậy mà lực l ượng rời rạc, nơi này lên thì nơi khác xẹp. Kết quả là thất bại" [10, 228]. Muốn thắng lợi thì sao? "Muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một Đảng lãnh đạo. Đảng phải làm cho quần chúng giác ngộ vì đâu mà họ bị áp bức bóc lột, phải dạy cho quần chúng hiểu các quy luật phát triển của xã hội, để họ nhận rõ vì mục đích gì mà đấu tranh; chỉ rõ con đường giải phóng cho quần chúng, cổ động cho quần chúng kiên quyết cách mạng; làm cho quần chúng tin chắc cách mạng nhất định thắng lợi" [10, 228]. Hồ Chí Minh cũng nói rõ, cách mạng là "phức tạp", "gian khổ" cho nên phải có Đảng lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi. Người viết: "Cách mạng là cuộc đấu tranh rất phức tạp. Muốn khỏi đi lạc phương hướng, quần chúng phải có Đảng lãnh đạo để nhận rõ tình hình, đường lối và định hướng phương châm cho đúng" [10, 228]. "Cách mạng là cuộc đấu tranh rất gian khổ. Lực l ượng kẻ địch rất mạnh. Muốn thắng lợi thì quần chúng phải tổ chức rất chặt chẽ; chí khí phải kiên quyết. Vì vậy, phải có Đảng để tổ chức và giáo dục nhân dân thành một đội quân thật mạnh, để đánh đổ kẻ địch, tranh lấy chính quyền" [10, 228 -229]. Ngay cả khi cách mạng đã thắng lợi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo vì: "Dù nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và mưu mô đế quốc xâm lược vẫn còn. Vì phải xây dựng kinh tế, quốc phòng, văn hóa, xã hội cho nên Đảng vẫn phải tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quần chúng, để đ ưa nhân dân đến thắng lợi hoàn toàn" [10, 229].
  18. Và để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo của mình, lãnh đạo nhân dân kháng chiến và kiến quốc thì "Đảng phải thật mạnh mẽ, trong sạch, sáng suốt, thống nhất" [10, 229]. Vai trò lãnh đạo của Đảng là to lớn, tổ chức của Đảng là chặt chẽ, kỷ luật, đường lối của Đảng là sáng suốt, đúng đắn song không phải là Đảng không có những sai lầm khuyết điểm. Hồ Chí Minh không phủ nhận điều đó vì "Đảng là người, Đảng là cán bộ, là đảng viên, tất nhiên có sai lầm" [1, 143]. Nh ưng sai lầm của Đảng là có thể khắc phục, sửa chữa được và do vậy vai trò lãnh đạo của Đảng không thay đổi. Hồ Chí Minh viết: "Nhưng sai lầm của Đảng và của chúng ta khác hẳn với sai lầm của những bọn khác. Đảng thấy sai thì quyết tâm sửa chữa. Thời đế quốc, tư bản có bao giờ nói có sai lầm, xin sửa chữa đâu. Đảng là người, nên có sai lầm nhưng vì có chủ nghĩa Mác - Lênin, có mục đích phục vụ nhân dân, có phê bình và tự phê bình, cho nên kiên quyết sửa chữa" [1, 144]. Khi Đảng đã kiên quyết sửa chữa và đã s ửa chữa được những sai lầm và khuyết điểm của mình thì Đảng nhất định sẽ lãnh đạo thành công cách mạng Việt Nam. Đó là lời giải thích của Hồ Chí Minh đối với sự nghi ngờ về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng. 2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa văn nghệ gián tiếp phủ nhận bọn "Nhân văn - giai phẩm" "Nhân văn - giai phẩm" là tên gọi được viết tất cả tờ báo "nhân văn" và các tác phẩm "Giai phẩm mùa thu", "giai phẩm mùa đông", "giai phẩm mùa xuân" dùng để chỉ một liên minh những phần tử phản đ ộng, có tư tưởng chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Nhóm "nhân văn - giai phẩm", chúng là ai? "Nhân văn - giai phẩm" là một thứ liên minh gồm những phần tử phức tạp, những phần tử đó hoặc đã có lịch sử làm tay sai cho đế quốc và phong kiến, hoặc do quyền lợi giai cấp mà thù địch với địch (xuất thân từ tầng lớp trên trong xã hội), hoặc là những phần tử phản cách mạng Tờ -rốt-xkít, lại cũng bao gồm cả một số phần tử phản động trong giai cấp tư sản, một số văn nghệ sĩ bị nhiễm sâu tư tưởng của các giai cấp bóc lột. Khi tờ báo "Nhân văn" ra đời, tờ báo này chỉ ra được 5 số và bị đóng cửa
  19. ngày 15-12-1956, các phần tử này đã tập hợp, hình thành một nhóm chính trị phản động, hoạt động có kế hoạch, có chỉ đạo. Xuất hiện từ đầu năm 1956, tồn tại đến giữa năm 1958, hoạt động của bọn "Nhân văn - giai phẩm" diễn ra theo các bước: Bước một, từ mặt trận văn nghệ đả kích Đảng và chế độ ta. Bước hai, lợi dụng lúc khó khăn, ra mặt phản cách mạng đánh thẳng vào chế độ và sự lãnh đạo của Đảng, chống lại nền chuyên chính dân chủ nhân dân, âm mưu gây biến động, chúng lợi dụng không khí phê bình, tự phê bình để phá hoại cách mạng. Bước ba, giấu mặt phá hoại, đưa người vào các cơ quan nghệ thuật, hội nhà văn để lũng đoạn, gây rối, xây dựng pháo đài chống cách mạng ở ở trường Đại học. Các quan điểm của nhóm "Nhân văn - giai phẩm" trên lĩnh vực văn nghệ thực chất quan điểm phản động, quan điểm nghệ thuật tư sản. Một là, chúng phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, đòi tự do độc lập của văn nghệ, "nghệ thuật vị nghệ thuật", thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động. Chúng đặt văn nghệ sĩ ra ngoài giai cấp, coi như văn nghệ sĩ tự thân cách mạng, là đã có sẵn cái gốc thiện, trong người đã sẵn khuynh hướng về cái tốt, đẹp, cái thật cho nên chỉ cần người văn nghệ sĩ tự do và chân thành nghe nội tâm mình thì sẽ thấy hết được cái tốt đẹp, cái thật ở đời. Chủ nghĩa cộng sản là thiên đường của tự do tư tưởng cho nên muốn là cộng sản chân chính phải để cho văn nghệ sĩ được tự do triệt để, chỉ nghe theo nội tâm của mình. Chúng lờ đi vấn đề giai cấp, làm như trong xã hội không có giai cấp, đấu tranh giai cấp. Người văn nghệ sĩ không dính dáng gì đến đấu tranh giai cấp. Hai là, nhóm "nhân văn - giai phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ công - nông - binh, chúng chỉ nêu lên văn nghệ phục con người trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về với chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy. Ba là, hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa. Văn học XHCN là giả tạo, công chức, không có tác phẩm vĩ đại, không coi là nền văn nghệ tiên tiến trên thế giới. Thực chất là chúng phản đối XHCN, đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
  20. Bốn là, bọn "nhân văn - giai phẩm" phản đ ối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ mà chính xác là chúng đòi đưa quyền lãnh đạo vào tay bọn phản cách mạng. Đối với sự kiện nổi lên chống phá của nhóm "nhân văn - giai phẩm", Đảng ta đã kịp thời đấu tranh, phê phán các quan điểm, hành động phản cách mạng của chúng. Đã tự chấn chỉnh sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn nghệ, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối cách mạng của Đảng nhằm nâng cao tính Đảng trong các văn nghệ sĩ. Hồ Chí Minh mặc dù không có một tác phẩm nào, hoặc không trực tiếp đưa ra các quan điểm phê phán trực diện những luận điệu của bọn "nhân văn - giai phẩm" (có thể người viết chưa tìm thấy, hay chưa nghiên cứu kỹ) nhưng thông qua những tư tưởng của Người về văn hóa văn nghệ, có thể thấy Hồ Chí Minh đã hoàn toàn phủ nhận các quan điểm của bọn "nhân văn - giai phẩm". Bọn "nhân văn giai phẩm" phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, phản đốivăn nghệ phục vụ công, nông binh. Nh ưng theo Hồ Chí Minh, văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới. Hồ Chí Minh viết: "Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong" [2, 437]. Đối với các văn nghệ sĩ, Hồ Chí Minh kêu gọi: "Ngòi bút của các bạn cũng là những vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phò chính trừ từ" [2, 437]. Hoặc có lúc người viết: "Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông binh" [2, 437]. Bọn "nhân văn - giai phẩm" cho rằng văn nghệ sĩ là tự thân cách mạng, là đã có sẵn cái gốc thiện, trong người đã sẵn khuynh hướng về cái tốt, cái đẹp, cái thật. Chỉ cần người văn nghệ sĩ tự do và chân thành nghe nội tâm của mình thì sẽ thấy hết được cái tốt, cái đẹp, cái thật ở đời. Còn ở Hồ Chí Minh lại hoàn toàn ngược lại. Chỉ có thực tiễn cuộc sống của nhân dân mới đem lại nguồn sinh khí vô tận cho văn nghệ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2