intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 8 - Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

864
lượt xem
105
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận triết học, triết học Mac Lenin, lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 8 - Lý luận thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới ở Việt Nam

  1. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  LỜI MỞ ĐẦU Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế  nhiều thành phần, vận   hành theo cơ chế  thị trường, có sự  quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội   chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, lý luận nhận thức, vấn đề cải tạo thực tiễn nền kinh   tế luôn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng.      Ngày nay, triết học là một bộ  phận không thể  tách rời với sự  phát triển của  bất cứ hình thái kinh tế nào. Những vấn đề  triết học về lý luận nhận thức và thực   tiễn, phương pháp biện chứng... luôn là cơ sở, là phương hướng, là tôn chỉ cho hoạt   động thực tiễn, xây dựng và phát triển xã hội. Nếu xuất phát từ  một lập trường   triết học đúng đắn, con người có thể  có được những cách giải quyết phù hợp với   các vấn dề  do cuộc sống đặt ra. Việc chấp nhận hay không chấp nhận một lập   trường triết học nào đó sẽ không chỉ đơn thuần là sự chấp nhận một thế giới quan   nhất định, một cách lý giải nhất định về thế giới, mà còn là sự chấp nhận một cơ sở  phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho hoạt động. Chúng ta biết rằng, triết học là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa   Mác. Lênin đã chỉ  rõ rằng chủ  nghĩa duy vật biện chứng đó chính là triết học của   chủ nghĩa Mác. Cho đến nay, chỉ có triết học Mác là mang tính ưu việt hơn cả. Trên  cơ sở  nền tảng triết học Mác ­ Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã học tập và tiếp thu   tư  tưởng tiến bộ, đề  ra những mục tiêu, phương   hướng chỉ  đạo chính xác, đúng  đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Mặc dù có   những khiếm khuyết không thể  tránh khỏi song chúng ta luôn đi đúng hướng trong   cải tạo thực tiễn, phát triển kinh tế, từng bước đưa đất nước ta tiến kịp trình độ các   nước trong khu vực và thế  giới về  mọi mặt. Chính những thành tựu của xây dựng   chủ nghĩa xã hội và qua mười năm đổi mới là minh chứng xác đáng cho vấn đề nêu   trên. Hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn cùng với sự  nắm bắt các quy luật   khách quan trong vận hành nền kinh tế  ở nước ta là một vấn ềề còn nhiều xem xét  Trang 1
  2. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  và tranh cãi, nhất là trong quá trình đổi mới hiện nay.Vì vậy, em quyết định chọn đề  tài “Lý luận thực tiễn và sự  vận dụng quan điểm đó vào quá trình đổi mới  ở  Việt Nam”. CHƯƠNG I MỘT SỐ KHÁI NIỆM  LIÊN QUAN ĐẾN CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU I. THỰC TIỄN 1. Khái niệm Hoạt động con người chia làm hai lĩnh vực cơ  bản. Một trong hai lĩnh vực  quan trọng đó là: hoạt động thực tiễn.  Thực tiễn: (theo quan điểm triết học Mác xít): Là những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích, có tính lịch sử  ­ xã hội   của con người nhằm cải tạo, làm biến đổi tự nhiên và xã hội. 2. Tính vật chất trong hoạt động thực tiễn Đó là hoạt động có mục đích của xã hội, phải sử  dụng những phương tiện   vật chất đề tác động tới đối tượng vật chất nhất định của tự nhiên hay xã hội, làm   biến đổi nó, tạo ra sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Chỉ  có thực tiễn mới trực tiếp làm thay đổi thế  giới hiện thực, mới thực sự  mang tính chất phê phán và cách mạng. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của thực   tiễn, là cơ sở đề phân biệt hoạt  động thực tiễn khác với hoạt động lý luận của con   người. 3. Tính chất lịch sử xã hội Ở  những giai đoạn lịch sử  khác nhau, hoạt động thực tiễn diễn ra là khác   nhau, thay đổi về phương thức hoạt động. Trang 2
  3. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  Thực tiễn là sản phẩm lịch sử  toàn thế  giới, thể  hiện những mối quan hệ  muôn vẻ  và vô tận giữa con người với giới tự  nhiên và con người với con người  trong quá trình sản xuất vật chất và tinh thần, là phương thúc cơ bản của sự tồn tại   xã hội của con người. 4. Thực tiễn của con người được tiến hành dưới nhiều hình thức Trong quá trình hoạt động cải tạo thế  giới, con người tạo ra một hiện thực   mới, một ”thiên nhiên thứ  hai”. Đó là thế  giới của văn hóa tinh thần và vật chất,   những điều kiện mới cho sự  tồn tại của con người, những điều kiện này không  được giới tự  nhiên mang lại dưới dạng có sẵn. Đồng thời với quá trình đó, con   người cũng phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Chính sự  cải tạo hiện thực   thông qua hoạt động thực tiễn là cơ sở của tất cả những biểu hiện khác có tính tích   cực, sáng tạo của con người. Con người không thích nghi một cách thụ  động mà  thông qua hoạt động của mình, tác động một cách tích cực để  biến đổi và cải tạo  thế giới bên ngoài. Hoạt động đó chính là thực tiễn. a,Hoạt động sản xuất vật chất Là hoạt động thực tiễn quan trọng nhất của xã hội.Thực tiễn sản xuất vật   chất là tiền đề xuất phát để hình thành những mối quan hệ đặc biệt của con người   đối với thế giới, giúp con người vượt ra khỏi khuôn khổ tồn tại của các loài vật. b.Hoạt động chính trị xã hội Là hoạt dộng của con người trong các lĩnh vực chính trị  xã hội nhằm phát   triển và hoàn thiện các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội làm địa bàn rộng rãi cho   hoạt động sản xuất và tạo ra những môi trường xã hội xứng đáng với bản chất con   người bằng cách đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội. c. Hoạt động thực nghiệm khoa học Là hoạt động thực tiễn đặc biệt vì con người phải tạo ra một thế giới riêng  cho thực nghiệm của khoa học tự nhiên và cả khoa học xã hội. Trang 3
  4. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  II, THỰC TIỄN CÓ VAI TRÒ RẤT TO LỚN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC Hoạt động thực tiễn là cơ  sở, là nguồn gốc, là động lực, là mục đích, là tiêu   chuẩn của nhận thức. 1.Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức Trong hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi thế  giới khách quan, bắt  các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính và quy  luật của chúng. Trong quá trình hoạt động thực tiễn luôn luôn nảy sinh các vấn đề  đòi hỏi con người phải giải đáp và do đó nhận thức được hình thành. Như vậy, qua  hoạt động thực tiễn mà con người tự  hoàn thiện và phát triển thế  giới quan( tạo  điều kiện cho nhận thức cao hơn). Qua hoạt động thực tiễn, não bộ con người cũng ngày càng phát triển hơn, các   giác quan ngày càng hoàn thiện hơn. Thực tiễn là nguồn tri thức, đồng thời cũng là đối tượng của nhận thức.   Chính hoạt động thực tiễn đã đặt ra các nhu cầu cho nhận thức, tạo ra các   phương tiện hiện đại giúp con người đi sâu tìm hiểu tự nhiên. 1,Thực tiễn là động lực của nhận thức Ngay từ đầu, nhận thức đã bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn quy định. Mỗi bước   phát triển của thực tiễn lại luôn luôn đặt ra những vấn đề  mới cho nhận thức, thúc  đẩy nhận thức tiếp tục phát triển. Như  vậy thực tiễn trang bị  những phương tiện   mới, đặt ra những nhu cầu cấp bách hơn, nó rà soát sự nhận thức. Thực tiễn lắp đi  lắp lại nhiều lần, các tài liệu thu thập được phong phú, nhiều vẻ, con người mới  phân biệt được đâu là mối quan hệ  ngẫu nhiên bề  ngoài, đâu là mối liên hệ  bản   chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật. 2,Thực tiễn là mục đích của nhận thức Những tri thức khoa học chỉ  có ý nghĩa thực tiễn khi nó được vận dụng vào thực   tiễn. Mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là bản thân các tri thức mà là   Trang 4
  5. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  nhằm cải tạo hiện thức khách quan, đáp  ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần   xã hội. Sự hình thành và phát triển của nhận thức là bắt nguồn từ thực tiễn, do yêu  cầu của thực tiễn.  Nhận thức chỉ  trở  về  hoàn thành chức năng của mình khi nó chỉ  đạo hoạt   động thực tiễn, giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả  hơn. Chỉ  có thông qua  hoạt động thực tiễn, thì tri thức con người mới thể hiện được sức mạnh của mình,  sự hiểu biết của con người mới có ý nghĩa. 3,Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức Bằng thực tiễn mà kiểm chứng nhận thức đúng hay sai. Khi nhận thức đúng thì nó   phục vụ thực tiễn phát triển và ngược lại. 4,Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý a.Chân lý Là những tri thức phản ánh đúng đắn thế  giới khách quan được thực tiễn   khẳng định ( nội dung khách quan, có ý nghĩa giá trị đối với đời sống con người) Chân lý mang tính khách quan, nó không phụ thuộc vào số đông (ví dụ: chân lý   tôn giáo). Chân lý mang tính hai mặt ( tuyệt đối và tương đối ) vì tính hai mặt trong quá  trình nhận thức của nhân loại. b.Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý Theo quan điểm của chủ  nghĩa duy vật biện chứng, tiêu chuẩn để  kiểm tra  chân lý không phải là ý thức tư  tưởng, tư  duy mà là thực tiễn. Bởi vì chỉ  có thông   qua hoạt động thực tiễn, tri thức mới trở lại tác động vào thế  giới vật chất, qua đó  nó được ”hiện thực hoá”, “vật chất hơn” thành các khách thể cảm tính. Từ đó mới   có căn cứ để đánh giá nhận thức của con người đúng hay sai, có đạt tới chân lý hay   không. Trang 5
  6. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  Thực tiễn có rất nhiều hình thức khác nhau, nên nhận thức của con người cũng   được kiểm tra thông qua rất nhiều hình thức khác nhau. +Thực tiễn của xã hội luôn luôn vận động và phát triển. +Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử đều có giới hạn. Nó không thể chứng  minh hay bác bỏ hoàn toàn một tri thức nào đó của con người mà nó được thực tiễn  tiếp theo chứng minh, bổ sung thêm.  Như  vậy tiêu chuẩn thực tiễn cũng mang tính chất biện chứng và như  vậy   mới có khả  năng kiểm tra một cách chính xác sự  phát triển biện chứng của nhận  thức.  c.Ý nghĩa: Thực tiễn lớn nhất  ở nước ta hiện nay là thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị  trường mới, nền văn hoá mới đậm đà bản sắc dân tộc và chế  độ  xã hội mới: công   bằng, bình đẳng, tién bộ. Trong lĩnh vực kinh tế, đường lối, chính sách hay các giải pháp kinh tế cụ thể  muốn biết đúng hay sai đều phải thông qua vận dụng chúng trong sản xuất, kinh  doanh cũng như  quản lý các quá trình đó. Đường lối chính  sách cũng như  các giải  pháp kinh tế chỉ đúng khi chúng mang lại hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát   triển, nâng cao năng suất lao động, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,  văn minh.  Công cuộc xây dựng chủ  nghĩa xã hội sau những bước tiến và những thành  tựu to lớn mang lại ý nghĩa lịch sử, giờ đây lại đặt ra nhiều vấn đề  cần giải quyết.   Những hoạt động nghiên cứu lý luận chính là nhằm tìm ra lời giải đáp cho những   vấn đề  của giai đoạn cách mạng hiện nay. Công cuộc đổi mới  ở  nước ta vừa là   mục tiêu, vừa là động lực mạnh mẽ  thúc đẩy hoạt động nhận thức nói chung và  công tác lý luận nói riêng, nhất định sẽ  đem lại cho chúng ta những hiểu biết mới,   phong phú hơn và cụ thể hơn về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội ở nước ta.  Trang 6
  7. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  III.  MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Lý luận a. Khái niệm Là một hệ  thống những tri thức được khái quát từ  thực tiễn. Nó phản ánh  những quy luật, của từng lĩnh vực trong hiện thực khách quan. b. Đặc điểm Lý luận mang tính hệ thống, nó ra đời trên cơ sở đáp ứng nhu cầu của xã hội  nên bất kỳ một lý luận nào cũng mang tính mục đích và ứng dụng. Nó mang tính hệ thống cao, tổ chức có khoa học. 2. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn Được thể hiện bằng mối quan hệ giữa nhận thức và thực tiễn. GIữa lý luận  và thực tiễn thống nhất biện chứng với nhau. Sự thống nhất đó bắt nguồn từ  chỗ:   chúng đều là hoạt động của con người, đều nhằm mục đích cải tạo tự nhiên và cải   tạo xã hội để thoả mãn nhu cầu của con người. a. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn Lý luận dựa trên nhu cầu của thực tiễn và lấy được chất liệu của thực tiễn.   Thực tiễn là hoạt động cơ  bản nhất của con người, quyết định sự  tồn tại và phát  triển xã hội. Lý luận không có mục đích tự  nó mà mục đích cuối cùng là phục vụ  thực tiễn. Sức sống của lý luận chính là luôn luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ  cho yêu cầu của thực tiến.  b. Lý luận mở đường và hướng dẫn hoạt động của thực tiễn Ví dụ: lý luận Mác ­ Lênin hướng dẫn con đường đấu tranh của giai cấp vô   sản. Sự thành công hay thất bại của hoạt động thực tiễn là tuỳ thuộc vào nó được   hướng dẫn bởi lý luận nào, có khoa học hay không? Sự phát triển của lý luận là do   yêu cầu của thực tiễn, điều đó cũng nói lên thực tiễn không tách rời lý luận, không  thể thiếu sự hướng dẫn của lý luận. Trang 7
  8. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  Vai trò của lý luận khoa học là  ở  chỗ: nó đưa lại cho thực tiễn các tri thức  đúng đắn về các quy luật vận động, phát triển của hiện thực khách quan, từ đó mới   có cơ sở để định ra mục tiêu và phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Quan hệ  lý luận và thực tiễn mang tính chất phức tạp, quan hệ  đó có thể  là  thống nhất hoặc mâu thuẫn đối lập. c. Lý luận và thực tiễn là thống nhất Lý luận và thực tiễn thống nhất khi giai cấp thống trị còn mang tinh thần tiến   bộ và còn giữ sứ mệnh lịch sử. Khi lý luận và thực tiễn thống nhất thì chúng sẽ tăng  cường lẫn nhau và phát huy vai trò của nhau. Sự thống nhất đó là một trong những   nguyên lý căn bản của triết học Mác­ Lênin. d. Sự mâu thuẫn của lý luận và thực tiễn Xảy ra khi giai cấp thống trị  trở nên phản động, lỗi thời, lạc hậu. Khi mâu   thuẫn nảy sinh, chúng sẽ  làm giảm  ảnh hưởng của nhau. Điều đó dẫn đến mọi  đường lối, chính sách xã hội trở nên lạc hậu và phản động. *Ý nghĩa: Cần phải tăng cường, phát huy vai trò của lý luận đối với xã hội, đặc biệt là  lý luận xã hội mà quan trọng là lý luận Mác ­ Lênin và các lý luận về kinh tế. Trước chủ  nghĩa Mác, trong lý luận nhận thức, phạm trù thực tiễn hầu như  không có chỗ  đứng nào. Nhiều người còn hình dung thực tiễn với bộ  mặt xấu xí   của con buôn (Phơ­Bách). Trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê  phán”, sau khi phê phán E. Ma Khơ  và một số  ngươi khác đã ”cố  gạt thực tiễn ra   khỏi lý luận nhận thức, coi thực tiễn như một cái gì không đáng nghiên cứu về mặt   nhận thức luận, đã ”đem cái tiêu chuẩn thực tiễn là cái giúp cho mỗi người phân   biệt được ảo tưởng với hiện thực đặt ra ngoài giới hạn của khoa học, của lý luận   nhận thức... để dọn chỗ cho chủ nghĩa duy tâm và thuyết bất khả tri”.  Trang 8
  9. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  V.I.Lênin đã khẳng định: quan điểm về  đời sống, về  thực tiễn phải là quan   điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức. (“V.I.Lênin toàn tập” – 1980) Chính vì sự quan trọng của mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn nên đối với   nước ta trong giai đoạn này cần đảm bảo sự thống nhất giữa lý luận và hoạt động.  Hiện nay, nước ta đang tiến hành đổi mới một cách toàn diện các mặt của đời sống   xã hội, mà trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm. Đổi mới từ nền kinh tế tập trung   quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một vấn đề hết   sức mới mẻ chưa có lời giải đáp sẵn. Và chúng ta cũng không bao giờ có thể có một   lời giải sẵn sau đó mới đi vào tiến hành đổi mới. Quá trình đổi mới nói chung, đổi   mới kinh tế  nói riêng và việc nhận thức quá trình đổi mới đó không tách rời nhau,   tác động qua lại lẫn nhau cùng phát triển. Vậy trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách   quan, phải lấy hiện thực khách quan làm cơ  sở  cho hoạt động của mình. Gắn lý  luận vào thực tiễn để  hoạt động trở  nên khoa học, có cơ  sở  vững chắc. Tinh thần  ấy chính là vấn đề cần nghiên cứu trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI. e. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của   chủ nghĩa Mác­ Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng đẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận  mà không liên hệ  với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn  mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận   cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nang cho hành động cách mạng, và   lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo. Lý luận luôn luôn   cần được bổ  sung bằng những kết luận mới rút ra từ  trong thực tiễn sinh động.  Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ  nghĩa Mác _ Lênin cho thích   hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi (“Hồ Chí Minh: toàn tập”­1996) *Con đường biện chứng của sự nhận thức: Trang 9
  10. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  Nhận thức của con người diễn ra trên cơ  sở  thực tiễn và không ngừng vận   động, phát triển. Sự  vận động và phát triển của nhận thức diễn ra một cách biện  chứng: ­ “Từ trực quan sinh động đến tư  duy trìu tượng và từ  tư  duy trìu tượng đến  thực tiễn ­ đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức   thực tại khách quan”. +Trực quan sinh động (hay nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình  nhận thức, được hình thành trong quá trình thực tiễn.Giai đoạn này được hình thành   thông qua các hình thức cơ bản nối tiếp nhau: cảm giác, tri giác, biểu tượng... +Tư duy trì tượng (hay nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận  thức dựa trên cơ sở những tài liệu do giai đoạn trực quan sinh động mang lại. ­ Nhận thức của con người phát triển đến giai đoạn tư  duy trìu tượng chưa  phải là chấm dứt, mà nó lại tiếp tục vận động trở về với thực tiễn. Nhận thức phải   trở về với thực tiễn vì: + Mục đích của nhận thức là phục vụ hoạt động thực tiễn. Vì vậy nó phải trở  về chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới.  +Đến giai đoạn tư duy trìu tượng vẫn có khả năng phản ánh sai lạc hiện thực.  Vì vậy, nhận thức phải quay trở về thực tiễn để  kiểm tra kết quả nhận thức, phân  biệt đâu là nhận thức đúng, đâu là nhận thức sai lầm. +Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển. Vì vậy nhận thức phải trở về với   thực tiễn để trên cơ sở thực tiễn mới tiếp tục bổ sung, phát triển nhận thức. ­ Từ  trực quan sinh động dến tư  duy trìu tượng, và từ  tư  duy trìu tượng đến  thực tiễn là một vòng khâu của quá trình nhận thức. Nó cứ  lặp đi lặp lại làm cho  nhận thức của con người phát triển không ngừng, ngày càng phản ánh sâu sắc bản  chất, quy luật của thế giới khách quan.         Trang 10
  11. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  CHƯƠNG II QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM I,VỊ TRÍ ĐỊA LÝ ­Việt Nam nằm  ở  phía đông của bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông  Nam Á, có một vùng biển rộng, giàu tiềm năng.  ­Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển tạo điều kiện cho nước ta có thể dễ  dàng giao lưu với các nước trên thế giới. +Trên đất liền, nước ta giáp Trung Quốc, Lào, Campuchia. Thông qua các   tuyến giao thông (đường bộ, đường sắt...) với các cửa khẩu quan trọng, Việt Nam   có thể liên hệ với nhiều nước trên thế giới. + Nước ta nằm gần các tuyến đường biển quốc tế. Thông qua đường biển, có  thể quan hệ với nhiều quốc gia. +Vùng biển rộng lớn, giàu tiềm năng cho phép phát triển kinh tế biển. ­Việt Nam là nơi giao thoa của các nền văn hoá khác nhau. Điều đó góp phần   làm giàu bản sắc văn hoá.  ­Việt Nam nằm  ở  khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế  sôi động   của thế  giới. Từ đó cho phép nước ta có thể  dễ  dàng hội nhập với các nước trong  khu vực và trên thế giới. Ta có thể tiếp thu và chọn lọc những bài học, kinh nghiệm   thành công cũng như thất bại về  phát triển kinh tế  của các nước và vận dụng vào  điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.  II, QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 1.Tình hình: Trang 11
  12. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  ­ Sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước  xã hội chủ  nghĩa lúc đó, nước ta bắt đầu xây dựng một mô hình kinh tế  kế  hoạch  hoá tập trung dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các hình thức tổ chức   sản xuất và dịch vụ  quốc doanh được phát triển. Cùng với quốc doanh, hợp tác xã  được tổ chức rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Với hai hình thức sở hữu toàn dân và   tập thể, sở hữu tư nhân bị thu hẹp lại, không còn cơ sở cho tư nhân phát triển. Cùng  với quốc doanh, hợp tác xã được tổ chức rộng rãi vì ta đã học tập được mô hình tổ  chức kinh tế  của Liên Xô cũ. Với sự  nỗ  lực cao độ  của nhân dân ta, cùng với sự  giúp đỡ  tận tình của các nước xã hội chủ  nghĩa lúc đó, mô hình kế  hoạch hoá tập  trung đã phát huy được những tính ưu việt đó. ­ Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phân tán và manh mún, bằng công  cụ  kế  hoạch hóa, ta đã tập trung được vào trong tay một lực lượng vật chất quan   trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng thành thị và nông thôn, đất đai, máy   móc, tiền vốn để ổn định và phát triển kinh tế. Vào những năm sau của thập niên 60, ở  Miền Bắc đã có những chuyền biến  về  kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ  đầu, nền kinh tế  tập trung bao cấp đã tỏ  ra phù   hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp, phù hợp với điều kiện hai nhiệm vụ sản xuất  và chiến đấu trong chiến tranh lúc đó. ­ Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, một bức tranh mới về hiện trạng   kinh tế  Việt Nam đã  thay đổi. Đó là sự  duy trì một nền kinh tế  tồn tại cả  ba loại  hình: +Kinh tế cổ truyền (tự cung tự cấp) +Kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp (ở miền Bắc) +Kinh tế thị trường  (đặc trưng ở miền Nam). Mặc dù đây là một tồn tại khách quan sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp   tục xây dựng nền kinh tế tập trung theo cơ chế kế hoạch hoá trên phạm vi cả nước.  Đó là sự áp đặt rất bất lợi. Trang 12
  13. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  2. Hậu quả:  Do chủ quan nóng vội, cứng nhắc, chúng ta đã không quản lý được hiệu quả  các nguồn lực dẫn tới việc sử  dụng lãng phí nghiêm trọng các nguồn lực của đất   nước. ­ Tài nguyên bị  phá hoại, sử  dụng khai thác không hợp lý, môi trường bị  ô  nhiễm.  ­ Nhà nước bao cấp và tiến hành bù lỗ  phổ  biến gây hậu quả  nghiệm trọng   cho nền kinh tế. + Sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tăng trưởng kinh tế trên lý thuyết, giấy tờ. +Hàng hoá, sản phẩm trở nên khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu trong   nước. +Ngân sách thâm hụt nặng nề. Vốn nợ  đọng nước ngoài ngày càng tăng và   không có khả năng cho chi trả. +Thu nhập từ  nền kinh tế  quốc dân không đủ  chi dùng, tích luỹ  hầu như  không có. +Vốn đầu tư  cho sản xuất và xây dựng chủ  yếu là dựa vào vay và viện trợ  nước ngoài. ­ Cùng với đó là sự thoái hoá về mặt con người và xã hội. ­ Đến năm 1979, nền kinh tế rất suy yếu, sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân   khó khăn, nguồn trợ giúp từ bên ngoài giảm mạnh. ­ Từ năm 1975 đến năm 1985, các thành phần kinh tế tư bản tư nhân, cá thể bị  tiêu diệt hoặc không còn điều kiện phát triển dẫn đến thực trạng tiềm năng to lớn  của các thành phần kinh tế  này không được khai thác và phục vụ  cho mục tiêu  chung của nền kinh tế. Ngược lại, thành phần kinh tế quốc doanh đã phát triển ồ ạt,  tràn lan trên mọi lĩnh vực trở  thành địa vị  đọc tôn trong hầu hết các ngành công   nghiệp, xây dựng, dịch vụ  (trừ  ngành nông nghiệp, thành phần kinh tế  tập thể  là  Trang 13
  14. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  chủ  yếu).Thời điểm cao nhất, thànhphần kinh tế  quốc doanhđã cõ gần 13 nghìn  doanh nghiệp với số  tài sản cố  định chiếm 70% tổng số  tài sản cố  định của nền  kinh tế. Thời kỳ này, kinh tế nước ta tuy có đạt được tốc độ  tăng trưởng nhất định   nhưng sự tăng trưởng đó không có cơ  sở để  phát triển vì đã dựa vào điều kiện bao  cấp, bội chi ngân sách, lạm phát và vay nợ nước ngoài. ­ Do phát triển tràn lan lại quản lý theo cơ  chế  bao cấp, kế  hoạch hoá tập   trung nên nhà nước gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý, điều hành các doanh  nghiệp quốc doanh, nhiều doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, lực lượng sản   xuất không được giải phóng, nền kinh tế  lâm vào tình trạng khủng hoảng và tụt  hậu. 3.Nguyên nhân Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận  cơ  cấu kinh tế  nhiều thành phần còn tồn tại trong thời gian tương đối dài, chưa   nắm vững và vận dụng đúng lý luận và thực tiễn vào tinh hình nước ta. Đến năm 1986, cơ  chế  tập trung quan liêu, bao cấp về  căn bản vẫn chưa bị  xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ, nhiều chính sách, thể chế lỗi thời  chưa được thay đổi. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện  tượng vô tổ chức, vô kỷ luật còn khá phổ biến. Việc đổi mới cơ chế  và bộ  máy quản lý, việc điều hành không nhạy bén, là  những nguyên nhân quan trọng dẫn  tới hành động không thống nhất từ trên xuống   dưới. Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, hình thức,  bước đi, cách làm cụ thể thì còn nhiều vấn đề  chưa giải quyết được thoả  đáng cả  về lý luận và thực tiễn. 4. Tư tưởng chỉ đạo Trang 14
  15. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­   Ta đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận trong thời kỳ quá độ:”Khuynh  hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy,đặc biệt là những chính sách kinh tế  là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo  nguyện vọng chủ quan” (Đảng công sản Việt nam ­ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn   quốc lần thứ VI­1986).  Chúng ta đã có những thành kiến không đúng, trên thực tế,  chưa thừa nhận thật sự  những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách   quan. Chúng ta đã  ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách quá mức mà hiệu  quả  kinh tế  phát triển chậm. Hơn thế  nữa, ta chưa chú ý đúng mức tới sản xuất   nông nghiệp và sản xuất hàng tiêu dùng nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. ­ Bên cạnh đó, sự  tan rã của hệ  thống các nước xã hội chủ  nghĩa vào những   năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 làm cho chúng ta mất đi một thị trường truyền   thống, nguồn viện trợ quan trọng, gây nhiều khó khăn đối với sản xuất và đời sống. ­ Chính sách cấm vận của Hoa Kỳ kéo dài, sự  thù địch của các thế  lực phản  động cũng có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước. Tất cả  những nguyên nhân trên cộng với thiên tai, mất mùa liên tiếp vào  những năm 1979 ­ 1980 đã đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng, công nghiệp chỉ  tăng 0,6%, nông nghiệp tăng 1,9% trong khi lạm phát  ở  mức siêu cấp năm 1986 :   74% Chính vì vậy, bài học kinh nghiệm được rút ra trong “ Văn kiện Đại hội Đại   biểu toàn quốc lần thứ  VI về  phát triển kinh tế  phải xuất phát từ  thực tiễn, tôn  trọng và hoạt động theo quy luật khách quan là hoàn toàn đúng đắn. Chính từ những   khó khăn trên đòi hỏi phải đổi mới nền kinh tế,  xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần   thứ VI đã đánh dấu một mốc phát triển quan trọng trong quá trình phát triển của đất  nước. Trang 15
  16. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TÌNH HÌNH ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ  Để  khắc phục khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết  phải thay đổi nhận thức , đổi mới tư  duy. Phải nhận thức và hành động đúng đắn,  đề  ra những chủ  trương, chính sách phù hợp với hệ  thống quy luật khách quan,  trong đó các quy luật đặc thù của chủ  nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ  phương hướng phát triển chung của xã hội. Mọi chủ trương, chính sách, biện pháp  kinh tế  gây tác động ngược lại đều biểu hiện sự  vận dụng không đúng quy luật   khách quan, phải được sửa đổi hoặc huỷ bỏ. ­ Trên cơ sở đó, chúng ta phải vận dụng tổng hợp hệ thống các quy luật đang  tác động lên nền kinh tế. Trong hệ thống các quy luật đó, quy luật kinh tế  cơ bản  cùng với các quy luật đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội ngày càng phát huy vai trò  chủ  đạo, được vận dụng trong một thể  thống nhất với các quy luật của sản xuất   hàng hoá, đặc biệt là quy luật giá trị, quy luật cùng cầu, quy luật cạnh tranh... Kế  hoạch hoá phải luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các đòn bảy kinh tế. ­ Đại hội đảng lần thứ VI có ý nghĩa đặc biệt quan trọng . Những quan điểm,  đường lối do Đại hội VI vạch ra là sự  vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ  nghĩa   Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của đất nước . Công cuộc đổi mới  của Đảng từ  sau Đại hội VI đến nay  ở  nước ta không nằm ngoài những quy luật   phổ  biến của phép biện chứng, Đảng ta đã vận dụng phép biện chứng vào nhận   thức hiện thực xã hội, phân tích các mối liên hệ biện chứng của đời sống hiện thực,   tìm ra các mâu thuẫn đó và tạo ra động lực mạnh mẽ  cho quá trình đổi mới vững   chắc. Vì trước đây, nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế, xã hội với nhiều khó   khăn phức tạp, gay gắt, lạm phát phi mã do tư duy lý luận bị  lạc hậu, giữa lý luận   và thực tiễn có khoảng cách xa. Tư  duy cũ về  chủ  nghĩa xã hội theo mô hình tập  trung quan liêu bao cấp đã cản trở sự phát triển của thực tiễn sản xuất. Bị chi phối   Trang 16
  17. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  bởi quy luật mâu thuẫn khách quan nên để giải quyết mâu thuẫn đó Đảng ta đã tiến  hành đổi mới và cải cách kinh tế. ­ Bước đầu tạo ra một cơ  cấu kinh tế  hợp lý nhằm phát triển sản xuất. Để  làm đủ ăn và có tích luỹ, phải ra sức phát triển sản xuất, xây dựng một cơ cấu kinh  tế  hợp lý, trước hết là cơ  cấu các ngành kinh tế  phù hợp với tính quy luật về  sự  phát triển các ngành sản xuất vật chất, phù hợp với sự  phân công lao động và hợp  tác quốc tế. Cơ cấu kinh tế đó đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối với nhịp   độ  tăng trưởng  ổn định. Phải thông qua việc sắp xếp lại sản xuất, đi đôi với việc  xây dựng thêm cơ cấu kinh tế hợp lý. ­ Hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng   tiêu dùng, xuất khẩu.       ­ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ  sản xuất mới phù hợp với tính  chất và trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế  xã  hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh, tập thể. Bằng các biện pháp thích   hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự  liên kết chặt  chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. giải pháp đó xuất  phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế  có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Thực chất của cơ  chế  mới về  quản lý kinh tế  là cơ  chế  kế  hoạch hoá theo phương thức hoạch toán   kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. ­ Tiến hành phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chống tập   trung quan liêu, chống tự  do vô tổ  chức. Bảo đảm quyền tự  chủ  sản xuất, kinh  doanh, tự chủ tài chính của các đơn vị kinh tế cơ sở, quyền làm chủ của các tập thể  lao động. Trang 17
  18. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  CHƯƠNG III  ÁP DỤNG LÝ LUẬN THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HIỆN  NAY Việc Đảng ta tổng kết những bài học  ở  Đại hội VI, lần đầu tiên chỉ  rõ sai   lầm chủ  quan, duy ý chí, coi thường các quy luật khách quan dẫn tới làm sai, làm  hỏng và phải sửa chữa trong các chính sách xây dựng kinh tế, phát triền văn hoá có ý  nghĩa tự giải phóng và mở đường cho sự phát triển mới rất to lớn. Trên thực tế, đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo có một sự  tương  đồng về  hoàn cảnh, nội dung và ý nghĩa như”Chính sách kinh tế  mới của Lênin”  (NEP). Với đổi mới, quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa  xã hội của Đảng ta đã ngày được xác định rõ hơn. Nó thấm nhuần quan điểm lịch sử  cụ thể, quan điểm thực tiễn và quan điểm phát triển. I. LÝ LUẬN VỀ THỰC TIỄN TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH   TẾ VÀ ĐỔI MỚI KINH TẾ HIỆN NAY.   Công cuộc đổi mới chính thức bắt đầu từ việc Đảng ta thừa nhận và cho phép   phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là  một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta hiện nay. Phải dung   hoà và tồn tại nhiều thành phần kinh tế  là một tất yếu do lịch sử  để  lại song đưa   chúng cùng tồn tại và phát triển mới là một vấn đề  nan giải, khó khăn. Bên cạnh  việc thừa nhận sự  tồn tại của kinh tế  tư  bản tư  nhân, đương nhiên phải thường   xuyên đấu tranh với xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt tiêu cực trong  các thành phần kinh tế, giải quyết mâu thuẫn tồn tại trong sản xuất giữa chúng để  cùng phát triển.  Sự nghiệp đổi mới ở nước ta cung cấp một bài học to lớn về nhận thức. Đó  là bài học về quán triệt quan điểm thực tiễn ­ nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác   Trang 18
  19. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  ­ Lênin, quan điểm cơ  bản và hàng đầu của triết học Mác xít. Sự  nghiệp đổi mới   với tính chất mới mẻ và khó khăn của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng.   Sự khám phá về  lý luận phải trở thành tiền đề  và điều kiện cơ  bản làm cơ  sở  cho   sự đổi mới trong hoạt động thức tiễn. Tuy nhiên, lý luận không bỗng nhiên mà có và   cũng không thể chờ chuẩn bị xong xuôi về lý luận rồi mới tiến hành đổi mới. Hơn   nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có   kinh nghiệm, mới có cơ sở đề khái quát thành lý luận.  Vì vậy, quá trình đổi mới  ở  nước ta chính là quá trình vừa học vừa làm, vừa  làm vừa tổng kết lý luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở  lại quá trình đổi mới. Có những điều chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải   trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới biết, thậm chí có nhiều điều phải chờ  thực  tiễn. Ví dụ  như  vấn đè chống lạm phát, vấn đề  khoán trong nông nghiệp, vấn đề  phân phối sản phẩm... Trong quá trình đó, tất nhiên sẽ  không tránh khỏi việc phải   trả giá cho những khuyết điểm, lệch lạc nhất định. Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc sáng tạo của cán bộ và nhân dân là   rất quan trọng. Trên cơ  sở, phương hướng chiến lược đúng, hãy làm rồi thực tiễn   sẽ  cho ta hiểu rõ sự  vật hơn nữa ­ đó là bài học không chỉ  của sự  nghiệp kháng   chiến chống ngoại xâm mà còn là bài học của sự  nghiệp đổi mới vừa qua và hiện   nay. Trong khi đề  cao vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề  hạ  thấp, không hề  coi nhẹ lý luận. Quá trình đổi mới là quá trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình   độ  lý luận của mình, cố  gắng phát triển lý luận, đổi mới tư  duy lý luận về  chủ  nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được thể hiện qua  năm bước chuyển của đổi mới tư duy phù hợp với sự vận động của thực tiễn cuộc   sống trong những hoàn cảnh và điều kiện mới       1. Bước chuyển thứ nhất: Trang 19
  20. TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ­  Từ tư duy, dựa trên mô hình kinh tế hiện vật với sự tuyệt đối hoá sở  hữu xã  hội (Nhà nước và tập thể) với sự  phát triển vượt trước của quan hệ  sản xuất đối   với sự  phát triền của lực lượng sản xuất dẫn tới hậu quả kìm hãm sự   phát triển  sản xuất... sang tư duy mới. Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong  đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa  dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao   động làm đặc trưng chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Đây chính là bước chuyển căn bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy   luật khách quan về  sự  phù hợp giữa quan hệ  sản xuất và lực lượng sản xuất; tuỳ  thuộc vào trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan   hệ sản xuất cho phù hợp . 2. Bước chuyển thứ hai: Từ  tư  duy quản lý dựa trên mô hình một nền kinh tế  chỉ  huy tập trung, kế  hoạch hoá tuyệt đối với cơ chế bao cấp và bình quân sang tư duy quản lý mới thích   ứng với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có   sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa  3. Bước chuyển thứ ba: Đó là tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, từ chế độ  tập trung quan liêu với  phương thức quản lý hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời   sống xã hội, thực hiện dân chủ toàn diện. 4. Bước chuyển thứ tư: Đổi mới quan niệm về sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội ở một  nước phải xuất phát từ chủ nghĩa Mác ­ Lê nin trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ  thể của nước đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan quy định  nhận thức và những tìm tòi sáng tạo của chủ thể lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ  Trang 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2