intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận:Tương lai quan hệ Mỹ -Trung:Xung đột là không tránh khỏi

Chia sẻ: Bcjxc Gdfgf | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

88
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bốn năm sau các vụ tấn công khủng bố vào New York và Washington ngày 11/9/2001, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) tiến triển khá vững vàng. Những người ra quyết sách của Mỹ đã hướng sự chú ý của họ đến những mối nguy cấp bách của việc phổ biến vũ khí hạt nhân và khủng bố,

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận:Tương lai quan hệ Mỹ -Trung:Xung đột là không tránh khỏi

  1. Tiểu luận TƯƠNG LAI QUAN HỆ MỸ - TRUNG: XUNG ĐỘT LÀ KHÔNG TRÁNH KHỎI?
  2. Bốn năm sau các vụ tấn công khủng bố vào New York và Washington ngày 11/9/2001, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) tiến triển khá vững vàng. Những người ra quyết sách của Mỹ đã hướng sự chú ý của họ đến những mối nguy cấp bách của việc phổ biến vũ khí hạt nhân và khủng bố, họ dường như ít có khuynh hướng xem Trung Quốc như là một đối thủ cạnh tranh chiến lược trên thực tế hay tiềm năng và hi vọng nhiều hơn là, trong thế giới hậu 11/9, tất cả các cường quốc sẽ gắn kết lại trước những mối nguy hiểm chung ... [và] ngày càng tăng bởi các lợi ích chung. Khi Tổng thống George W. Bush bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình thì đã có dấu hiệu của sự va chạm giữa Washington và Bắc Kinh và tiếp tục gia tăng nghi ngờ, ít nhất là về phía Hoa Kỳ, rằng mối quan hệ đã là hòa dịu, và những lợi ích (vẫn còn ít giá trị) của hai bên là tương thích như đã được tuyên bố. Báo động về việc nâng cấp các lệnh cấm vận vũ khí của châu Âu đã giúp tạo ra sự chú ý đến tốc độ và phạm vi tăng cường quân sự của Trung Quốc. Thất vọng với các cuộc đàm phán bị đình trệ về chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên đã khiến cho một số nhà quan sát đặt ra câu hỏi liệu Bắc Kinh có thực sự chia sẻ các cam kết ngăn chặn phổ biến vũ khí với Mỹ. Những báo cáo ngoại giao về "cuộc tấn công bằng sức quyến rũ" của Trung Quốc ở Đông Nam Á cho thấy những lo ngại về ảnh hưởng suy yếu của Mỹ và quyền bá chủ mới của Trung Quốc trong khu vực. Trong khi đó, bằng chứng chỉ ra rằng việc Trung Quốc mở rộng sự tương tác của nó với châu Âu, châu Mỹ La tinh, Châu Phi, và Trung Đông đã làm gia tăng nỗi ám ảnh về một sự cạnh tranh về quyền lực cũng như ảnh hưởng toàn cầu mới. Thêm vào sự kết hợp dễ mâu thuẫn này là tranh cãi chính thức về cán cân thương mại và giá trị tiền tệ, cũng như những tin tức giật gân về sự tác động của lượng cầu lớn của Trung Quốc đối với giá năng lượng và nguyên vật liệu và các vụ mua bán các công ty Mỹ dự kiến bởi các đối thủ Trung Quốc mới nổi. "Cuộc cá cuợc cũ của Trung Quốc đã chấm dứt”, một nhà quan sát tuyên bố vào giữa năm 2005, trong khi một ý kiến khác (khảo sát tình hình kinh tế) lại cho rằng đó là “sự kết thúc của chuyện tình Trung Quốc”.
  3. Những sự việc gần đây có thể chứng tỏ nhiều điều hơn là một sự lạnh nhạt thoáng qua. Cho dù ý nghĩa tối hậu của nó có thế nào thì những sự phát triển này cũng dấy lên những câu hỏi cơ bản về định hướng tương lai và những yếu tố quyết định cơ bản của quan hệ Mỹ-Trung. Điều gì có thể sẽ là nét đặc sắc của mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong hai hay ba thập kỷ tiếp theo? Nó sẽ được ghi dấu bằng sự hội tụ về các mặt tăng cường hợp tác, ổn định và hòa bình hoặc suy giảm, tiến tới sự cạnh tranh ngày càng mở rộng, và thậm chí có cả chiến tranh? Các câu trả lời cho những câu hỏi này có tầm quan trọng rất lớn. Nếu căng thẳng giữa hai cường quốc Thái Bình Dương bị trầm trọng thêm thì toàn bộ Đông Á-Âu có thể bị phân chia trong một cuộc chiến tranh lạnh mới, và triển vọng cho cuộc đối đầu và xung đột dường như chắc chắn sẽ tăng. Mặt khác, một khối đồng minh Mỹ-Trung sâu sắc có thể mang theo nó khả năng cho sự phát triển bền vững kinh tế trên toàn thế giới, giải quyết hòa bình các tranh chấp tại các khu vực điển hình, và quản lý thành công các vấn đề toàn cầu bức thiết, bao gồm phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt và khủng bố. Cho dù tốt hay xấu, mối quan hệ quốc tế song phương quan trọng nhất trong quá trình vài thập kỷ tới có thể sẽ là giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Vẫn có thể duy trì tầm ảnh hưởng của mình trong đời sống quan hệ quốc tế, tuy vậy, tương lại quan hệ Mỹ- Trung lại không có gì để bảo đảm. Đối với vấn đề này, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng rất khó để có thể chắc chắn về những gì ở phía trước. Hai mươi năm trước, một vài người đã dự đoán trước được sự đối đầu Xô- Mỹ sẽ trải qua một sự biến đổi lớn về chất. Nhưng rất ít người có thể tưởng tượng rằng Liên Xô tan rã và sự đối đầu 2 cực này sẽ chấm dứt. Không phải chỉ là câu trả lời cho vấn đề này là chưa được biết đến mà có thể nói, điều này là không thể biết trước được. Tại thời điểm này, không thể dự báo rằng quan hệ cấp nhà nước giữa 2 quốc gia này sẽ như thế nào trong 5 năm tới, và sẽ chẳng thể nói trước điều gì sẽ xảy đến trong 10, 20 năm nữa. Cho dù khác nhau về sự tự tin vào những dự đoán của mình hay sự sẵn sang để đưa ra những dự đoán cụ thể, rõ ràng, hầu hết những người suy ngẫm và viết về quan hệ Mỹ Trung dù vậy vẫn đều có niềm tin và kỳ vọng về những khu vực mà mối quan hệ này chi phối, hay về những yếu tố có khả năng tác động lớn tới việc xác định chiều hướng, hướng đi của mối quan hệ này. Trong phạm vi những điều mà họ có thế có được cái nhìn và quan điểm chung thống nhất và rõ ràng thì hầu hết các nhà phân tích đều đưa ra lập luận rằng cuộc tranh luận xuất phát từ 1 hay 2 trong 3 trường phái chính của quan hệ quốc tế đương đại: Chủ nghĩa tự do, chủ
  4. nghĩa hiện thực và chủ nghĩa kiến tạo. Làm cho vấn đề có nhiều hứng thú nhưng cũng khiến nó phức tạp hơn, những người có những cơ sở phân tích cơ bản đặt chúng vào tư duy của 1 trong 3 trường phái rộng lớn trên và không nhất thiết phải có cái nhìn tương tự về tương lai của mối quan hệ Mỹ- Trung. Đối với vấn đề này, người theo chủ nghĩa tự do là những người tin chắc vào sự đối đầu và xung đột trong quan hệ gưĩa 2 quốc qua này, các nhà hiện thực thì tin tưởng mối quan hệ này cơ bản sẽ được giữu ổn định và hoà bình, những người của thuyết kiến tạo lại cho rằng, mối quan hệ này có thể đi theo cả 2 chiều hướng đó. Quan điểm có 3 trường phải trên nhìn chung là có 2 biến thể: trong đó 1 phầốnc những lạc quan nhất định về tương lai quan hệ Mỹ- Trung, phần còn lại lại khá bi quan về mối quan hệ này. Có lẽ, điều dễ thấy nhất trong các cuộc tranh luận vầ tương lai quan hệ 2 nước này, đó là sự bất đồng quan điẻm giữa những người lạc quan tự do và bi quan hệ thực. Một cuộc thăm dò về sự xác nhận được thực hiện bởi tín đồ của thuyết kiến tạo đã vượt ra ngoài phạm vi cuộc khảo sát này. Mặc dù những người được coi là thuộc trường phái này có xu hướng lạc quan về quan hệ Mỹ- Trung cũng như những yếu tố về nhận thức và quan niệm, họ đều nhấn mạnh về việc dễ dàng đi tới 1 kết cục ảm đạm hơn hiều, và 1 thực tế rằng những người của thuyết kiến tạo cũng phải thú nhận điều đó rất có thể sẽ xảy ra. Trong thế giới thực tế, một tập hợp lực lượng sẽ có những ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến nỗi có thể áp đảo phần còn lại của thế giới. Mặt khác, một trong 6 phe phái được nhận ra ở đây về cơ bản là đúng, còn những cái khác là sai. Cũng có thể nhận thức được rằng tương lai sẽ được định hình bởi sự hợp lại của các lực lượng khác nhau, một số thì củng cố lẫn nhau, một số khác thì phản đối. Thực tế, có lẽ rằng tất cả những tranh luận được xem xét ở đây đều đúng ở một khía cạnh nào đó, ít nhất là ở khía cạnh chúng xác định được cơ chế nhân quả thực sự hoạt động. Peter Katzenstein và Nobuo Okawara đã quan sát được rằng các bài diễn văn trí tuệ trong lĩnh vực QHQT đang ngày càng bị thống trị bởi “sự đụng độ mô hình”. Được thúc đẩy bởi mong muốn xây dựng những lý thuyết và thiết lập ưu thế của một trong các mô hình hoặc trường học, các học giả thường có chiều hướng chấp nhận thái độ “một mất một còn”, khẳng định tầm quan trọng áp đảo của các cơ chế nhân quả trung tâm với các mô hình ưa thích của họ trong khi hạ thấp hoặc bỏ qua tầm quan trọng có thể có của những cái khác. Katzenstein và Okawara tranh luận rằng cách tiếp cận này cuối cùng cũng sẽ gây trở ngại cho những nỗ lực để hiểu sự phức tạp của thế giới thực. Thay vào đó họ thúc đẩy một cách nhìn của “thuyết
  5. chiết trung mang tính phân tích” và sự nhận thức rằng những câu đố mang tính kinh nghiệm quan trọng trong QHQT có thể được giải thích tốt nhất bằng sự kết hợp giữa các lực lượng và các nhân tố, bao gồm những cái được nêu bật bởi những mô hình tiêu biểu thường được xem như là đối nghịch với nhau. Nếu cách tiếp cận trên là hữu ích trong việc giải quyết các sự kiện trong quá khứ và những xu hướng đang nổi lên, thì nó là hoàn toàn cần thiết cho bất cứ một nỗ lực suy nghĩ nào về tương lai dài hạn của quan hệ Mỹ - Trung. Như Robert Jervis đã chỉ ra trong bài viết của ông – Sự hòa giải trong Chiến tranh Lạnh với tương lai của chính trị thế giới: “ Rất hiếm khi một nhân tố đơn lẻ quyết định cách thức nền chính trị sẽ làm việc. Trước khi chuyển sang hiện tại và tương lai thì cần thiết phải nhìn lại quá khứ một chút. Paul Kennedy đã mô tả việc phân loại các yếu tố – bao gồm cả những QH kinh tế song phương, những thay đổi trong việc phân bổ quyền lực trên toàn cầu, sự phát triển trong kĩ thuật quân sự, các tiến trình chính trị trong nước, những xu hướng tư tưởng, những câu hỏi về chủng tộc, tôn giáo, văn hóa, tính đồng nhất trong quốc gia, hành động của các cá nhân chủ chốt, chuỗi các sự kiện quan trọng – được kết hợp với nhau như thế nào để khiến cho Anh và Đức đến bờ vực của WWI. Bất kể câu chuyện trở nên tốt hay xấu thì các nhà sử học tương lai sẽ phải làm điều gì đó tương tự nếu như họ định xây dựng những lời giải thích thỏa đáng cho sự tiến triển của QH Mỹ - Trung trong nửa sau của TK 20 và những thập kỉ đầu của TK 21. Các nhà khoa học chính trị và các nhà phân tích chính sách đối ngoại ngày nay cũng cần phải cố gắng tìm cách nắm lấy danh sách đầy đủ của các lực lượng có quan hệ nhân quả đang hoạt động, đánh giá sức mạnh tương đối của họ và suy nghĩ các cách thức mà họ có thể liên kết vs nhau. I – Những người lạc quan theo thuyết Tự do Trong chính sách đối ngoại, hầu hết người Mỹ đều là những người theo trường phái tự do. Về viễn cảnh hòa bình, hợp tác, và sự hiểu biết giữa các quốc gia, thì hầu hết những nhà Tự do người Mỹ lại rất lạc quan. Điều đó ko có gì ngạc nhiên khi những nhà Tự do lạc quan rất đông đảo, và số lượng những nhà báo, nhà hoạch định chính sách hay những nhà quan sát về Trung Quốc luôn vượt trội. Về mối quan hệ trong tương lai của hai quốc gia, hay nói chung là vấn đề nền chính trị thế giới trong tương lai, thì những nhà Tự do lạc quan luôn tin tưởng vào việc ổn định
  6. lại sức mạnh của 3 cơ chế, và củng cố thêm 3 trụ cột này, bao gồm : Trao đổi kinh tế, các thiết chế quốc tế, dân chủ. Sự phụ thuộc kinh tế Những nhà Tự do lạc quan tin tưởng rằng sự trao đổi kinh tế song phương tạo ra những lợi ích chung trong mối quan hệ tốt đẹp giữa hai quốc gia. Khi khối lượng dòng thương mại và đầu tư giữa hai nước càng lớn, thì càng nhiều nhóm ở cả hai bên đều cố gắng tránh khỏi xung đột và duy trì hòa bình. Những nhà Tự do còn giải thích rắng trao đổi kinh tế giữa Trung Quốc và Mỹ đã tăng đột ngột từ khi Trung Quốc cải tổ vào cuối những năm 1970s. Khi TQ gia nhập WTO và ngày càng mở rộng thị trường cho hàng hóa và tư bản nước ngoài, thì tỷ trọng liên kết thương mại giữa Mỹ và TQ sẽ tăng lên. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế sẽ giúp tạo ra một mối quan tâm chung rất lớn về an ninh giữa hai cường quốc Thái Bình Dương này. Loại trừ những vấn đề gây chia rẽ chính, thì sức mạnh kinh tế sẽ tiếp tục được tăng cường, kiềm chế và cản trở bất cứ chiều hướng nào có thể dẫn đến xung đột. Các thiết chế quốc tế Những người lạc quan theo chủ nghĩa tự do đã đánh giá cao vai trò của các hình thái đa dạng của các thiết chế quốc tế. Những thiết chế này có thể giúp tăng cường đối thoại giữa các quốc gia, giảm sự thiếu chắc chắn về những dự định, gia tăng khả năng của các chính phủ tạo ra những cam kết ràng buộc đáng tin tưởng với một chính phủ khác. Bằng cách làm như vậy, chúng có thể giúp xóa đi hoặc chống lại nhứng tác động nguy hiểm của tình trạng vô chính phủ quốc tế, mở đường cho mức độ cao hơn của sự hợp tác và sự tin tưởng. Về quan hệ Mỹ-Trung, các nhà tự do lạc quan lưu ý rằng từ sau khi kết thúc chiến tranh lạnh đã có sự phổ biến của các thiết chế khu vực ở Đông Á. Trong đó bao gồm APEC, ARF, ASEAN+3, Hội nghị thượng đỉnh Đông Á, mạng lưới mở rộng của đối thoại quân sự song phương, và thậm chí là một tập hợp rộng lớn hơn của các đối thoại an ninh lần 2 gồm những học giả, những nhà phân tích, và những quan chức từ các quốc gia trong khu vực Một điều nữa, vai trò thành viên chính thúc của cộng hòa nhân dân Trung Hoa trong các tổ chức quốc tế đã tăng lên hơn hai lần từ năm 1977 đến 1979 (từ 21 lên 52) trong khi vị trí thành viên trong các tổ chức phi chính phủ quốc tế đã nhảy vọt cũng trong khoảng thời gian đó, từ 71 lên 163.
  7. Sự lớn mạnh của các thiết chế ở châu Á và sự mở rộng tham gia của Mỹ cũng như Trung quốc trong các thiết chế đó sẽ thúc đấy đối thoại, mối liên hệ và theo thời gian sẽ thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau lớn hơn, và thậm chí là sự tin tưởng, hoặc ít nhất, có khả năng giảm sự nhận thức sai lầm về nhau. Bên cạnh bất kì tác động có thể ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ song phương với Mỹ, sự tăng cường tham gia vào các thiết chế quốc tế của Trung Quốc cũng có thể tạo ra cho họ quyền lợi ngày càng gia tăng về sự ổn định và tiếp tục duy trì trật tự thế giới hiện nay. Khát vọng của các lãnh đạo Trung quốc nhằm tiếp tục hưởng lợi từ tư cách thành viên trong trật tự đó có thể khiến họ ít có khả năng tiến triển hơn điều mà có thể đe dọa trật tự nguyên trạng. Ngược lại điều này sẽ giảm thiểu khả năng Trung Quốc sẽ hành xử theo cách mà có thể khiến họ xung đột với Mỹ, hơn hết điều này là một cơ chế mang tính nguyên tắc, là người bảo vệ và mang lại lợi ích cho hệ thống quốc tế hiện tại. Dân chủ Trung Quốc cần phải có dân chủ thực sự, những người lạc quan tin rằng dân chủ, dù còn rất xa mới đến đích nhưng quá trình dân chủ hóa vẫn đang được tiến hành ở Trung Quốc, nó đang được hậu thuẫn bởi nền kinh tế phát triển và chính sách mở cửa thương mai của nước này. Kinh tế càng phát triển thì nhu cầu tự do chính trị, tự do ngôn luận càng trở nên cấp thiết, mong muốn của dân chúng về dân chủ và tự do là không thể cưỡng lại được. Không tiến hành cải cách chính trị thì Trung Quốc có thể bị mất đi những gì đã giành được thông qua đổi mới cơ cấu kinh tế, và giờ đây dân chủ thực sự là nhu cầu tất yếu của Trung Hoa. Người ta cũng mong muốn quan hệ Mĩ Trung sẽ ngày càng hòa hữu, trước tiên 2 nước sẽ mở rộng tự do thương mại, và nó sẽ mở ra triển vọng về dân chủ thực sự. II – Những người bi quan theo thuyết Hiện thực: Trái ngược với những người theo chủ nghĩa tự do, hầu hết những người theo chủ nghĩa hiện thực lại khá bi quan về viễn cảnh này. Nếu những điểm mà được chủ nghĩa tự do coi là động lực phát triển thúc đẩy thế giới cùng tiến đạt lên được sự thịnh vượng và hòa bình cao hơn nữa thì lại được chủ nghĩa hiện thực coi là những quy luật không thể tránh khỏi của hấp lực tự nhiên khiến các quốc gia không ngừng đấu tranh vì quyền lực và sự sinh tồn. Lịch sử, theo chủ nghĩa tự do quan niệm, là một đường phát triển có hướng đi lên; song theo như chủ nghĩa hiện thực thì nó lại chẳng khác nào một vòng luẩn quẩn. Hầu hết các nhà hiện thực đương đại cho rằng nguyên nhân chính của vấn đề này
  8. là do sự tồn tại dai dẳng của tình trạng vô chính phủ ở cấp độ quốc tế. Do không có một cơ chế quyền lực nào ở cấp độ cao hơn để có thể giải quyết được các tranh chấp và lập lại trật tự, nên hòa bình chỉ là thoáng qua và xung đột mới là chuẩn tắc. Trong tình trạng vô chính phủ, thông thường tính chất mối quan hệ giữa các quốc gia sẽ được quyết định bằng quyền lực có tính vật chất, hay cụ thể hơn đó là sức mạnh quân sự của một số bên. Trung Quốc: Quyền lực trỗi dậy Đối với những người bi quan theo chủ nghĩa hiện thực, đặc điểm quan trọng nhất của CHND Trung Hoa ngày nay đó chính là sức mạnh trỗi dậy của quốc gia này. Tất cả những vấn đề còn lại, bao gồm cả tính chất của mối quan hệ Trung Mỹ mà chúng ta đang bàn tới đều phải căn cứ vào đặc điểm đó. Nếu như coi tổng lực nền kinh tế là đại diện cho toàn bộ sức mạnh của một quốc gia thì có thể nhận thấy Trung Quốc đang lớn mạnh một cách khó tin. Kể từ khi Trung Quốc mở cửa nền kinh tế vào năm 1978 thì Tổng giá trị quốc dân GNP ước đạt mức tăng trưởng lên đến 25%, và theo như một số dự đoán thì nó có thể tăng gấp đôi một lần nữa vào giữa thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21. Điều ấn tượng nhất về nền kinh tế Trung Quốc không dừng lại ở tốc độ phát triển lớn mạnh của nó mà còn là ở quy mô cũng như tiềm năng phát triển khổng lồ. Khi tính toán đến ưu thế về số dân đông của đất nước Trung Quốc cũng như khả năng sản xuất ngày càng tăng của người lao động ở đây thì có thể tiên đoán rằng một ngày không xa đất nước này sẽ lấy lại được vị trí lịch sử : nền kinh tế lớn nhất thế giới của mình. Mặc dù những tiên đoán này còn gặp phải không ít những khó khăn cũng như sự không chắc chắn, tuy nhiên một số chuyên gia lại tính toán được rằng nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt được người khổng lồ Mỹ vào năm 2015. Sự kết hợp giữa tốc độ cũng như quy mô khổng lồ của sự tăng trưởng ở một nền kinh tế như Trung Quốc hiện nay là trường hợp mà lịch sử chưa từng chứng kiến. Trường hợp dễ liên tưởng nhất mà người ta có thể thấy chính là sự lớn mạnh chóng mặt của nền kinh tế số một thế giới Mỹ trong giai đoạn cuối thế kỷ 19. Tương tự như Mỹ ở giai đoạn trước, ngày nay sự lớn mạnh kinh tế của Trung Quốc ngày nay đã đem đến cho nước này triển vọng tăng cường tiềm lực quân sự trong tương lai. GNP tăng trưởng nhanh chóng sẽ giúp cho nước này đủ khả năng để duy trì một lực lượng quân sự ngày càng lớn mạnh và thực tế là trong những năm vừa qua, Trung Quốc cũng đã tăng cường đầu tư một lượng không nhỏ ngân khố để trang bị vũ khí và thiết bị phục vụ quân đội.
  9. Sự tăng sản lượng, thu nhập bình quân đầu người cũng như nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật đi kèm với sự tăng trưởng kinh tế sẽ giúp đem lại khả năng tiếp nhận những vũ khí tối tân cao cấp nhập khẩu từ nước ngoài của Trung Quốc và cuối cùng là khả năng phát triển những hệ thống tương tự tại chính nước mình. Chắc chắn những dự đoán này còn nhiều điểm chưa thể khẳng định, và cũng cần phải nhìn nhận Trung Quốc vẫn còn tụt hậu trong rất nhiều lĩnh vực, tuy nhiên chúng cũng đều dựa trên cơ sở là sự phát triển của quân đội Trung Quốc trong một vài thập kỷ vừa qua. Có lý do để trông đợi rằng Trung Quốc sẽ xây dựng và triển khai ngày càng nhiều hơn những hệ thống quân sự trong những năm sắp tới. Mục tiêu của Trung Quốc: Mở rộng Những nhà hiện thực đã ghi nhận rằng những thế lực đang lên có xu hướng trở thành những kẻ gây rối, ít nhất là cho đến khi những quốc gia phát triển hơn vẫn quan ngại. Theo như các nhà hiện thực thì điều đó là đúng đắn, nếu như rơi vào trường hợp của một nước Mỹ dân chủ hay một nước Đức chuyên quyền thì vẫn vậy. Như Samuel Huntington đã chỉ ra: “Sự mở rộng ra ngoài của Anh, Pháp, Đức, Nhật và LX trùng hợp với thời điểm diễn ra công nghiệp hóa và phát triển kinh tế mạnh mẽ.” Có rất nhiều lí do cho hiện tượng này. Khi sức mạnh của một quốc gia tăng lên, lãnh đạo của nó thường có xu hướng muốn mở rộng lợi ích và tăng cường ảnh hưởng lên những sự kiện, vấn đề quanh họ. Siêu cường đang lên không chỉ tìm kiếm sự đảm bảo về an ninh, mà còn xa hơn thế nữa. Họ muốn đảm bảo được tiếp cận những thị trường, nguyên liệu, những tuyến đường giao thông, bảo vệ cư dân của mình sống ở ngoại quốc, bảo vệ láng giềng và đồng minh, truyền bá văn hóa của mình. Nhìn chung, để đảm bảo được những điều kiện mà họ cho là chính đáng của mình, trong nội bộ và trên trường quốc tế. Sự tương quan giữa tăng cường sức mạnh và tăng cường lợi ích đã được mô tả một cách ngắn gọn bởi Robert Gilpin: “một quốc gia giàu có và hùng mạnh sẽ đạt được nhiều mục tiêu an ninh và phúc lợi hơn một quốc gia yếu hơn. Trong quá trình đòi quyền lợi cho bản thân, những quốc gia đang lên thường bị kéo vào những tình huống họ bị yếu thế. Lãnh đạo và nhân dân họ thường cảm thấy bị bỏ lại khi những miếng bánh lợi nhuận được chia chác, và thậm chí cho rằng họ bị tước đoạt một số quyền lợi do những yếu thế của họ. Giống như nước
  10. Đức vào đầu thế kỉ 20 luôn muốn tự đặt mình vào những tình huống đối chọi với những siêu cường, vốn là những kiến trúc sư làm nhiệm vụ thiết lập trật tự thế giới. Sự xung đột giữa việc mở rộng lợi ích giữa những quốc gia đang lên và những cường quốc có thể được giải quyết bằng nhiều cách, nhưng những bất đồng ít khi được dàn xếp một cách hòa bình. Nhận ra được mối đe dọa đến vị thế của mình, 1 cường quốc thường sử dụng vũ lực nhằm tiêu diệt một quốc gia đang lên trước khi quốc gia đó đạt được hết tiền năng của mình. Ít hiếu chiến hơn là những cường quốc. Những cường quốc đôi lúc cũng tìm kiếm những giải pháp xoa dịu những quốc gia đang lên, tìm cách đáp ứng những tham vọng và yêu cầu của họ và đặt họ 1 cách hòa bình vào trật tự thế giới sẵn có. Tuy nhiên những nỗ lực này thường thất bại. Nguyên nhân đôi khi là do tư duy của lãnh đạo của các quốc gia đang lên. Hitler là một điển hình, khi mà tham vọng của quốc gia đang lên đã vượt quá tầm các siêu cường có thể đáp ứng mà không bị diệt vong. Kể cả khi những yêu cầu hạn hẹp hơn, những siêu cường vẫn rất miễn cưỡng để nhân nhượng, do đó làm tăng sự tức giận của các quốc gia đang lên; hoặc quá vội vàng đáp ứng, dẫn đến sự đòi hỏi leo thang. Các chiến lược ngoại giao nhằm gắn kết, hòa giải có thể có trong lý thuyết, nhưng thực tế đã chỉ ra là rất khó áp dụng trong thực tế. Nhìn vào hiện thực là sự mở rộng kinh tế và tăng trưởng tiềm lực quân sự của Trung Quốc, thì hầu hết các nhà hiện thực bi quan đều kết luận rằng Trung Quốc là 1 cường quốc đang lên, và không chắc rằng Trung Quốc sẽ hành động khác với những nước thuộc cùng loại ( cường quốc đang lên) trong lịch sử. Huntington, sau khi mô tả sự tương quan giữa sự tăng trưởng nhanh chóng trong nước và sự mở rộng bên ngoài của những trường hợp trong quá khứ, đã sự đoán rằng TQ cũng sẽ “chắc chắc bước vào 1 thời kì như vậy vào thập niên tiếp theo”. Tương tự, theo John Mearsheimer, miễn là quyền lực của TQ còn tiếp tục phát triển thì “ TQ, như tất cả các nước có tiềm năng bá quyền trước đây, sẽ có khuynh hướng sẵn sàng trở thành 1 nước bá quyền thật sự”. Một số nhà phân tích còn đi sâu hơn, tranh luận rằng TQ đặc biệt hung hăng, thậm chí có nguy cơ gây xung đột với các nước khác. Lịch sử TQ gần đây, “ thế kỉ nhục nhã ” - mà bắt đầu với cuộc chiến tranh thuốc phiện những năm 1840 và chỉ kết thúc với việc đuổi được các cường quốc khác khỏi đại lục sau CTTG II, có vẻ đã khiến những nhà lãnh đạo TQ và người TQ nhạy cảm sâu sắc để nhận thấy sự coi
  11. nhẹ đối với danh dự và uy tín quốc gia và đặc biệt cảnh giác với những mối đe dọa xung quanh nước họ. Do những trải nghiệm đau thương từ thế kỉ 19, 20, những nhà chiến lược TQ đương đại càng hăng hái hơn lúc nào hết tạo lập vùng ảnh hưởng hay khu vực kiểm soát để ngăn chặn những mối nguy như vậy tái xuất hiện trong tương lai. Quay lại quá khứ lâu hơn nữa, các nhà quan sát khác chỉ ra thực tế rằng, trước khi TQ bị suy giảm và bị thống ttrị bởi các nước khác, trong nhiều thế kỉ, TQ đã là ảnh hưởng mạnh mẽ ở châu Á và là trung tâm của hệ thống Sinocentric Asian ( châu Á với TQ là trung tâm ). Khi họ thích nghi với hiện thực của sự phát triển quyền lực và tìm kiếm những hình mẫu để dẫn đường cho hành động của mình dưới những điều kiện ngày càng thuận lợi, lãnh đạo Bắc Kinh đã có thể tìm lại cái thời vinh quang trước đó, và tìm cách tái thiết TQ thành 1 cường quốc vượt trội của Đông Á. Một vài cơ quan chính phủ Mỹ đã kết luận rằng các nhà lãnh đạo hiện tại của TQ muốn “ tối đa hóa ảnh hưởng của TQ cho cân bằng với Mỹ”, nói thẳng ra là, để trở thành “cường quốc vượt trội ở châu Á”. Nếu điều này đúng, và giả sử là Mỹ tiếp tục giữ cái chính sách cũ hàng thế kỉ chống lại sự thống trị của Á – Âu bằng sức mạnh thù địch hoặc liên minh, thì sân khấu sẽ được chuẩn bị cho 1 cuộc cạnh tranh căng thẳng và có thể kéo dài giữa 2 người khổng lồ ở Thái Bình Dương Tình thế lưỡng nan về an ninh Kể cả nếu ai đó không chấp nhận quan điểm rằng mục đích của TQ là muốn thế chân Mỹ trở thành quyền lực vượt trội ở Đôg Á thì vẫn có khả năng cho một cái kết bi quan về tương lai của mối quan hệ Mỹ -Trung, điều này có thể được viện dẫn ra qua cơ chế của Tình thế lưỡng nan về an ninh. Nói cách khác, kể cả mục đích lớn hơn của hai bên chỉ đơn thuần là tự vệ thì cách mà 2 nước này dùng để bảo vệ vị thế và giành lấy những mục tiêu của mình vẫn có thể làm cho nước kia phải cảnh giác và có những biện pháp trả đũa. Điều này có vẻ như đang diễn ra trên một vài phương diện của mối quan hệ Mỹ-Trung hiện tại. Về phần Đài Loan, mục tiêu của TQ có lẽ chỉ là ngăn cản không cho hòn đảo này tiến tới độc lập. Các nhà lãnh đạo của TQ có thể hoàn toàn chấp nhận giữ nguyên tình trạng hiện nay một cách vô hạn định nhưng họ tin rằng sẽ phải đưa ra những sự đe dọa đề ngăn không cho Đài Loan được tự do. Mục tiêu của Mỹ có thể chỉ là ngăn chặn sự thống nhất mạnh mẽ. Nhưng sự đe dọa của TQ và sự tăng cường lực lượng vũ trang có thể sẽ làm tăng lên nỗi lo sợ rằng bác Kinh cuối cùng sẽ có thể cảm thấy khả năng giành lấy những mục tiêu bằng cách sử dụng vũ lực. Để ngăn
  12. chặn điều này, Washington sẽ bắt buộc phải tăng cường lực lượng quân sự hỗ trợ cho Đài Loan và đưa ra những biện pháp nhằm biểu hiện rằng Mỹ sẽ can thiệp nếu Đài Loan bị tấn công. Nhưng những điều này sẽ khiến TQ cảm thấy lo sợ một Đài Loan tiến tới độc lập và sẽ khiến Bắc Kinh tăng cường những nỗ lực quân sự và tăng cường khoa trương… Mục tiêu của TQ là triển khai một số lượng lớn tên lửa đạn đạo cục bộ với mục đích chính là để ngăn cản Đài Loan tuyên bố độc lập. Nhưng việc này rõ ràng đe dọa tới không chỉ Đài Loan mà con cả Nhật Bản, Mỹ và các nước trong khu vực này. Ngược lại, mục tiêu của Mỹ là tiến hành triển khai một hệ thống phòng thủ tên lửa cục bộ để bảo vệ các đồng minh và bạn bè của Mỹ và cả những căn cứ và lực lượng ở Tây Thái Bình Dương. Nhưng việc triển khai những hệ thống này lại đe dọa nghiêm trọng tới TQ – nước cho rằng hành động này là sự phá hoại khả năng ngăn chặn những bất lợi trong việc phát triển khu vực của TQ, đặc biệt là nếu Mỹ mở rộng hệ thống phòng thủ tên lửa cục bộ tới Đài Loan. Sự lo lắng của Bắc Kinh sẽ tăng lên bởi việc triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia của Mỹ - việc mà được TQ nhìn nhận rằng sẽ làm giảm khả năng của TQ ngăn chặn sự tấn công lên lãnh thổ của mình. Phản ứng của TQ trước những diễn biến này rất có khả năng sẽ bao gồm những biện pháp tăng cường lực lượng cục bộ và xuyên lục địa của họ và điều này sẽ khiến sự lo lắng của Mỹ về những ý định của TQ tăng lên. Các quan chức của chính phủ Mỹ coi những đồng minh trong khu vực là lực lượng bảo vệ cho sự ổn định và chối bỏ những ý định bao vây hay kìm hãm Trung Quốc. Tuy nhiên, không ngạc nhiên rằng các nhà chiến lược của TQ nhìn nhận những hành động của Mỹ không mấy tốt đẹp. kể từ khi CT lạnh kết thúc, phần lớn Mỹ luôn bận rộn để tăng cường và củng cố những liên kết với các đồng minh truyền thống trong khu vực (kể cả Nhật, Hàn Quốc và Úc) trước sự phát triển của TQ. III – Những người lạc quan theo thuyết Hiện thực: Mặc dù hầu hết những người theo chủ nghĩa hiện thực đều bi quan, tuy nhiên vẫn có thể đạt được những kết luận khá lạc quan về mối quan hệ Mỹ Trung trong tương lai dựa trên những nền tảng thực tiễn.Như đã bàn luận từ trước, hầu hết những người bi quan theo chủ nghĩa hiện thực chú ý tới sức mạnh đang lên và tham vọng bành trướng của Trung Quốc.Ngay cả những người không tin rằng sự xuất hiện của một thế lực đang nổi lên sẽ dẫn đến những cuộc xung đột không thể tránh khỏi, họ vẫn tỏ ra lo lắng về những sự nguy hiểm khi an ninh bị rơi vào tình
  13. trạng tiến thoái lưỡng nan.Tuy vậy, 1 số những người theo chủ nghĩa hiện thực lại cho rằng sức mạnh của Trung Quốc không hề tăng nhanh như người ta vẫn hay nói và những tham vọng của mình đang có, có khả năng sẽ duy trì, khiêm tốn, thậm chí kìm hãm lại Đối với tình thế tiến thoái lưỡng an trong an ninh, những nhà hiện thực lạc quan cho rằng có thể có nhiều yếu tỗ khác tại nơi làm việc sẽ làm giảm thiểu các tác động của nó và giúp cho mối quan hệ giữa Washington và Bắc Kinh tránh khỏi việc mất kiểm soát Sức mạnh của TQ: bị hạn chế và nhiều khả năng vẫn tiếp tục như vậy Tất cả các nhà hiện thực đều đồng ý rằng cán cân quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ cần thiết trong việc xác định tính chất của mối quan hệ mở giữa Mỹ Trung.Hầu hết tất cả đều công nhận rằng tại thời điểm này Mỹ có sức mạnh vượt trội hơn so với Trung Quốc Nhưng về việc này, ít nhất là chỉ đúng trong một số khía cạnh, một vài thập kỷ gần đây, sức mạnh của Trung Quốc đã tăng cường tương đối so với Hoa Kỳ. Nơi những bất đồng nảy sinh là ở sườn dốc của hai đường cong quyền lực. Những nhà hiện thực lạc quan tin rằng Trung Quốc ngày nay yếu hơn so với những gì nó đang thể hiện và thậm chí ngay cả sự phát triển của sức mạnh quốc gia này trong vài thập kỷ tới dường như cũng sẽ chậm hơn so với những gì mà các nhà hiện thực bi quan đã giả định. Đồng thời trong cả lĩnh vực kinh tế và quân sự, có những trở ngại đáng kể cần vượt qua nếu tỉ giá tăng trưởng gần đây được duy trì.Trong thực tê, có khả năng đáng kể cho thấy sức mạnh của Trung Quốc sẽ không tiếp tục gia tăng ở bất cứ lĩnh vực nào tương tự như tốc độ của hai thập kỷ vừa qua.Quá trình phát triển mở rộng kinh tế, đặc biệt sẽ có thể bị gián đoạn bởi tình hình xã hội trong nước và bất ổn chính trị.Hơn thế nữa, ngay cả trong trường hợp không có biến động lớn, tốc độ tăng trưởng cũng sẽ bị chậm lại đáng kể bởi những khó khăn trong việc tạo ra một nền tai chính hiệu mở hiệu quả, công bằng và hợp pháp. Việc phát triển chậm hơn một cách đáng kể hoặc tăng trưởng kinh tế không đồng đều sẽ làm cho mọi việc trở nên khó khăn hơn đối với Bắc Kinh trong việc đầu tư phát triển cho lĩnh vực quân sự. Đối với các yếu tố không mang tính kinh tế, chẳng hạn như thiếu sót trong các tổ chức, giáo dục, đào tẹo và việc phát triển các học thuyết cũng sẽ cản trở sự nổi lên của Trung Quốc như một sức mạnh quân sự hạng nhất.
  14. Với ý định xích lại gần hơn với Hoa Kỳ trong hầu hết các biện pháp tăng cường sức mạnh của quốc gia (nói không với việc vượt trội hơn Hoa Kỳ), Trung Quốc rất có thể sẽ trượt ngã và tiếp tục tụt hậu hơn nữa. Vì vậy, khả năng Bắc Kinh muốn (hay có thể) tạo nên một thách thức đối với Hoa Kỳ là rất nhỏ. Ngược lại, nếu những điều này có thể xảy ra, thì các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ cố gắng nhượng bộ, tránh những căng thẳng và đối đầu với Mỹ, ít nhiều cũng phải đạt được như những gì họ đang thực hiện ngày nay. Tóm lại, sự yếu kém liên tục của Trung Quốc sẽ có lợi cho hòa bình thế giới. Một số các nhà hiện thực lạc quan cho rằng sức mạnh của Hoa Kỳ hiện giờ lớn đến mức gần như không ai sánh được. Lần đầu tiên trong lịch sử đương đại, hệ thống thế giới thực sự trở thành đơn cực. Kết quả là, những giả thuyết và kết quả truyền thống liên quan đến hệ thống chính trị quốc tế không còn áp dụng được nữa. Bất kể Trung Quốc, hay bất cứ thế lực đang lên nào, và cả các quốc gia có tiềm lực cùng liên kết lại cũng không đủ sức mạnh để đối chọi lại Hoa Kỳ. Thay vì cân bằng sức mạnh với Hoa Kỳ, đa số các quốc gia khác đều tìm cách nhập vào phe cánh với Hoa Kỳ, hay ít ra chọn cách đứng ngoài cuộc. Hơn thế nữa, sự chênh lệch về tiềm lực vốn tách Hoa Kỳ ra khỏi những quốc gia còn lại trên thế giới quá lớn như một điều không thể phủ nhận. Các tính toán cụ thể về tương quan lực lượng sẽ là vô nghĩa khi xác định các hành động đối đầu trực tiếp với Hoa Kỳ. Sự thật này sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc hay bất cứ lãnh đạo của một quốc gia nào khác tự huyễn hoặc rằng họ sẽ được lợi từ việc thách thức các lợi ích của Mỹ. Các mục tiêu của TQ: hạn chế Những người hiện thực bi quan có xu hướng suy luận mục đích từ khả năng, và nói chung họ cho rằng có sự tồn tại của những quy tắc ứng xử quốc tế nhất định có thể áp dụng chung: Trung Quốc đang mạnh lên; tăng cường sức mạnh để mở rộng,tăng thêm lợi ích và có thể hành xử quả quyết hoặc hiếu chiến; và do đó Trung Quốc có thể sẽ hành xử theo cách tương tự. Tuy nhiên không phải tất cả các nhà hiện thực đều theo những lý do này để kết luận. Thậm chí những ai đồng ý rằng quyền lực của Trung Quốc đang tăng lên, và những ai tin rằng việc tăng quyền lực có xu hướng không hài lòng, không nhất thiết phải tin rằng Trung Quốc sẽ hành xử một cách đặc biệt quyết đoán hay hung hăng.Điều này không đơn giản chỉ là 1 chức năng trong những khả năng của Trung Quốc, mà là một sự phản ánh những mục tiêu,kế hoạch tiềm ẩn của Trung Quốc.Như trong bài ghi chép của Randall Schweller, việc tăng quyền lực có thể
  15. khác nhau theo mức độ không thỏa mãn với hiện trạng của các nước, và từ đó theo sự giới hạn của những tham vọng.Một vài quyền lực đang tăng lên có mục tiêu cách mạng thực sự; họ tìm kiếm, hay nói cách khác, để lật đổ toàn bộ hệ thống các quy tắc và tập quán quốc tế. Nhưng một vài quyền hạn khác tăng lên có thể có nhiều mục tiêu có giới hạn, vừa phải; chúng có lẽ là thuộc chủ nghĩa xét lại hơn là làm cách mạng các nước tìm kiếm những điều chỉnh ít ỏi đối với hiện trạng hơn là thay đổi cơ bản. Trái ngược với những năm 1950 và những năm 1960, Trung Quốc ngày nay dường như không là một quyền lực cách mạng trong bất cứ ý nghĩa nào của thuật ngữ này.Trung Quốc đã bỏ mục tiêu ban đầu là truyền bá chủ nghĩa cộng sản khắp châu Á, và , thực tế, Trung Quốc không còn ủng hộ hệ tư tưởng Mác-Lê- Mao.Những thay đổi cụ thể của hiện trạng mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc tìm kiếm có thể nói là tương đối hạn chế : việc tái nhập Đài Loan với lục địa, sửa một vài biên giới đang tranh chấp, và sự chấp nhận của cộng đồng quốc tế về yêu cầu đối với các phần biển Nam Trung Quốc. Nếu những vấn đề này có thể được giải quyết một cách hòa bình, Trung Quốc có thể được xếp vào hàng các nước thỏa mãn.Phát ngôn viên Trung Quốc hài lòng khẳng định (và nhiều quan sát viên người Mỹ gốc Trung Quốc đồng ý ) rằng Trung Quốc không có lịch sử hiện đại về chinh phục lãnh thổ mở rộng, và với vài ngoại lệ đã được ghi nhận, không có mong muốn mở rộng rõ rệt nào.Trung Quốc có thể chưa có một hiện trạng quyền lực, nhưng Trung Quốc là một cường quốc thận trọng với những mục tiêu hạn chế, một “ bảo thủ quyền lực” theo lời một chuyên gia hàng đầu người Mỹ gốc Trung. Hãy bỏ qua một bên câu hỏi tỉ lệ khả năng tăng lên của Trung Quốc là bao nhiêu, tham vọng của Trung Quốc là như vậy nên viễn cảnh xung đột với Mỹ cần được hạn chế. Thế lưỡng nan về an ninh: Im hơi lặng tiếng Thậm chí cả những quan sát viên, những nguời chấp nhận đánh giá của những người lạc quan theo thuyết Hiện thực về sức mạnh thực sự cũng như năng lực tiền tàng của Trung Quốc có thể sẽ vẫn lo ngại về tính hiệu quả của thế an ninh tiến thoái lưỡng nan. Bất kể những hiện thực khách quan có như thế nào đi nữa, sự lo sợ và nghi ngờ chung vẫn có thể dẫn đến những cuộc chạy đua vũ trang và xảy ra những chuyển động đi xuống. Những nhà hiện thực lạc quan đã phản ứng với điều lo lắng này bằng cách chỉ ra sự tồn tại của cơ chế phản tác dụng mà họ tin rằng sẽ hướng tới việc làm giảm nguy cơ của sự hiểu nhầm và xung đột
  16. Thứ nhất, một vài nhà hiện thực lạc quan lập luận rằng cấu trúc của hệ thống khu vực mới nổi Đông Á, giai đoạn sau Chiến Tranh Lạnh, về cơ bản là thế hai cực. Sự sụp đổ của Liên Xô và sự đình trệ kéo dài của nền kinh tế Nhật Bản đã bị bỏ xa bởi Hoa Kỳ và (CHND) Trung Quốc - hai cường quốc dẫn đầu khu vực. Giả thiết rằng nước Mỹ vẫn còn “cam kết” (như trong chiến lược “cam kết và mở rộng”) và sức mạnh của Trung Quốc vẫn sẽ còn tăng lên đến một mức nào đó, xu thế căn bản đối với trật tự hai cực cần được nhắc tới nhiều hơn trong nhiều thập kỷ sắp tới. Đi theo quy luật Logic, phát triển bởi Kenneth Waltz, và dựa vào những kinh nghiệm của thời CTL, những nhà hiện thực lạc quan tin rằng một trật tự 2 cực ở Châu Á có thể sẽ căng thẳng, nhưng sẽ ổn định về cơ bản. Dưới những điều kiện của thế hai cực, hai cường quốc ưu việt sẽ để mắt lẫn nhau với sự hoài nghi. Bởi trong một chừng mực nào đó, hai quốc gia này sẽ tập trung chăm chú vào đối phương, nên họ sẽ ít khi đưa ra những đánh giá sai lầm về năng lực và những mục đích riêng tương ứng của nhau. Khoảng cách lớn giữa hai cực và các quốc gia còn lại trong hệ thống cũng sẽ làm giảm khả năng của việc thay đổi đột ngột trong cán cân quyền lực, thứ là kết quả của việc thế giới thứ ba thay đổi hướng mà họ ngả theo. Như đã thấy trong suốt thời kỳ CTL, việc cùng sở hữu vũ khí hạt nhân của hai cực có lẽ sẽ chỉ phục vụ như một nguồn bổ sung cho việc kiềm chế hành xử của các bên. Nhân tố này được nhấn mạnh, ví dụ bởi Avery Goldstein, người lập luận nó sẽ mang lại “lý lẽ mạnh mẽ nhất để hi vọng rằng những nguy cơ có liên quan đến một Trung Quốc mới nổi và sẽ trở thành một cường quốc, sẽ bị hạn chế”. Với tư cách là người đã tham gia vào thứ mà ông Robert Jervis từng kêu gọi “cách mạng hạt nhân”, ông Goldstein đề xuất việc Mỹ và Trung Quốc đã hoàn toàn tham gia vào một “mối quan hệ dễ dàng thiết lập bởi sự răn đe lẫn nhau mang lại không chỉ là 1 bước đệm mạnh mẽ chống lại chiến tranh nói chung, mà còn hạn chế mạnh mẽ trên cả hai cuộc chiến tranh và hành vi khủng hoảng”. Cuối cùng, những nhà hiện thực lạc quan như Robert Ross và Michael Mc Devitt tin rằng địa lý sẽ làm tăng sự vững chắc cho mối quan hệ đang lên Mỹ-Trung một cách mạnh mẽ. Nước Mỹ, theo cách nhìn nhận này, là một cường quốc giáp biển. Lợi ích và phạm vi ảnh hưởng của nước này vẫn luôn và có lẽ sẽ duy trì tại trung tâm vùng biển khoài khơi Đông Bắc Á và vùng giáp biển Đông Nam Á. Ngược lại, Trung Quốc hiện là, và trong lịch sử, là quốc gia có sức mạnh trên đất liền. Tầm
  17. ảnh hưởng “tự nhiên” của nước này sẽ bao trùm lên Trung Á và lục địa Đông Nam Á. Giữ vững quan điểm, ông Ross cho rằng, những phạm vi ảnh hưởng này không gối lên nhau, với những ngoại lệ có thể có như bán đảo Triều Tiên, Đài Loan và Quần đảo Trường Sa. Quy định rằng những vấn đề có liên quan đến 3 vùng kể trên cần được quản lý một cách phù hợp, vẫn có thể có những lý do nhỏ hoặc những dịp có thể dẫn đến những xung đột trực tiếp giữa TQ và Mỹ. Những trường hợp đã được lưu ý như vậy, đối lập với những gì đã thường xảy ra trong thời kỳ CTL, khi những cạnh tranh về tầm ảnh hưởng tại Trung Âu của Mỹ và Liên Xô đã va chạm với nhau, một tình huống đã khiến những căng thẳng và những nguy cơ to lớn nổ ra, đặc biệt là trong suốt thời kỳ đầu của cuộc cạnh tranh giữa hai siêu cường. IV - Những người bi quan theo thuyết Tự do Kết cấu bên trong, động lực chính trị trong nước và sự tương tác bắt nguồn từ chế độ khác nhau giữa TQ và Mỹ có thể khiến những người theo thuyết Tự do phải bi quan. Trung Quốc: chế độ độc đoán đang quá độ? Trung Quốc hiện nay không phải là một nhà nước chuyên chế hay dân chủ, mà là một chế độ độc tài không có tính chính đáng rõ ràng với sự nắm quyền không chắc chắn. Hệ tư tưởng mà các nhà lãnh đạo TQ thừa kế là một hệ tư tưởng đã hầu như không còn sức lôi cuốn và họ khó có thể dựa vào sự ủng hộ tự nguyện của nhân dân, mà phụ thuộc nhiều vào lực lượng an ninh và quân sự để duy trì trật tự trong nước. Chính quyền hiện nay cai trị ít dựa trên các nguyên tắc cộng sản, mà dựa nhiều hơn vào lời hứa sẽ tiếp tục làm tăng sự thịnh vượng (và tránh những hỗn loạn xã hội), kết hợp với những lời kêu gọi chủ nghĩa dân tộc. Đây là một sự kết hợp nguy hiểm và không ổn định. Nếu sự phát triển kinh tế bị vấp váp, chính quyền hiện nay sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc dựa nhiều hơn vào sự kêu gọi chủ nghĩa dân tộc. Họ cũng có thể có xu hướng dùng đến những chính sách đối ngoại quyết đoán như một cách để tập hợp nhân dân Trung Quốc và hướng sức lực và những nỗi thất vọng của họ ra ngoài, rất có khả năng là hướng vào Đài Loan hay Nhật Bản hay Hoa Kỳ, hơn là vào trong, vào Bắc Kinh. Thật vậy, nhiều nhà phân tích tin rằng nhà cầm quyền Trung Quốc đã ngày càng thể hiện xu hướng hành xử theo cách này trong suốt thập kỷ qua. Chính khi các quốc gia đang quá độ từ chủ nghĩa độc đoán sang nền dân chủ, nhiều khả năng họ sẽ khơi mào xung đột với các nước láng giềng. Nguyên nhân có vẻ nằm ở các quá trình bên trong của các xã hội mà trong đó áp lực đòi hỏi sự
  18. tham gia chính trị đang gia tăng, nhưng trong đó các thể chế dân chủ có hiệu quả lại vẫn chưa xuất hiện. Giới lãnh đạo trong những xã hội nhưu vậy thường dụng đến những yêu sách dân tộc chủ nghĩa chiến đấu để huy động sự ủng hộ của quần chúng mà không từ bỏ sự nắm quyền. Nếu TQ tiến lên dân chủ thì sẽ vấp phải nhiều trở ngại, thậm chí nguy cơ quan hệ Trung-Mỹ xấu đi sẽ còn lớn hơn so với trường hợp TQ duy trì chế độ độc đoán. Giả sử TQ có tiến gần đến một nền dân chủ thực sự thì liệu điều này có dẫn đến những biến chuyển trong quan hệ Trung-Mỹ? Những người bi quan của thuyết tự do có thể đồng ý rằng về lâu dài điều đó có thể xảy ra. Song họ cũng chỉ ra rằng một TQ dân chủ hơn vẫn có thiên hướng hành xử theo cách mà có thể dẫn đến xung đột với Mỹ. Các nền dân chủ không phải luôn luôn yên bình, đặc biệt là ở những giai đoạn đầu của quá trình phát triển chính trị. Một số nhà quan sát cho rằng, ít nhất là trong một thời gian, một chính quyền dân chủ ở BK có thể có tính dân tộc chủ nghĩa hơn và quyết đoán hơn hiện nay. Nước Mỹ: một nền dân chủ tự do vận động? Những thay đổi trong thể chế chính trị ở Trung Quốc có thể làm gia tăng khả năng xung đột với Mỹ. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc không thay đổi, thì những một vài đặc trưng lâu đời của chế độ cầm quyền trong nước có lẽ khiến Mỹ có khuynh hướng đối lập với nước này. Kết luận này được rút ra trước tiên từ mặt trái của lý luận “hòa bình dân chủ”. Các nước dân chủ ít có khả năng lâm vào xung đột với các nước dân chủ khác, nhưng về phương diện lịch sử, họ thường dễ nghi ngờ, và thù địch đối với, những nước mà họ thấy có chế độ không dân chủ. Như Michael Doyle đã chỉ ra: “những xung đột trong quan hệ giữa các xã hội tự do và không tự do có thể trầm trọng thêm do chính cản trở về mặt hiến pháp, chia sẻ lợi ích thương mại và tôn trọng quốc tế cho các quyền cá nhân mà thúc đẩy hòa bình giữa các xã hội tự do.” Quan hệ giữa các nước tự do và không tự do thường bị gán trong “không khí nghi ngờ” phần nào vì “nhận thức của các nước tự do rằng các nước không tự do luôn luôn đàn áp chính nhân dân mình.” Dù cuối cùng thế nào, thì hiện nay Trung Quốc cũng không phải là một nền dân chủ tự do. Vì thế, không ngạc nhiên nếu như nhiều người Mỹ nhìn nhận nước này với sự nghi ngờ và mức độ thù địch. Nhìn từ điểm này, tranh cãi giữa Mỹ và Trung Quốc về vấn đề nhân quyền (như một ví dụ) không phải chỉ là trở ngại nhỏ trong quan hệ hai nước. Nó chỉ là biểu hiện của những bất đồng sâu sắc hơn mà khó có thể dễ dàng hòa dịu. Nhận thức từ phía nước Mỹ, vi phạm nhân quyền
  19. không chỉ sai về bản chất, mà còn là dấu hiệu chắc chắn của một chế độ xấu xa và không chính đáng, và do đó không thể tin cậy được. Khả năng có một mối quan hệ bền vững với chế độ như vậy là xa xôi, dù trong tình trạng tốt nhất. Nếu như Mỹ có khả năng thù địch đối với Trung Quốc vì đây không phải là một nước dân chủ, thì Mỹ dễ có xu hướng giúp đỡ các chính thể mà bị đe dọa bởi Trung Quốc và được Mỹ nhìn nhận như một nước dân chủ, thậm chí đây không phải hoàn toàn là toan tính chính sách thực dụng phục vụ cho lợi ích nước Mỹ. Do đó, đây chính là một điểm mà Henry Kissinger và Richard Nixon nhìn nhận để dãn cách nước Mỹ với Đài Loan khi người dân Mỹ rộng rãi nhìn nhận chính phủ nước này mục nát và độc đoán. Sẽ khó khăn hơn nhiều cho những nhà lãnh đạo Mỹ trong tương lai làm như vậy trong chừng mực mà người dân Mỹ đánh giá Đài Loan như một nước dân chủ bè bạn – thậm chí khi Mỹ ủng hộ Đài Loan liều lĩnh làm xấu đi mối quan hệ với PRC và có lẽ thậm chí cả khi nước này đe dọa dẫn tới chiến tranh. Bất chấp hậu quả ra sao, Mỹ vẫn là một nước ý thức hệ sâu sắc, và chính sách đối ngoại luôn được định hướng bởi ý thức hệ nước này, ngay cả khi có thể đối lập với lợi ích vật chất của chính nước Mỹ. V - Những người lạc quan của thuyết Kiến tạo Bản chất sự tương tác giữa 2 nước không đơn thuần là sản phẩm của những yếu tố vật chất khách quan (như cán cân thương mại, cân bằng sức mạnh quân sự…); mà còn được định hình tới 1 mức độ đáng kể bởi các yếu tố chủ quan, bởi những niềm tin và ý tưởng luôn tồn tại trong đầu con người và khiến họ diễn giải các sự kiện và dữ liệu theo những hướng nhất định. Trong đó có thể chia thành 3 loại chính: “bản sắc” (tức là, những nhận thức riêng của các diễn viên chính trị và những nhận thức chung giữa họ với nhau); “văn hóa chiến lược” (tức là, các nhóm niềm tin về những đặc điểm cơ bản của nền chính trị quốc tế và về những cách tối ưu đối phó với nó, đặc biệt là về sự hữu dụng của vũ lực và những triển vọng hợp tác); và “chuẩn tắc” (tức là, những niềm tin không chỉ về vấn đề cái gì là hiệu quả mà còn về vấn đề cái gì là đúng đắn hay phù hợp trong lĩnh vực quốc tế). Bản sắc, văn hóa chiến lược, và chuẩn tắc được hình thành mạnh mẽ bởi những sự diễn giải phổ biến của các kinh nghiệm lịch sử chung của 1 xã hội. Chúng được truyền từ đời này sang đời khác thông qua các quá trình giáo dục và giao thoa văn hóa, và chúng rất ít biến đổi. Cơ chế chính mà nhờ đó những niềm tin có ảnh hưởng rộng rãi phát triển và đôi khi được biến đổi là thông qua sự tương tác với
  20. những loại khác. Những sự tương tác như vậy truyền đạt thông tin và những ý tưởng mới mà có thể giúp thay thế những quan niệm hiện thời. Nếu đời sống chính trị quốc tế thật sự được điều chỉnh bởi pháp luật có tính khoa học bắt nguồn từ thực tế, thì những gì người ta tin tưởng về cách thế giới hoạt động sẽ chỉ có ý nghĩa trong chừng mực mà nó phù hợp với hoặc lệch khỏi thực tế. Theo quan điểm của các nhà Hiện thực bi quan, lãnh đạo của một QG vượt trội mà không tin rằng vị trí của QG sẽ bị thách thức bởi một thế lực đang lên (hoặc tin rằng có thể dùng ngoại giao mềm mỏng để ngăn trở tham vọng của 1 thế lực như vậy) chắc chắn sẽ phải thất vọng. Nhưng nếu quan hệ giữa các quốc gia được hình thành dựa trên niềm tin, chứ không phải bởi những yếu tố vật chất khách quan, thì luôn luôn có khả năng rằng con người có thể thay đổi thế giới bằng cách thay đổi cách họ nghĩ. Ở cấp độ tổng quát nhất, các nhà Kiến tạo khẳng định rằng nền chính trị quốc tế có xu hướng cạnh tranh và bạo lực, không phải bởi một số nguyên tắc bất di bất dịch về hành vi con người đòi hỏi nó phải vậy mà là bởi, qua nhiều thế kỷ, các nhà lãnh đạo quốc gia có xu hướng tin rằng phải như vậy. Bằng cách hành động theo đúng những kỳ vọng bi quan của mình, các nhà lãnh đạo đã giúp làm cho những kỳ vọng đó trở thành sự thực. Vậy thì triển vọng và lợi ích của hợp tác quốc tế cũng có thể đạt được miễn là các quốc gia mạnh nhất thế giới cùng có nhận định khả quan về điều đó. Về quan hệ Mỹ-Trung, các nhà Kiến tạo lạc quan nhìn chung nhấn mạnh đến khả năng là sự tham gia ngày càng tăng của Trung Quốc vào các tổ chức quốc tế sẽ dẫn đến sự thay đổi trong văn hóa chiến lược của nước này, trong các chuẩn tắc về hành vi quốc tế được chấp nhận bởi các nhà lãnh đạo của họ, và trong các quan niệm của họ về bản sắc quốc gia. Các nhà Kiến tạo tin rằng những tương tác lặp đi lặp lại thực sự có thể thay đổi những niềm tin gốc rễ, lợi ích, và các loại tâm lý của những người ra quyết sách tham gia trong các thể chế quốc tế. Vì vậy, có lẽ đúng là 1 số đáng kể các nhà cầm quyền TQ vẫn chịu sự chi phối của ý tưởng lỗi thời về tính “tổng 0” của các quan hệ QT và về sự hữu dụng mà gian dối, bất ngờ và vũ lực có thể đem lại trong việc giải quyết các tranh chấp. Những ý tưởng này có vẻ bắt nguồn sâu xa từ mưu lược trị nước truyền thống của TQ, và truyền cho những đời sau. “Mô hình chuẩn bị cho chiến tranh” như Iain Johnston từng nói đến có thể được làm dịu đi dần dần nhờ những tiếp xúc liên tiếp giữa các chính khách, học giả, binh lính của TQ và của các nước khác Các nhà Kiến tạo lạc quan tin rằng chính những tương tác kiểu đó giữa các nhà khoa học, chuyên gia vũ khí của Liên Xô và phương Tây đã giúp làm thay đổi quá trình hoạch định chính sách đối ngoại
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0