intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Lon | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

169
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'tiểu luận: vận dụng lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo, khoa học xã hội phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay

  1. TIỂU LUẬN: Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay
  2. Lời mở đầu Lý luận hình thái kinh tế – xã hội là lý luận cơ bản và giữ một vị trí hết sức quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử do K.Marx xây dựng nên. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã được thừa nhận là lý luận khoa học và là phương pháp luận cơ bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực học. Nhờ có lý luận hính thaí kinh tế – xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học K. Marx đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Như vậy qua lý luận hình thái kinh tế – xã hội giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và khoa học vận hành của xã hội trong mỗi giai đoạn nhất định. Lý luận hình thái kinh tế xã hội đã lỗi thời, lạc hậu không thể áp dụng vào điều kiện hiện nay mà phải thay thế bằng một lý luận khác. Trước tình hình đó buộc chúng ta làm rõ thực chất của lý luận hình thái kinh tế xã hội và giá trị về mặt khoa học, tính thời đại của nó là rất cần thiết ; về thực tiễn nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó rất nhiều vấn đề khó khăn được đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết. Vì vậy em mạnh dạn nhận đề tài: '' Vận dụng Lý luận hình thái kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay''
  3. Phần I Nội dung của hình thái kinh tế - xã hội I. Khái niệm. Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản xuất của nó thích ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên những quan hệ sản xuất đó. 1.Kết cấu và chức năng của các yếu tố cấu thành hình thái kinh tế – xã hội. Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc những cá nhân riêng lẻ. Xã hội là một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp. Trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt có vai trò nhất định và tác động đến mặt khác tạo nên sự vận động của cơ thể xã hội. Chính tính toàn vẹn của nó được phản ánh bằng khái niệm hình thái kinh tế – xã hội. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế – xã hội xét đến cùng là do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau từ thấp lên cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài người. Quan hệ sản xuất – quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất – là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mối quan hệ xã hội khác, không có mối quan hệ đó thì không thành xã hội và quy luật xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó tương ứng với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất, đó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử. Những quan hệ sản xuất là bộ xương của ơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở những quan hệ sản xuất đó hình thành nên những quan điểm về chính trị, pháp lý, đạo đức, triết học v.v...và những thiết chế tương ứng hợp thành
  4. kiến trúc thượng tầng xã hội mà chức năng xã hội của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sơ hạ tầng sinh ra nó. Ngoài những mặt cơ bản của xã hội đã đề cập ở trên – lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng – thì còn có những quan hệ dân tộc quan hệ gia đình và các sinh hoạt xã hội khác. 2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế – xã hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử đều do tác động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. Marx viết : “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên ”. Các mặt cơ bản hợp thành một hình thái kinh tế – xã hội: lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng không tách rời nhau, mà liên hệ biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ biến của xã hội. Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính do tác động của quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế – xã hội vận động và phát triển thay thế nhau từ thấp lên cao trong lịch sử như một quá trình lịch sử tự nhiên không phụ thuộc vào ý trí, nguyện vọng chủ quan của con người. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng năng thực tiễn của con người xong không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan. Bản thân năng lực thực tiễn của con người cũng bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan nhất định. Ngươì ta làm ra lực lượng sản xuất của mình dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt được trong một hình thái kinh tế – xã hội đã có sẵn do thế hệ trước tạo ra. Chính tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ quan hệ sản xuất, do đó, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình vận động và phát triển của hình thái kinh tế – xã hội như một quá
  5. trình lịch sử tự nhiên. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất có vai trò quyết định nhất. Lực lượng sản xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố bảo đảm tính kế thừa trong sự phát triển lên của xã hội quy định khuynh hướng phát triển từ thấp. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển củ lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá bỏ và được thay thế bằng những kiểu quan hệ sản xuất mới cao hơn và hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn ra đời. Như vậy, sự xuất hiện, sự phát triển của hình thái kinh tế – xã hội, sự chuyển biến từ hình thái đó lên hình thái cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế - xã hội. Nghiên cứu con đường tổng quát của sự phát triển lịch sử được quy định bởi quy luật chung của sự vận động của nền sản xuất vật chất chúng ta nhìn thấy logic của lịch sử thế giới. Vạch ra con đường tổng quát của lịch sử, điều đó không có nghĩa là giải thích được rõ ràng sự phát triển xã hội trong mỗi thời điểm của quá trình lịch sử. Lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố làm cho quá trình lịch sử đa dạng và thường xuyên biến đổi, không thể xem xét quá trình lịch sử như một đường thẳng. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định quá trình lịch sử, xét đến cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Nhưng nhân tố kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định các nhân tố khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều có ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Nếu không tính đến sự tác động lẫn nhau của các nhân tố đó thì không thấy hàng loạt những sự ngẫu nhiên mà tính tất yếu kinh tế xuyên qua để tự vạch ra đường đi cho mình. Vì vậy để hiểu lịch sử cụ thể thì cần thiết phải tính đến tất cả các nhân tố bản chất có tham gia trong quá trình tác động lẫn nhau đó. Có nhiều ngyuên nhân làm cho quá trình chung của lịch thế giới có tính đa dạng: điều kiện của môi trường địa lý có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển xã hội. Đặc biệt ở buổi ban đầu của sự phát triển xã hội, thhì điều kiện cuả môi trường
  6. địa lý là một trong những nguyên nhân quy định quá trình không đồng đều của lịch sử thế giới, có dân tộc đi lên, có dân tộc trì trệ lạc hậu. Cũng không thể không tính đến sự tác động của những yếu tố như nhà nước, tính độc đáo của nền văn hoá của truyền thống của hệ tư tưởng và tâm lý xã hội v.v...đối với tiến trình lịch sử. II. Vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội vào điều kiện Việt nam hiện nay. 1. Tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế xã hội của chủ nghĩa Mac-Lênin vào việc đề ra chiến lược cho cách mạng Việt nam tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối cách mạng do chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta nêu ra là sự vận dụng sáng tạo hình thái kinh tế - xã hội vào điều kiện Việt nam. Đảng ta đã khẳng định rằng sau khi Việt nam tiến hành công việc cách mạng dân chủ nhân dân sẽ tiến lên làm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đây là sự lựa chọn đúng hướng đi và xác định mục tiêu của sự phát triển. Chúng ta đều biết, đối với Đảng ta, việc lựa chọn và xác định này đặt ra ngay từ năm 1930 và luôn luôn đúng với mọi sự biến động trong thực tiễn phát triển của cách mạng Việt nam, trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và của dân tộc chính cương, sách lược vắn tắt do Nguyễn ái Quốc khởi thảo và luận văn chính trị của Đảng năm 1930 đã ghi rõ Cách mạng Việt nam sẽ đi theo con đường “là tư sản dân quyền cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sự lựa chọn này là kết quả trực tiếp nảy sinh từ sự giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học ở lãnh tụ Nguyễn ái Quốc sau một thập niên (1911-1920) đi tìm đường cứu nước và đã tìm thấy chủ nghĩa Lênin, đã nhận thức rõ cách mạng Việt nam sẽ đi theo con đường Cách mạng tháng Mười “Đường cách mệnh” (1927) là tác phẩm lý luận macxít đầu tiên được xây dựng trên nền móng của tư tưởng đó. Trong tác phẩm quan trọng này Nguyễn ái Quốc đã chỉ rõ: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái tự do hạnh phúc, bình đẳng thật, chứ không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc Pháp khoe khoang bên Nam An” Người khẳng định, chỉ có chủ nghĩa Lênin là chân chính nhất, chắc chắn nhất và cách mệnh nhất mà chúng ta sẽ đi theo. Từ bước ngoặt năm 1920, khi Nguyễn ái Quốc trở thành người cộgn sản và cho đến những năm sau này. NGười đều nhất
  7. quán khẳng định, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc chỉ có thể thực hiện được bằng con đường cách mạng vô sản, bằng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Khi miền Bắc đã được giải phóng nhưng miền Nam còn phải tiếp tục chiến đầu vì độc lập tự do của Tổ Quốc, tình hình lúc đó đặt ra câu hỏi: Miền Bắc có nên bước ngay vào thời kỳ quá độ để xây dựng chủ nghĩa xã hội hay không khi khi mục tiêu độc lạap dân tộc chưa được giải quyết xong ở miền Nam? Đảng ta khẳng định là phải đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ cách mạng: tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sự lựa chọn này đã được thực tiễn xác nhận là hoàn toàn đúng đắn. Không có sự hậu thuẫn của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, cách mạng miền Nam sẽ không có những đảm bảo vật chất và tinh thần cần thiết cho thắng lợi. Khi miền Nam đã được giải phóng, đất nước thống nhất, một vấn đề cũng được đặt ra là miền Nam sẽ cùng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội hay tạm thời dừng lại một thời gian để phục hồi sau chiến tranh? Có thể nói, sự lựa chọn này là một thử thách không kém phần phức tạp. Đảng quyết định cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Quyết định này đã được thực tiễn xác nhận hoàn toàn đúng đắn. Vào giữa những năm 80, kinh tế xã hội nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đang chao đảo. Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và mở cửa với bên ngoài. Một lần nữa sự khẳng định của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn xác nhận là đúng đắn. Vào giữa những năm 80, kinh tế – xã hội nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu đang chao đảo. Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và mở cửa với bên ngoài. Một lần nữa sự khẳng định của Đảng ra về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được thực tiễn xác nhận là đúng đắn.
  8. Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở thời kỳ này thể hiện sự năng động về tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng bản lĩnh chính trị vững vàng. Đó là sự khẳng định tính tất yếu của sự đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa: đổi mới để phát triển, để thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, để vượt qua những kìm hãm của mô hình cũ – mô hình hành chính bao cấp, để giải phóng và khai thác mọi tiềm năng phát triển của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đổi mới không phải là từ bỏ chủ nghĩa xã hội, mà là khẳng định tính quy luật của con đường phát triển đó làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội công bằng văn minh. đúng với quy luật khách quan hơn phù hợp với hoang cảnh, điều kiện thực tế của đất nước với xu thế, đặc điểm của thế giới hiện đại. Đổi mới là để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiệu quả hơn làm cho chủ nghĩa xã hội bộc lộ và khẳng định bản chất ưu việt của nó, từng bước định hình và phát triển trong thực tế, làm cho “đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ” để cho nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúcđược học hành tiến bộ và phát triển mọi khả năng sáng tạo của mình” để cho “dân thực sự là chủ và làm chủ lấy xã hội và cuộc sống của mình? Như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh. Như vậy, đi lên xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, và nó được thể hiện trong công cuộc đổi mới của Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự ổn định mới nhằm làm cho đất nước đạt tới sự phát triển bền vững. Điều đó có ngiã là chúng ta phải xác định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội với sự năng động hơn nữa tichs cực hơn nữa, và phù hợp hơn nữa với tình hình thế giới hiện đại. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng sẽ là chế độ phát hiện và sử dụng tốt nhất những nguồn lực của chính mình, trong đó sức mạnh quyết định chính là nguồn lực con người. Đó là mục tiêu quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội. 2. Những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ Thời kỳ quá độ là thời kỳ tạo cơ sở vật chất và con người cho chủ nghĩa xã hội trong quá trình thực hiện này, với điều kiện và hoàn cảnh của Việt nam, đã đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ sau: Thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Công cuộc này đặt ra những
  9. nhiệm vụ lớn mà chúng ta cần giải quyết: Cụ thể là: tạo ra những điều kiện thiết yếu về vật chất, kỹ thuật, con người và khoa học công nghệ, huy động mọi người vốn, nguồn lực lao động làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhưng bền vững và trên cơ sở nâng cao mọi mặt của đời sống xã hội. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần phải thực hiện ngay một số nội dung cơ bản sau; + Tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân +Dựa trên sự thay đổi về công nghệ chúng ta phải chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế dẫn đến tăng trưởng nhanh và lâu bền. + Khuyến khích và đào tạo những tài năng trẻ nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ cao. + Thực hiện chuyển giao công nghệ kết hợp với năng lực sáng tạo của quần chúng. Muốn vậy phải nắm bắt đầy đủ chính xác các thông tin cần thiết thông qua, các công ty tư vấn trong và ngoài nước để đảm bảo lựa chọn công nghệ chính xác. Mở rộng liên kết liên doanh với nước ngoài để có thể khai thác công nghệ tiên tiến một cách trực tiếp. - Xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Muốn vậy cần phải chấn chỉnh đổi mới và phát triển có hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khác phát triển theo đúng pháp luật và quan trọng nhất là phải từng bước hướng vào con đường tư bản nhà nước. - Phải thận trọng trong sự phát triển xã hội, mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài, phải có biện pháp hữu hiệu chống lại sự thâm nhập của các loại văn hoá độc hại. Kế thừa và phát triển các truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc. - Cần phải tiếp tục đổi mới bộ máy nhà nước theo hướng tiến bộ dựa trên những cơ sở sau: + Chống quan liêu chuyên quyền độc đoán trong bộ máy nhà nước. + Phải phân biệt rõ chức năng cảu các cấp các ngành.
  10. + Phải đưa ra một hệ thống pháp luật chặt chẽ đồng bộ và có tính khả thi. Phải đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh mọi luật pháp đề ra. Phần II Vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế việt nam Trong những năm đổi mới ta có thể thấy rõ những thành tựu mà cơ chế mang lại. Những ưu điểm của cơ chế thị trường là không thể phủ định, nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng KTTT cũng có những khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy không chỉ tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý mà cần có sự can thiệp nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường hơn nữa để định hướng cho nó đi theo con đường XHCN điều tiết vĩ mô nhà nước trong nền kinh tế. Vai trò và chức năng kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế việt nam hiện nay. Muốn quản lý nền kinh tế việt nam hiệu quả thì trước hết phải nắm rõ những quy luật của kinh tế thị trường. Mọi chính sách nhà nước đều phải dựa trên những chính sách khách quan ấy. Sự quản lý nhà nước Việt Nam cũng có những điểm giống như nhà nước tư bản đó là: thừa nhận tính độc lập các chủ thể kinh tế để có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự chịu trách nhiệm lỗ lãi; xây dựng hệ thống thị trường cớ tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu do thị trường quyết định. Xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm hướng dẫn, giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của thị trường; xây dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho nền kinh tế; tôn trọng và thực hiện thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên sự quản lý kinh tế của nhà nước xã hộ chủ nghĩa và sự quản lý kinh tế của nhà nước tư bản có sự khác nhau rõ rệt. Sự quản lý nhà nước tư sản đối với nền kinh tế thị trường nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho các tổ chức độc quyền. Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo đảng cộng sản quản lý nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đảm bảo cho mọi người có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc. Nhà nước có chức năng kinh tế sau: Thứ nhất: Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị kinh tế xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Nhà nước phải
  11. tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sử hữu tài sản và hoạt động chính trị. Thứ hai : Nhà nước định hướng và điều tiết các hoạt động kinh tế nhằm đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định. Sử dụng những chính sách tài chính tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. Thứ ba : Nhà nước phải đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Tránh để cho những doanh nghiệp chạy theo lợi ích kinh tế mà để lại những hậu quả về ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Nhà nước có nhiệm vụ thực hiện những biện pháp bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động chính trị. Thứ tư : Nhà nước hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực thực hiện công bằng xã hội. Vì sự tác động kinh tế đem lại hiệu quả kinh tế cao không hoàn toàn đồng nghĩa với những mục tiêu CNXH vì phát triển kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Để thực hiện vai trò và chức năng cơ bản trên nhà nước cần có một công cụ quản lý đó là : Hệ thống pháp luật, kế hoạch hoá, lực lượng kinh tế của nhà nước, hệ thống chính sách và công cụ kinh tế. Hệ thống pháp luật tạo ra khuôn khổ cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Hệ thống pháp luật bao trùm mọi hoạt động kinh tế xã hội, điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều tiết của nhà nước. Kế hoạch hoá cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực. Còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của nền kinh tế việt nam Lực lượng kinh tế của nhà nước kinh tế nhà nước phải đóng vai trò tiên phong chủ đạo hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Hệ thống chính sách và công cụ kinh tế + Chính sách tài chính thông qua việc hình thành và xây dựng ngân sách nhà nước. Nhà nước được phân phối các nguồn lực kinh tế xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo công bằng trong phân phối và thưc hiện chức năng của mình.
  12. + Chính sách tiền tệ: là công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. + Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại nhà nước sử dụng nhiều công cụ trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu đảm bảo tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu. Thông qua các công cụ đó, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước , nâng cao khả năng cạnh tranh ở nướ ta. Bảo vệ lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. 3. Giải pháp nâng cao vai trò nhà nước Trên cơ sở phân tích nhà nước đã làm được và chưa làm được trong thời gian vừa qua.ta có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước trong nền kinh tế việt nam. 1-Tiếp tục quá trình và tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế một cách triệt hơn. Khác với thời kì nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hầu hết giá cả, sản lượng do nhà nước quy định. Trong thời kì kinh tế thị trường vấn đề chung ta phải đặt ngược hẳn lại: khuyến khích cạnh tranh, khắc phục tình trạng độc quyền. Trên thị trường nước ta, giá cả còn diễn biến khá phức tạp. Những năm gần đây, lạm pháp tăng lằm ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội. Nhà nước phải có biện pháp hết sức linh hoạt và phù hợp với thực tiễn. a-Các biện pháp quản lý giá cả trên thị trường độc quyền. Thị trường độc quyền nhà nước ta đã thu hẹp nhiều nhưng vẫn còn một số ngành như điện lực, bưu chính viễn thông ... Đây là những ngành then chốt trong nền kinh tế , chỉ nhà nước mới có thể có điều kiện đảm nhận, xây dựng và duy trì phát triển sự quản ly điều hành tập trung của nhà nước là tất yếu và cần thiết. Nhà nước quản lý giá cả của những sản phẩm này bằng hình thức sau: _ Quy định giá chuẩn đối với hành, dịch vụ độc quyền _ Quy định chính sách cơ chế quản lý cước bưu chínhviễn thông quốc tế.
  13. _ Quy định chính sách, cơ chế quản ly sử dụng tài nguyên tự nhiên trong đó có giá cho thuế đất. Trong tương lai nhà nước phải từng bước xoa bỏ độc quyền, liên doanh mở rộng hợp tác với nước ngoài đàu tư cơ sở vcật chất trang thiết bị , khuyến khích cạnh tranh trong kinh doanh. b- Các biện pháp quản lý giá cả trên thị trường cạnh tranh  Đối với một số sản phẩm quan trọng vừa có sự tham gia của nhà nước vừa có sự tham gia của các các đơn vịkinh tế , nhà nước quy định “giá tới hạn” như : giá tối đa hàng chuẩn, giá tối đa nước máy tại thành phố, khu công nghiệp, giá xuất khẩu tối thiểu ...  Đối với mặt hàng khác nhà nước quản lý giá thông qua biện pháp sau: _ Quy định chính sách cơ chế quản lý giả đối với công trình xây dựng cơ bản thuộc sở hữu nhà nước tư sản cố định thuộc sơ hữu nhà nước nhượng bán. _ Tổ chức đăng kí hiệp thương giá, niêm yết giá. _ Thực hiện chính sách biện pháp bình ổn giá một số hàng, dịnh vụ thiết yếu, bảo hộ sản xuất trong nước. _ Thanh tra sử lí vi phạm kỉ luật về giá. c- Hình thành đầy đủ các thị trường cần thiết co việc thương mại hoá nền kinh tế như: thị trường vốn, thị trường lao động đưa thị trường này vào hoạt động. Mô hình thị trường vốn ở VN phải là mô hoình đặc thù có sự kết hợp các yếu tố các loại hình thị trường vốn “mở” và “đóng” nhà nước ơphải ban hành các chính sách, biện pháp cơ chế tổchức và trực tiếp quản li thị trưpờng chứng khoán. Những điều kiện cơ bản trực tiếp cho hình thành thị trường vốn VN hiện nay là: _ Thực hiện chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế thị trường, lãi xuất ngân hàng là một trong những yếu tố cơ bản quy định giá cả của các chứng khoán. _ Đa dạng hoá công cụ hoạt động trên thị trường tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu. _ Đa dạng hoá mô hình tổ chức tín dụng hoạt động đa năng và cạnh trang theo cơ chế thị trường. _ Tạo lập môi trường đầu tư chắc chắn.
  14. _ Tạo lập lòng tin dân chúng vào hệ thống tài chính trong nước. _ Nhà nước phải có quan điểm rõ ràng nhất quán về chế độ sở hữu. _ Chính sách hạ tầng thông tin liên lạc tốt. _ Môi trường pháp lý đầy đủ đồng bộ. _ Chính sách vốn nói chung thị trường vốn nói riêng phải tiến hành đồng bộ với chính sách khác và thị trường khác. _ Đào tạo đội ngũ cán bộ đủ trình độ, am hiểu nghiệp vụ trên thị trường vốn. d- Tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Tự do hoá ngoại thương áp dụng chính sách tự do buôn bán bảo vệ mậu dịch ôn hào. Quản ly tốt việc nhập khẩu. Tham gia vào các thị trường mới(hiện nay nước ta đang trong quá trình đàm phán ra nhập WTO) 2- Đa dạng hoá chế độ sở hữu theo xu hướng phat triển doanh nghiệp tư nhân, đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cho phù hợp cơ chế thị trường. 3- Tăng cường khẳ năng kiểm kê kiểm soát của nhà nước đối với sự hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước không han chế khả năng sản xuất của doanh nghiệp nhưng mặt khác tăng cường công tác kiểm kê kiểm soát đảm bảo môi trường kinh doanh luôn trong sạch và răng nguồn thu từ thuế cho ngân sách. Nhà nước cần phải: _ Tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp tự do kinh doanh. _Thành lập công ty kiểm toán tư nhân và nhà nước đặt dưới sự quản lý và chỉ đạo nội vụ của bộ tư pháp. _ Thực hiện chế độ nghiêm ngặt đăng kí hệ thống kế toán. 4- Cải cách bộ máy hành chính, hiện đại hoá nhà nước. Bộ máy quản lý hành chính nước ta còn khá cồng kềnh chồng chéo. Tệ quan liêu tham nhũng còn là vấn đề cấp bách. Chúng ta phải rà soát loại bỏ những quy định, phương thức tổ chức cũ, đảm bảo sự quản lý hiệu quả, không chồng chéo. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ nhà nước đảm bảo người quản lý đủ trình độ, chuyên môn, nhận thức bản lĩnh chính trị. Đưa hệ thống tin học vào quản lý đảm bảo sự khách quan khoa học, tiết kiệm thời gian.
  15. 5- Đối với công tác kế hoạch hoá theo xu hướng kế hoạch hoá định hướng đồng thời đổi mới hệ thống mục tiêu định hướng. 6- Đổi mới hệ thống thông tin kiểm tra theo yêu cầu cơ chế thị trường. Để phù hợp với cơ chế mới và làm đúng chức năng, mô tả thực trạng thị trường hàng, dịch vụ dự báo xu hưóng báo động giữa cung và cầugiá cả và và các trạng thái của sản lượng việc làm, giá cả phải căn cứ vào hệ thống mục tiêu quản lý theo cơ chế mới, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch hoá định hướng theo cơ chế mới cải tạo kênh thị trường vào hệ hệ thống chỉ tiêu thị trường kinh tế quản ly cho phù hợp với việc điều hành quản lý kinh tế theo cơ chế mới. 7- Đổi mới công thức sử dụng các chính sách kinh tế theo yêu cầu kinh tế thị trường, tạo cơ chế phù hợp với chính sách, ổn định kinh tế vĩ mô. 8-Đổi mới hệ thống pháp chế theo định hướng dân chủ hoá nền kinh tế. 9- Hoàn thiện đổi mới quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng ngân hàng. 10-ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát. 11- Đổi mới chế độ tiền lương. 12- Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Để thực hiện được mục tiêu ổn định hình thái kinh tế mà Đảng đề ra là làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, đất nước chuyển mình lên chủ nghĩa xã hội thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất, chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, vì không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất cao thì không thể nói đến một nền kinh tế vững mạnh. Mà muốn có năng suất lao động cao thì không chỉ dựa vào nông nghiệp, sử dụng lao động thủ công mà phải phát triển công nghiệp đi lên đổi mới công nghệ ngày càng hiện đại. Nói cách khác là Nhà nước ta đã tiến hành theo hiện đại hoá. Đó là bước đi tất yếu của một quốc gia muốn đi lên từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là xu thế chung của lịch sử. Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của hình thái kinh tế xã hội đưa đất nước ta vượt qua một chặng đường dài đi lên một xã hội hoàn thiện. Đó là sự đi lên ngày càng cao của các nước đang phát triển so với các nước phát triển.
  16. Nhận định được những điều nói trên và những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế. Việt Nam, Đảng ta đã xác định tư tưởng nhận thức một cách đúng đắn hơn và đã tạo ra được vai trò của nó trong việc vận dụng hình thái kinh tế xã hội thông qua các vấn đề sau: 1.Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới. Ngày nay không phải đơn thuần là sự phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự đổi mới cơ bản về hình thái kinh tế và tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Từ đó tạo ra sự cân đối hài hoà giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc doanh. Đổi mới cả tư duy suy nghĩ và hành động. Công cuộc đổi mới mà Đảng đã lựa chọn là đúng đắn, con đường đó là công nghiệp hoá - hiện đại hoá với việc hình thành và chuyển dịch kinh tế. * Phương hướng cụ thể. Giải quyết là chuyển đổi cơ cấu “công - nông nghiệp và dịch vụ” phù hợp với xu hướng “mở” của nền kinh tế. Vấn đề này được giải quyết tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp lý trong các ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lý với cơ cấu đầu tư. Hướng chuyển dịch đó là giá trị các ngành dịch vụ tăng nhanh, tỉ lệ sản lượng chiếm phần lớn trong GDP... Tỉ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp giảm dần ( nhưng lượng tuyệt đối tăng hàng năm). + Nông nghiệp (kể cả lâm ngư nghiệp): trong một số năm trước mắt vẫn được coi là mặt trận hàng đầu. Nhà nước có những chính sách khuyến khích đầu tư vốn khoa học công nghệ nhằm phát huy thế mạnh tiềm năng của các vùng, hình thành những vùng chuyên canh... tạo cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lí đa dạng phù hợp với điều kiện sinh thái ở nước ta . + Công nghiệp: Đã hình thành một số ngành công nghệ hiện đại có hàm lượng khoa học - công nghệ hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở những tiền đề cần phảI đạt được đó là: điện tử tin học, công nghiệp sinh học, vật liệu mới và cơ khí chính xác.
  17. Đa dạng hoá các ngành thuộc kết cấu hạ tầng đi trước một bước gồm năng lượng (Điện than, dầu khí) giao thông vận tải. Từ nay đến năm 2010 Nhà nước ta phát triển tiếp một số ngành sản xuất tiêu dùng và xuất khẩu đi đôi với việc hình thành một số công nghiệp tư liệu cần thiết. + Công nghiệp chế biến nông thổ thuỷ sản: đã được chú trọng nhằm nâng cao giá trị của các mặt hàng lương thực thực phẩm nhằm thu hút khách hàng trên thị trường quốc tế. + Dịch vụ: Đối với ta hiện nay phải hết sức coi trọng và phát huy thế mạnh của các hoạt động dịch vụ đặc biệt là dịch vụ có thu ngoại tệ mạnh nên Nhà nước ta đã nâng cao chất lượng hoạt động của các Ngân hàng trên toàn quốc. Nâng cao năng lực và trình độ hiện đaị và các ngành dịch vụ kỹ thuật, ngân hàng, bưu chính viễn thông. Các dịch vụ về hàng hải và hàng không có triển vọng to lớn, chúng ta chú trọng phát triển các dịch vụ vận tải biển, dịch vụ vận tải biển quá cảnh. Ngoài ra vấn đề phân công lại lao động xã hội và tranh thủ vốn đầu tư Nhà nước cũng như vấn đề giải quyết sớm để phát triển kinh tế. 2.Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Nước ta hiện nay là một Nhà nước với 80% dân cư đang sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập trung đại bộ phận người nghèo. Vì vậy, phát triển hình thái kinh tế xã hội nông thôn đã đang và sẽ là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông nghiệp không thể tự mình thay đổi, đổi mới cơ sở vật chất kĩ thuật công nghệ không có khả năng tăng trưởng nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân mà phải có tác động mạnh mẽ của công nghiệp, dịch vụ . Chỉ có như vậy sẽ xoá vỡ được trạng thái trì trệ của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ xoá đói giảm nghèo nâng cao mức thu nhập bình quân. Phần trên đã cho ta thấy Đảng và Nhà nước ta đã làm được những gì mà thực tế trong mấy năm chuyển đổi sản xuất nông nghiệp được phát triển rõ rệt. Hơn nữa theo kinh nghiệm của các nước Châu á - Thái Bình Dương sự phát triển công
  18. nghiệp giai đoạn đầu chủ yếu được đưa vào nền tảng của nông nghiệp. Công nghiệp hoá phải tạo cơ sở cho công nghiệp nông thôn phát triển. Nhà nước đã khuyến khích cơ sở công nghiệp nông thôn thu hút công nghiệp chế tạo và dịch vụ qua phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Chính vì những bước đó mà việc phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội ở nông thôn là một việc làm cần thiết trong thời gian trước mắt nhằm đẩy tới một bước công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta trong những năm tới. * Chính sách đường lối để phát triển đẩy mạnh hơn nữa nền kinh tế Việt nam hiện nay Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phương hướng hàng chiến lược đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp bằng hàng hoá có chất lượng cao để xuất khẩu. Nhiều người cho rằng đây là hướng sai lầm nhưng thực tế không phải vậy. Nông nghiệp là ngành sản xuất có đặc trưng là sản phẩm nó cần thiết cho mọi cuộc sống hàng ngày. Phát triển sản xuất nông nghiệp cung cấp sản phẩm đủ trong nước rồi mới xuất khẩu là một lẽ đương nhiên những công cụ sản phẩm chỉ trong nước còn với xã hội là một lẽ đương nhiên bởi ta không thể nhập lương thực mà lại không sản xuất được ra. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần được quá trình đầu tư khoa học - công nghệ để đem lại chất lượng cao cho sản phẩm. Công nghiệp nhẹ cần được phát triển trong lĩnh vực nông nghệ là công nghệ để sản xuất thuốc trừ sâu phân bón vi sinh cây không gây độc hại. 3.Đổi mới kết cấu cơ sở hạ tầng Kết cấu hạ tầng vừa là điều kiện, vừa là mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để chuẩn bị cho nền kinh tế phát triển cao hơn vào những năm bước sang thế kỷ 21 thì cơ sở hạ tầng cần phải được hiện đại hoá một phần đáng kể. Đó là hệ thống giao thông vận tải phải được nâng cấp cao hơn nữa, hiện đại hoá sớm hệ thống bưu chính viễn thông trong và ngoài nước, bảo đảm cung cấp điện cho đô thị, cho công nghiệp phải liên tục, phải điện khí hoá một phần quan trọng. Ngày nay Nhà nước ta đã đầu tư vào các vùng nông thôn cung cấp nước sạch cho đô thị từng
  19. bước hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng cho từng vùng lãnh thổ, nhất là khu vực công nghiệp, các đô thị lớn đều được nâng cấp. Từ nay đến 2010 và sau đó chúng ta có nhiều dự án xây dựng kết cấu hạ tầng quy mô lớn như : xây dựng tuyến đường quốc lộ 1A, tuyến đường nối liền Bắc - Trung - Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế, luận chứng kinh tế khoa học đã phê duyệt với trên 50 công ty trong và ngoài nước tham gia đấu thầu với số vốn hơn 2 tỷ USD. Một loạt các cảng bến được xây dựng mới, nâng cấp (cảng Dung Quất được đầu tư hơn 1 tỷ USD trong tương lai sẽ tính thành cảng biển lớn vào bậc nhất Đông Nam á). Nhìn lại nền kinh tế nước ta từ những năm qua, một số đã phát huy hiệu quả kinh tế của nó như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, khu gang thép Thái Nguyên đang đi vào đổi mới công nghệ, nhà máy xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch. Chúng ta thấy được nền kinh tế đang phát triển một cách nhanh chóng, Trong tương lai ta sẽ xây dựng trung tâm Đại học, khoa học công nghiệp, y tế thể dục, trung tâm quốc gia. 4.Phát triển kinh tế nhiều thành phần Sau những năm mở cửa, nền kinh tế cùng với những chính sách của Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển. Không như trước kia ngày nay các thành phần kinh tế từ quốc doanh đến tư nhân phát huy hết tiềm năng của mình nằm trong nền kinh tế thị trường. Chúng bổ sung cho nhau cạnh tranh nhau tạo nên một sự phát triển có hiệu quả đẩy nước ta lên một nấc thang cao hơn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Kinh nghiệm của chính nước ta đã chứng tỏ Việt nam đòi hỏi phải có sự tham gia của mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có như vậy chúng ta mới phát huy được tư tưởng Hồ Chí Minh “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết”. Trong thời gian tới để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát huy tính năng động của Người trong công cuộc đổi mới và xây dựng tổ quốc chúng ta cần tăng cường quản lý chỉ đạo thống nhất quá trình mở cửa, chuẩn bị tốt các chương trình kế hoạch, dự án hợp tác với bên ngoài. Đồng thời phải quán triệt các quyết định chủ trương đã đề ra. Đó là vấn đề trọng tâm nhất của chính sách đổi mới mà
  20. Đảng ta đề ra song ta cần phải kết hợp với những chính sách khác như phát triển công nghiệp trên các địa bàn thuận lợi có điều kiện . Hiện nay, ta đang chủ trương đầu tư thúc đẩy mạnh các ngành công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, cơ khí, điện tử tin học, các ngành nguyên vật liệu. * Một số vấn đề cần lưu ý Xã hội luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó ở nước ta khi tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng phải đặt trong quy luật vận động. Muốn tạo ra những bước chuyển biến tích cực của nền kinh tế nước ta đòi hỏi các nội dung của hình thái kinh tế cũng như phải thường xuyên thay đổi và bổ sung. Các nội dung trong hình thái kinh tế phải liên hệ chặt chẽ với nhau và bổ sung cho nhau. Quan trọng nhất là luôn phải chú ý đến việc xây dựng quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Trong quá trình tiến hành cần phải đưa con người lên vị trí trung tâm đặc biệt là con người lao động. Đối với các nước đang phát triển, để xây dựng một nền kinh tế mạnh bền vững, không thể chỉ dựa vào vay mượn hay bỏ tiền ra mua công nghệ của nước ngoài mà phải dựa trên cơ sở khả năng, trí tuệ, phảI bằng tư tưởng văn hoá của mình mới có thể biến công nghệ hiện đại của thế giới thành cái cuả mình. Không thể dựa trên vài nguồn tài nguyên thiên nhiên hay vào số lượng những mỏ than, giếng dầu, đồn điền cao su hay ruộng đồng có sẵn mà phải biết phát huy yếu tố con người. Đây cũng là bài học rút ra từ thực tiễn của nhiều nước trên thế giới có kinh tế phát triển như: Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. . . phát triển con người trở thành xu thế khách quan trong xã hội hiện đại, là cơ sở tiền đề và thước đo cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Đây là chuyên đề rộng lớn và toàn diện bao trùm toàn bộ sự phát triển xoay quanh con người. Nếu ta coi phát triển con người là một mục tiêu đầu tiên, là động lực căn bản để phát triển xã hội, lấy việc nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển và xem đó là nhân tố quyết định tháng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0