intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TIỂU LUẬN: VỀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

Chia sẻ: Pham Vu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:113

136
lượt xem
29
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiếp cận nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, theo tác giả, ngoài những tiêu chí đã có, cần phải bổ sung thêm những tiêu chí mới nảy sinh và cùng với đó, cần phải hiểu quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về giai cấp công nhân theo quan điểm lịch sử. Thêm vào đó, khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam cần phải phân chia quá trình hình thành và phát triển của nó theo các thời kỳ lịch sử; đồng thời lựa chọn một khâu nào đó trong...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TIỂU LUẬN: VỀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

  1. TIỂU LUẬN: VỀ CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
  2. Tiếp cận nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, theo tác giả, ngoài những tiêu chí đã có, cần phải bổ sung thêm những tiêu chí mới nảy sinh và cùng với đó, cần phải hiểu quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về giai cấp công nhân theo quan điểm lịch sử. Thêm vào đó, khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam cần phải phân chia quá trình hình thành và phát triển của nó theo các thời kỳ lịch sử; đồng thời lựa chọn một khâu nào đó trong chuỗi dây xích những vấn đề cấp bách để tập trung giải quyết rồi từ đó, lần ra các mắt xích kề bên. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó. Do vậy, trước khi đề cập đến vấn đề xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần bàn về cách tiếp cận nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Trong Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã đưa ra bốn tiêu chí để đánh giá giai cấp: (1) Sự khác nhau giữa các tập đoàn người về địa vị trong một hệ thống kinh tế - xã hội nhất định; (2) Khác nhau về quan hệ đối với tư liệu sản xuất; (3) Khác nhau về vai trò trong tổ chức lao động xã hội, trong tổ chức quản lý sản xuất; (4) Khác nhau về phương thức thu nhận của cải xã hội. Vận dụng bốn tiêu chí nói trên để xác định một giai cấp là cần thiết. Khi bàn về giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra hai tiêu chí: (1) Về nghề nghiệp, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận
  3. hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp; (2) Về vị trí trong quan hệ sản xuất, giai cấp công nhân là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Vận dụng những tiêu chí nói trên vào việc xác định giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là việc không hề dễ dàng, đơn giản. Trong thực tế, đang nảy sinh hàng loạt vấn đề đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải giải quyết, như: Thứ nhất, ngoài các tiêu chí về kinh tế - xã hội, có nên bổ sung thêm tiêu chí về chính trị nữa không khi định nghĩa giai cấp công nhân. Thứ hai, C.Mác và Ph.Ăngghen nói về các tiêu chí để xác định giai cấp công nhân là lúc chủ nghĩa tư bản bắt đầu phát triển và tiến hành cách mạng công nghiệp; khi đó chưa có các nước xã hội chủ nghĩa, chưa có cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Do vậy, khi đó, hai ông chưa thể đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân hiện đại và giai cấp công nhân trong chủ nghĩa xã hội. Từ đó đến nay, tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi, vì vậy cần phải nghiên cứu, bổ sung vào định nghĩa về giai cấp công nhân những tiêu chí mới để định nghĩa về giai cấp công nhân hiện đại, về giai cấp công nhân trong chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng là, không thể đem những định nghĩa trước đây về giai cấp công nhân để nói về giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Chúng ta không vứt bỏ khái niệm giai cấp công nhân, mà vẫn sử dụng nó nhưng với nội dụng mới. Thứ ba, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về người công nhân trong quá trình phát triển, nào là giai cấp công nhân, giai cấp vô sản, giai cấp lao động, lao động làm thuê; nào là công nhân nông nghiệp, công nhân công nghiệp, công nhân khai khoáng; nào là công nhân thủ công, công nhân công trường thủ công; công nhân hiện đại, công nhân quý tộc, vô sản lưu manh, v.v.. Hiện nay, khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam, cần xác định rõ thuật ngữ nào là không còn thích hợp nữa, thuật ngữ nào vẫn có thể sử dụng nhưng phải bổ sung những nội dung mới, thuật ngữ nào vẫn giữ nguyên giá trị. Xuất phát từ thực tế hiện nay và những chỉ dẫn của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể nói rằng, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay là giai cấp những người lao động chân tay và trí óc hoạt động trong các ngành công nghiệp và
  4. dịch vụ công nghiệp thuộc các loại hình: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Dù họ hoạt động trong bất kỳ thành phần kinh tế nào thì với tư cách người làm công ăn lương, họ cũng đều là chủ của đất nước, quyền lợi của họ được pháp luật nhà nước bảo vệ. Ở đây, khi vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể vào việc nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam, việc tránh chủ nghĩa giáo điều là hết sức cần thiết. Điều đó có nghĩa là, không thể đem những quan điểm giai cấp của thời kỳ trước đây - thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp - vận dụng một cách máy móc vào thời kỳ đổi mới hiện nay, bởi tình hình đã thay đổi rất nhiều, khi chúng ta đã từ bỏ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ để chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội công dân, hội nhập quốc tế. Do vậy, hiện nay, chúng ta xem xét giai cấp công nhân Việt Nam không phải trong hoàn cảnh đấu tranh giai cấp gay gắt, đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa để giải quyết vấn đề “ai thắng ai”, mà trong hoàn cảnh đại đoàn kết dân tộc là động lực của sự phát triển, đảng viên cũng được làm kinh tế tư nhân (trong đó có kinh tế tư bản tư nhân). Giai cấp công nhân Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhưng điều đáng chú ý ở đây là, mãi đến năm 2020, nước ta mới cơ bản trở thành nước công nghiệp; còn hiện nay, mặc dù đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển. Do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam còn phải đấu tranh rất gian khổ để từng bước đạt các mục tiêu, như sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, biến nước ta thành một nước công nghiệp, tiến tới xây dựng một xã hội mà trong đó, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ở châu Âu, giai cấp công nhân bắt đầu hình thành cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản vào khoảng thế kỷ XVI, đặc biệt phát triển mạnh vào thế kỷ XVIII khi cách mạng công nghiệp nổ ra. Còn ở Việt Nam, giai cấp công nhân ra đời vào đầu thế kỷ XX khi chủ nghĩa thực dân Pháp thực hiện chính sách khai thác thuộc địa. Như vậy, ở nước ta, giai cấp công nhân ra đời trước giai cấp tư sản. Thế nhưng, do chủ nghĩa tư bản thực lợi Pháp, do đất nước phải trải qua những cuộc kháng chiến lâu dài, ác
  5. liệt và gian khổ, do những cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ào ạt cả ở miền Bắc và miền Nam làm đảo lộn cơ cấu kinh tế và cơ cấu giai cấp, quá trình công nghiệp hoá diễn ra chậm chạp, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm chạp. Tuy nhiên, trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, cùng với cả dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã phát huy được truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường và anh hùng. Đồng thời, giai cấp công nhân Việt Nam cũng phát huy tốt truyền thống đoàn kết giai cấp của mình, truyền thống đại đoàn kết dân tộc và có mối liên hệ tự nhiên, mật thiết với nông dân và các tầng lớp lao động khác, gắn bó chặt chẽ lợi ích của mình với lợi ích của dân tộc. Khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam, chúng ta có thể phân chia quá trình hình thành và phát triển của giai cấp đó thành bốn thời kỳ sau đây: - Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ bị thực dân Pháp cai trị. - Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. - Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xô viết. - Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Mỗi thời kỳ nói trên đều có những đặc điểm riêng, nhưng để hiểu được giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta không thể không xem xét quá trình hình thành và phát triển của nó, cũng như những đặc điểm của nó ở các thời kỳ trước. Giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay đã khác rất nhiều so với các thời kỳ trước, đã có những biến đổi quan trọng cả về số lượng, chất lượng lẫn cơ cấu. Trong quá trình biến đổi đó, có một số vấn đề nổi lên đáng chú ý sau đây: Thứ nhất, trong quá trình đổi mới, do các doanh nghiệp nhà nước giảm, nên số lượng công nhân trong khu vực này cũng giảm theo. Ngược lại, số lượng công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể lại tăng mạnh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay, mặc dù có phát triển nhanh trong những năm gần đây, nhưng chủ yếu vẫn là những doanh nghiệp nhỏ, chỉ có một số rất ít sử dụng từ 500 đến 1000 công
  6. nhân. Thứ hai, mặc dù đời sống của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã được cải thiện và khá hơn nhiều so với các thời kỳ trước, nhưng còn có quá nhiều khó khăn cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần, cả về nhà ở lẫn việc làm. Năm 1995, tiền lương tối thiểu của người lao động đã được luật pháp hoá, nhưng mức lương tối thiểu đặt ra thấp, không đủ chi cho nhu cầu thiết yếu của người lao động và chậm được điều chỉnh, nên giá trị thực tế giảm dần. Tiền lương tối thiểu chung chưa trở thành lưới an toàn cho lao động làm công ăn lương. Đời sống của giai cấp công nhân khó khăn đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tư tưởng, tình cảm và lòng tin của họ đối với chế độ, với Đảng và Nhà nước. Vì vậy, khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam không thể bỏ qua tình cảnh hiện nay của họ. Thứ ba, Đảng và Nhà nước ta đã cố gắng nâng cao trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân. Do vậy, so với các thời kỳ trước, về mặt này, chúng ta đã có những bước tiến đáng kể. Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì trình độ các mặt hiện nay của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được; còn nếu so sánh với trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân ở các nước phát triển thì hiện trạng của nước ta thật đáng lo ngại: tỷ lệ lao động có trình độ cao hiện còn rất thấp, lao động chưa qua đào tạo còn nhiều. Khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, như đã trình bày ở trên, có hàng loạt vấn đề cấp bách đòi hỏi phải giải quyết. Đương nhiên, không thể đồng thời giải quyết cùng một lúc tất cả mọi vấn đề. Ở đây, nên lựa chọn một khâu nào đó trong dây xích này để tập trung giải quyết rồi từ đó, lần ra các mắt xích kề bên. Theo tôi, mắt xích đó chính là đào tạo nghề cho công nhân, bởi thất nghiệp, không có việc làm chủ yếu không phải do không có người thuê, mà do lao động không được đào tạo, hoặc đào tạo không đúng yêu cầu của thị trường. Nếu chúng ta biết căn cứ vào yêu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước để xây dựng một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực thích hợp thì công nhân sẽ có việc làm và do có việc làm, đời sống của họ sẽ được cải thiện và quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá sẽ được đẩy nhanh. Đó cũng là từng bước thực hiện “trí thức hoá công nhân”. Khi nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, chúng ta không thể không dự
  7. báo sự phát triển của nó gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, gắn với triển vọng thực hiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta để định hướng cho sự phát triển giai cấp công nhân hiện đại. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã và đang làm biến đổi sâu sắc, toàn diện các giai tầng xã hội, trong đó có giai cấp công nhân. Những máy móc, thiết bị do cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra đang làm thay đổi phương thức lao động và vị thế của người công nhân. Xu hướng nổi lên là lao động chân tay ngày càng giảm, lao động tri thức ngày càng tăng và ai cũng phải sử dụng máy vi tính nối mạng, lao động ở nhà, lao động tự do sẽ trở nên ngày càng phổ biến. Kinh tế tri thức hình thành làm cho tỷ trọng các ngành sản xuất vật chất suy giảm, tỷ trọng các ngành phi vật chất tăng lên. Tri thức trở thành nguồn lực kinh tế quan trọng hơn các yếu tố sản xuất truyền thống khác, như vốn, tài nguyên, lao động giản đơn. Lợi nhuận từ lao động giản đơn, đất đai, tư bản ngày càng giảm. Giai cấp công nhân hiện đại, tuy vẫn là người làm thuê, nhưng có đời sống khá, có trình độ khoa học và nghiệp vụ cao, phần lớn có trình độ đại học và cao đẳng, tỷ lệ “công nhân cổ trắng” ngày càng tăng, chiếm ưu thế so với tỷ lệ “công nhân cổ xanh”, đang hình thành tầng lớp trung lưu mới, trong đó phần lớn là “công nhân cổ trắng”. Tình hình đó gợi ý cho chúng ta, khi Việt Nam thoát khỏi tình trạng kém phát triển và dần dần trở thành một nước phát triển thì dự báo giai cấp công nhân Việt Nam khi đó sẽ như thế nào. Mặc dù đó là vấn đề của tương lai, nhưng cần nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại ở các nước phát triển để dự báo triển vọng của giai cấp công nhân Việt Nam./. (*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU CỦA PH.ĂNGGHEN TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY NGÔ ĐÌNH XÂY(*) Trong bài viết này, tác giả đã trình bày một cách ngắn gọn, mang tính khái quát quan niệm của Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa cái tất yếu và cái có thể để từ đó,
  8. rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nó. Bài viết cũng đã chỉ ra và phân tích sự vận dụng phương pháp luận này vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay. Cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen là nhà phương pháp luận thiên tài. Song, người ta thường chỉ nghĩ đến ông đã cùng với C.Mác sáng tạo và xây dựng nên phép biện chứng duy vật với tư cách một khoa học có đầy đủ nguyên lý, quy luật và các phạm trù cấu thành như chúng ta đã và đang giảng dạy. Điều đó, theo chúng tôi, là đúng nhưng chưa đủ. Đọc, suy ngẫm và nghiên cứu kỹ cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của Ph.Ăngghen, chúng tôi thấy còn một điểm rất đặc sắc, mang tính ngầm định, riêng có, tạo nên nét độc đáo trong cách tiếp cận, phương pháp luận nghiên cứu của ông - đó là sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể, mặc dù ông chưa một lần tuyên bố về vấn đề này. Hơn nữa, tính đặc sắc của sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể không phải và không chỉ được thể hiện trong một số trường hợp, một số lĩnh vực nghiên cứu, mà là sự xuyên suốt, nhất quán và được tuân thủ triệt để ở tất cả các lĩnh vực nghiên cứu, trong toàn bộ quá trình tìm kiếm chân lý của Ph.Ăngghen. Sự hiện diện và minh chứng rõ cho phương pháp luận nghiên cứu đặc sắc này của ông được và có thể được tiếp cận và lý giải như sau: Thứ nhất, khi tiếp cận nghiên cứu về giới tự nhiên cũng như về toàn bộ thế giới khách quan, Ph.Ăngghen đã nhận thấy và phát hiện ra một trong những mối quan hệ rất phổ biến, bao quát, chi phối toàn thể thế giới hiện thực - đó chính là mối quan hệ giữa cái tất yếu và cái có thể. Cái tất yếu phải xảy ra khi có đủ điều kiện và đã chín muồi, thì nó phải xảy ra; song trong trường hợp này, quan hệ đó lại diễn ra thế này và trong trường hợp khác, quan hệ khác, điều kiện khác thì nó có thể diễn ra khác đi. Từ mối quan hệ có tính phổ biến này, Ph.Ăngghen đã đi đến khái quát và duy danh định nghĩa thành cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên. Tất nhiên là cái tất yếu tuân theo quy luật “thép”, không thể khác được. Còn cái ngẫu nhiên là cái tất yếu nhưng bị biến tướng đi, có thể biểu hiện khác, mang sắc thái khác trong những điều kiện, môi trường khác, nghĩa là tồn tại dưới hình thức cái
  9. có thể. Như vậy, rõ ràng là, mối quan hệ giữa cái tất yếu và cái có thể đã hiện diện và được bao chứa trong hiện thực khách quan. Thứ hai, trong toàn bộ sự vận động của tiến trình lịch sử nhân loại, loài người tất yếu phải đi lên, phải phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, nghĩa là con người phải tất yếu bước từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do. Cái vương quốc của tất yếu ở đây được hiểu như là những bước quá độ của các nấc thang mông muội, dã man và văn minh mà chính Ph.Ăngghen đã đề cập, phân tích trong Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước. Còn vương quốc tự do chính là xã hội công bằng, tươi đẹp - xã hội cộng sản tương lai mà loài người đang vươn tới. Do sự phát triển thường xuyên, liên tục của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, do ý thức tự vươn lên ngày càng sâu sắc hơn của loài người mà nhân loại sẽ tất yếu bước từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do. Song, do những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, thể chế chính trị - pháp luật khác nhau, truyền thống tâm lý, văn hoá và lối sống khác nhau, do độ chín muồi về trạng thái tư tưởng và nhận thức khác nhau mà ở dân tộc này, dân tộc khác có thể bỏ qua một hay nhiều bước quá độ nào đó trong số những bước đi chung mà nhân loại tất yếu phải trải qua. Nói cách khác, nhân loại tất yếu cùng đi đến một đích, song đến đích đó như thế nào và bằng cách nào thì lại là sự có thể. Như vậy, sự thống nhất của cái tất yếu và cái có thể đã được đan xen, chuyển hoá và quện chặt trong sự vận động của lịch sử nhân loại và do đó, làm cho hình thức phát triển xã hội của loài người trở nên đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ và mang nhiều sắc thái khác nhau. Thứ ba, trong phương pháp luận tổng kết thực tiễn cách mạng của Ph.Ăngghen luôn có sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể. Nghiên cứu sự vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác cũng như Ph.Ăngghen đã thấy rằng, xã hội luôn vận động, phát triển và do vậy, đến một lúc nào đó, loài người sẽ đạt tới một trình độ hoàn thiện hơn, cao hơn, tốt đẹp hơn so với trạng thái xã hội hiện có. Theo lôgíc không thể bàn cãi đó, xã hội cộng sản chủ nghĩa - một xã hội cao hơn, tốt đẹp hơn, hoàn chỉnh hơn xã hội tư bản chủ nghĩa nhất định sẽ ra đời. Điều đó cũng có nghĩa là cách mạng vô sản sẽ diễn ra, khả năng phát triển của xã hội loài người lên chủ nghĩa cộng sản là tất yếu, bởi nó tuân theo quy luật “thép” của lịch sử và bản
  10. thân nó là một quá trình lịch sử - tự nhiên trong sự vận động của xã hội loài người. Đó là sự tất yếu. Song, cách mạng vô sản nổ ra bao giờ, ở đâu, với hình thức ra sao, trong những điều kiện, hoàn cảnh nào thì lại phụ thuộc vào những nhân tố khách quan và chủ quan của lịch sử. Điều đó có nghĩa là sự phát triển tiến lên chủ nghĩa cộng sản ở một nước nào đó, ở một tình thế, một trạng thái nào đó không phải đã được quy định trước, không phải khuôn mẫu đã được định sẵn, mà có thể diễn ra thế này hoặc thế khác, dưới hình thức này hoặc hình thức khác, nghĩa là chỉ là sự có thể. Chính vì tuân thủ nguyên tắc phương pháp luận này mà C.Mác cũng như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Sự phát triển của xã hội loài người lên chủ nghĩa cộng sản là tất yếu; song nó là sự phát triển trực tiếp (từ chủ nghĩa tư bản lên), hay nó là sự phát triển gián tiếp (từ trạng thái tiền tư bản lên) thì đó chỉ là những khả năng, những sự có thể mang tính tất yếu trong tiến trình vận động của lịch sử. Và, cũng chính tuân thủ nguyên tắc phương pháp luận này mà Ph.Ăngghen đã rút ra những khả năng phát triển khác nhau của cùng một cuộc cách mạng - cách mạng vô sản. Thứ tư, trong quan niệm về tự do, Ph.Ăngghen cũng đã áp dụng phương pháp luận của cái tất yếu và cái có thể để giải quyết khá hay, khá chặt chẽ và khá độc đáo về vấn đề này. Theo Ph.Ăngghen, tự do có thể là cái tất yếu, song cũng có thể là cái có thể. Tự do là cái tất yếu, hợp quy luật, nghĩa là tự do thật sự theo đúng nghĩa của nó, khi và chỉ khi người ta nhận thức được cái tất yếu (quy luật) và hành động theo cái tất yếu đó. Còn nếu thiếu một trong hai điều kiện đó thì tự do chỉ là cái khả năng, là cái có thể và người ta chỉ được hưởng tự do trong tiềm năng mà thôi. Chính từ đây, Ph.Ăngghen đã triệt để phê phán quan điểm có tính chất duy tâm, tự biện của Đuyrinh về tự do và tất yếu, khi Đuyrinh coi tự do là cái trung bình giữa phán đoán và bản năng, giữa cái hợp lý và cái phi lý. Trên cơ sở sự phê phán này, Ph.Ăngghen đã trình bày và khẳng định rất rõ ràng rằng, tự do là tất yếu đã được nhận thức. Tự do có nghĩa là đã nhận được và hành động tuân theo các quy luật của hiện thực khách quan(1). Ở đây, Ph.Ăngghen đã dùng phương pháp luận của cái tất yếu và cái có thể để trực tiếp phê phán Đuyrinh và gián tiếp phê phán tất cả những người nào chỉ muốn coi tự do là cái có thể, nghĩa là đã là tự do thì có thể làm được tất cả, bất chấp tất cả, hành động hoàn toàn tuỳ theo ý muốn
  11. chủ quan. Qua đây, Ph.Ăngghen cũng phê phán những hành động tuỳ tiện, bất chấp quy luật khách quan của con người. Thêm vào đó, ông còn muốn cảnh báo rằng, sự tuỳ tiện, sự bất chấp quy luật (tức chỉ là sự có thể) trong hành động của con người thì chính con người sẽ bị cái tất yếu (quy luật) trừng phạt. Cái giá mà con người phải trả cho sự tuỳ tiện, bất chấp quy luật là vô giá. Sự cảnh báo này có ý nghĩa rất thiết thực trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường trong điều kiện hiện nay. Thứ năm, điều rất đáng nhấn mạnh ở đây là, trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu của mình, Ph.Ăngghen đã dùng phương pháp luận của cái tất yếu và cái có thể để đi đến kết luận mang tính khoa học cao, tính biện chứng sâu sắc, tính cách mạng triệt để về chính học thuyết Mác. Theo Ph.Ăngghen, học thuyết của C.Mác (và cũng là của ông) bao giờ và ở đâu cũng là sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể; đó là đặc tính nội tại, tất yếu của chính học thuyết đó. Với tư cách là con đẻ của nền đại công nghiệp, là đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ trong tương lai và hơn thế nữa, khi tồn tại, bước lên vũ đài lịch sử chính trị là chính mình thì giai cấp công nhân tất yếu phải tìm, đưa ra và xây dựng được một học thuyết khoa học riêng, một tuyên ngôn riêng mà thông qua đó, giai cấp công nhân tuyên bố công khai về vai trò lịch sử của chính mình và cũng qua học thuyết đó để giai cấp công nhân thiết kế và định hướng được một mô hình phát triển xã hội đối với nhân loại trong tương lai. Đó là sự tất yếu và do vậy, học thuyết của C.Mác và Ph.Ăngghen là một kết quả tất yếu trong sự vận động của lịch sử tư duy nhân loại. Song, học thuyết đó như thế nào là hoàn chỉnh, nó được cấu thành ra sao thì đó lại là cái có thể. Chính vì vậy mà Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận: “Toàn bộ thế giới quan [Auffassu - ngsweise] của C.Mác không phải là một học thuyết, mà là một phương pháp. Nó không đem lại những giáo điều có sẵn, mà đem lại những điểm xuất phát cho việc tiếp tục nghiên cứu và phương pháp cho sự nghiên cứu đó"(2). Như vậy, theo Ph.Ăngghen, học thuyết Mác chỉ là phương pháp, hay nói chính xác hơn chỉ là phương pháp luận biện chứng và cái phương pháp luận biện chứng ở đây là cái tất yếu soi đường, định hướng, là cái làm cơ sở, nền tảng, là điểm tựa để
  12. nhìn nhận đánh giá mọi sự vật, hiện tượng cho tất cả những ai chấp nhận và tuân theo học thuyết đó. Còn nội dung bao chứa trong nó và sự biểu hiện ra của học thuyết đó chỉ là cái là cái có thể, dĩ nhiên là cái có thể mang tính tất yếu và dựa trên tính tất yếu. Và, vì nó là cái có thể, nên nó là hệ mở, nó có thể và cần phải được mở rộng, điều chỉnh, bổ sung, phát triển thêm. Đây là chỉ dẫn cực kỳ quan trọng, mang tính kinh điển và là phương pháp luận, là cơ sở để những người mácxít chân chính sau này phải có nhiệm vụ bổ sung thêm, phát triển và hoàn chỉnh học thuyết Mác, nếu như họ, theo cách nói của V.I.Lê-nin, “không muốn lạc hậu so với cuộc sống”. II 1. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra và thực thi một nguyên lý phương pháp luận nổi tiếng cho hoạt động của cá nhân cũng như cho cả dân tộc: "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Cái bất biến ở đây chính là độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc. Điều giản dị nhưng thiêng liêng ấy là sự thôi thúc sống còn của tất cả mọi người dân, là sự hun đúc, đòi hỏi của sức mạnh nội sinh, yêu cầu trường tồn của dân tộc, là tính tất yếu của truyền thống bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Và như vậy, theo nghĩa đó, cái bất biến ấy chính là cái tất yếu, là cái quy định tất thảy mọi hoạt động của mỗi công dân, là mẫu số chung cho thước đo chân giá trị của con người Việt Nam. Chính vì thế, sau này, Hồ Chí Minh đã khái quát và đúc rút thành một chân lý rất cụ thể, trở thành lẽ sống cho dân tộc Việt Nam: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Còncái vạn biến là những sắc thái hành động biến hoá, những ứng biến, đối phó linh hoạt, những sách lược mềm dẻo, những phương thức thực thi khôn khéo với những thể hiện và diễn biến rất đa dạng, muôn màu, muôn vẻ trong hoạt động đấu tranh thực tế. Song, tính đa dạng và muôn màu, muôn vẻ này phải hiển nhiên và buộc phải được dựa trên, phải tuân thủ nghiêm ngặt và phải phục vụ cái tất yếu - độc lập nói trên. Như vậy, để đạt được cái tất yếu - độc lập cho dân tộc thì được phép đưa ra nhiều sách lược khác nhau, sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, thực thi nhiều phưong thức hoạt động khác nhau và do đó, cho phép sự có thể trong sách lược và phương thức hành động thực tế. Rõ ràng là, ở đây, cái tất yếu được thể hiện ra làcái có thể. Với phương châm đó, theo Hồ Chí Minh, phải có sự thống
  13. nhất, sự nhất quán giữa cái tất yếu và cái có thể khi suy nghĩ, hành động và phục vụ dân tộc. Như vậy là, một cách vô tình hay hữu ý, Hồ Chí Minh đã gặp Ph.Ăngghen, hai tư tưởng lớn đã gặp nhau. Và, tuân thủ theo tinh thần, theo phương châm đó, Hồ Chí Minh đã đúc rút và đưa ra một nguyên lý tối cao: "Dĩ bất biến ứng vạn biến". Điều đó có nghĩa là, sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể chính là phương pháp luận để chỉ đạo và soi sáng đường đi cho dân tộc Việt Nam nói chung, cho cách mạng Việt Nam nói riêng. 2. Phương pháp luận nghiên cứu của sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể mà Ph.Ăngghen đã tạo dựng nên và đã áp dụng đã giải quyết những vấn đề đặt ra ở thời đại mình, cũng như đã được nhà tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam là một nét đặc sắc nổi bật trong hệ thống phép biện chứng của các nhà kinh điển mácxít. Nó có giá trị khoa học và thực tiễn to lớn không chỉ đối với thời đại của chính Ph.Ăngghen, mà còn rất hữu ích cho chúng ta ngày nay. Qua phương pháp luận này của Ph.Ăngghen, chúng ta có thể thấy cái tất yếu chỉ là cái tất yếu trong trường hợp này, trong mối quan hệ này, trong hoàn cảnh này, môi trường và điều kiện này, còn cái tất yếu là cái có thể trong những mối quan hệ khác, trong môi trường và điều kiện khác. Nói cách khác, cái tất yếu chỉ là cái tất yếu trong những trường hợp cụ thể, định hình cụ thể. Chính vì vậy mà V.I.Lênin đã rất có lý khi cho rằng, bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể. Phương pháp luận này chính là cơ sở, là định hướng rất cụ thể và thiết thực cho hoạt động lý luận và thực tiễn của các nhà mácxít, các đảng mácxít về sau này. Đó còn là kim chỉ nam rất quý cho những người cộng sản, trong đó có những người cộng sản Việt Nam, mong muốn và đang tuân theo chủ nghĩa Mác - Lênin để xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa phù hợp và thích dụng được với đất nước mình, dân tộc mình, đồng thời tìm ra những nét riêng có, những đặc thù riêng có trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước. 3. Với tư cách là một đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quá trình hoạt động thực tế, đã tuân theo và vận dụng sáng tạo phương pháp luận về sự thống nhất của cái tất yếu và cái có thể vào việc giải quyết những vấn đề
  14. thực tiễn của cách mạng nước ta. Khi nhận thấy những điều kiện khách quan và chủ quan cả ở trong nước lẫn trên thế giới, đã đủ chín muồi và cho phép, Đảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, việc phải đấu tranh để xoá bỏ chế độ cũ, đánh đuổi thực dân, đế quốc, giành độc lập cho dân tộc và thống nhất đất nước nhằm thiết lập và xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là sự cần thiết, là tất yếu, là công việc hợp quy luật. Song, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội đó như thế nào, mô hình ra sao, bằng con đường nào, thông qua những giai đoạn phát triển nào, sử dụng những biện pháp, công cụ khả thi và hiệu quả nào thì điều ấy chỉ mang tính có thể, vì đây là quá trình thử nghiệm, tìm tòi con đường đi, hơn nữa lại chưa có tiền lệ trong lịch sử. Do vậy, ở giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội là kế hoạch hoá tập trung. Song, thực tế đã cho thấy, trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, hơn nữa lại ở một nước còn sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu, lực lượng sản xuất còn chưa phát triển, quan hệ sản xuất còn chưa chín muồi, mô hình này là không thích hợp, cần phải được thay bằng mô hình khác tương thích, phù hợp hơn, có hiệu quả hơn để nó có thể giải phóng được sức sản xuất, phù hợp với trình độ quản lý hiện tại, đem lại sự năng động, tăng trưởng kinh tế nhanh và hiệu quả cao cho phát triển xã hội. Chính vì thế, bắt đầu từ 1986 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn mô hình phát triển kinh tế - xã hội mới, dựa trên những nguyên tắc vận hành mới, tức là mô hình sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước và sau này, tại Đại hội IX (2001), đã được định danh là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn là một tất yếu, song theo mô hình nào, bằng cách nào, bước đi ra sao, có những đặc thù gì thì lại là sự có thể. 4. Nếu nghiên cứu kỹ và biết kế thừa với tính trách nhiệm cao đối với tinh thần phương pháp luận này của Ph.Ăngghen, với tư tưởng - nguyên lý này của Hồ Chí Minh thì những người cộng sản Việt Nam phải tự mình rút ra bài học của quá khứ, từ đó định hướng cho chính mình, cho toàn xã hội và phải biết hiện thực hóa sáng tạo hơn nữa phương pháp luận này trong đời sống hiện thực. Đồng thờì, phải thấy rằng, định hướng tất yếu đã rõ - đó là nhất định xây dựng thành công chủ nghĩa xã
  15. hội trên đất nước ta, điều mà chính Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã hiển nhiên lựa chọn. Song, để hiện thực hoá và đạt đến đích này lại đòi hỏi những người cộng sản Việt Nam phải biết năng động, mềm dẻo, biện chứng và đổi mới hơn nữa trong nhận thức và tư duy, biết “phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể”, từ đó đưa ra và thực thi những mô hình hiện thực mới, những cách tiếp cận mới theo những cách làm, những giải pháp mới phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong nước và quốc tế nhằm phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc trên cơ sở định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là trong cách làm, cách thực thi, cách triển khai phải là sự có thể (dĩ nhiên là sự có thể được quy định bởi tính tất yếu, chứ không phải là sự có thể tuỳ tiện, vô nguyên tắc). Có và chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể hoàn thành được sứ mệnh cao cả mà dân tộc giao phó, truyền thống đòi hỏi là phải xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, nghĩa là tinh thần của phương pháp luận sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể phải được quán triệt hơn nữa, thấm nhuần sâu sắc hơn nữa. Đa dạng và phong phú hơn nữa về mô hình, con đường đi; năng động, tìm tòi, đổi mới hơn nữa về nhận thức, tư duy, cách nghĩ; sáng tạo, độc đáo, cụ thể hoá và khả thi hơn nữa về cách làm - đó là tinh thần cơ bản, xuyên suốt của phương pháp luận về sự thống nhất giữa cái tất yếu và cái có thể mà những người cộng sản Việt Nam phải rút ra khi nghiên cứu lý luận của Ph.Ăngghen, tư tưởng Hồ Chí Minh và đó cũng là tinh thần xuyên suốt của bài học hơn 20 năm đổi mới đất nước mà Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo thực hiện; hơn thế nữa, đã được Đại hội X của Đảng tổng kết và nêu thành 5 bài học quí giá.r (*) Tiến sĩ, Giám đốc Trung tâm Đào tạo, Trung ương Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. (1) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.163-164. (2) C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.39, tr.545. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ SÁNG LẬP CHỦ NGHĨA MÁC VỀ GIÁO DỤC
  16. VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY CAO THU HẰNG(*) Trong quan niệm về giáo dục của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, giáo dục không chỉ được coi là phương thức làm giàu tri thức cho con người, phục vụ cho xã hội, mà quan trọng hơn, giáo dục là cách thức làm cho con người được phát triển toàn diện các năng lực của mình. Điều này đã được Việt Nam quan tâm từ lâu với quan niệm nền tảng coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Song, để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần có cải cách trong giáo dục nhiều hơn nữa. Trong lịch sử phát triển xã hội loài người, bất cứ sự phát triển nào cũng cần đến các yếu tố, như tài nguyên, vốn, con người… Song, có thể nói, tất cả các nguồn tài nguyên đều phải qua bàn tay và khối óc của con người mới phát huy được tác dụng. Nhờ có con người, các nguồn nguyên liệu mới được khai thác, chế biến và sản xuất thành hàng hoá. Nhờ có con người mà khoa học và kỹ thuật mới phát triển, các phát minh, sáng chế mới ra đời và năng suất lao động mới tăng. Ngay cả hiện nay, khi máy tính và các rôbốt ra đời có thể làm thay một số thao tác của con người, thì cũng chính là do con người sản xuất, lập trình và bấm nút điều khiển. Để có thể khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên, sản xuất hàng hoá, sáng chế, phát minh… thì con người cần phải biết cách khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên đó, biết cách sản xuất hàng hoá, sáng chế, phát minh… Nghĩa là, họ cần phải có tri thức, cần phải được đào luyện, giáo dục. Nhận thức được điều đó, từ xưa đến nay, mọi quốc gia dân tộc đều chú ý đến tầm quan trọng của giáo dục. Các học thuyết, 13 các nhà tư tưởng cũng dành cho vấn đề giáo dục một sự quan tâm đặc biệt. Cũng như vậy, trong di sản của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, chúng ta có thể tìm thấy nhiều quan điểm cơ bản, quan trọng về giáo dục mà cho đến nay, vẫn còn có ý nghĩa.
  17. Nghiên cứu sự hình thành và phát triển con người, C.Mác cho rằng, con người là một thực thể sinh học - xã hội. Theo đó, đứa trẻ mới ra đời chỉ là “con người dự bị”. Nó không thể trở thành con người, nếu bị cô lập, tách khỏi đời sống xã hội. Trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, C.Mác viết: “Cá nhân là thực thể xã hội, cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó, ngay cả nếu nó không biểu hiện sinh hoạt tập thể, được biểu hiện cùng với những người khác - là biểu hiện và khẳng định của sinh hoạt tập thể”(1). Như vậy, muốn tồn tại và phát triển, đứa trẻ phải gia nhập vào môi trường xã hội. Chính việc gia nhập vào môi trường xã hội, thông qua các thiết chế xã hội, đặc biệt là giáo dục, con người mới có thể hoà nhập vào xã hội. Giáo dục giúp con người có được những kinh nghiệm cần thiết để sống, thích ứng và phát triển. Mặt khác, giáo dục còn đưa lại cho con người tri thức và văn hóa. Điều này giúp họ có nhiều cống hiến hơn cho xã hội. Như vậy, ở đây, theo các ông, giữa xã hội và hoạt động giáo dục luôn có mối quan hệ biện chứng. Trong đó, xã hội đóng vai trò là nhân tố quy định hoạt động giáo dục, định hướng cho sự phát triển của giáo dục, còn giáo dục có tác động tích cực đối với sự phát triển của xã hội. Nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài người, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cho rằng, lịch sử là sự phát triển, là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội là các nền giáo dục khác nhau phù hợp với mỗi hình thái kinh tế - xã hội đó. Khi hình thái kinh tế - xã hội cũ mất đi, được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới thì nền giáo dục cũ tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội cũ cũng mất đi và được thay thế bằng nền giáo dục mới. Ở đây, theo các ông, sự phát triển, sự thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, mà hình thái kinh tế - xã hội sau bao giờ cũng tiến bộ hơn hình thái kinh tế - xã hội truớc, được bắt đầu bằng sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất lại dẫn đến sự biến đổi quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất, từ đó dẫn đến sự biến đổi các mối quan hệ xã hội và đến mỗi cá nhân. Về điều này, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, “giống như trong thế kỷ trước, người nông dân và người công nhân công trường thủ công, sau khi được thu hút vào đại công nghiệp, đã thay đổi toàn bộ lối sống của họ và bản thân họ đã trở thành những con người hoàn
  18. toàn khác hẳn”(2). Sự phát triển này của lực lượng sản xuất, bao gồm con người và các công cụ sản xuất, thể hiện trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm lĩnh ngày càng nhiều hơn lực lượng tự nhiên với tư cách cơ sở vật chất cho hoạt động sống của chính con người. Điều này, theo các ông, “sẽ cần những con người hoàn toàn mới” và “cũng cần có những con người có năng lực phát triển toàn diện, đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất”. Do đó, theo các ông, “công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn…” và làm cho những thành viên trong xã hội “có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình”(3). Hơn nữa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác còn đưa ra dự báo: “Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi phí hơn là vào sức mạnh của những tác nhân được khơi động trong thời gian lao động, và bản thân những tác nhân, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng), tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng ra, chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất… Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo, máy sợi con dọc di động, v.v.. Tất cả những cái đó đều là sản phẩm lao động của con người, là vật liệu tự nhiên được chuyển hoá thành những cơ quan của ý chí con người chế ngự giới tự nhiên, hoặc của hoạt động của con người trong giới tự nhiên. Tất cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người do bàn tay con người tạo ra, đều là sức mạnh đã được vật hoá của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến [Wissen, knowledge] đã chuyển hoá đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy; những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ quan trực tiếp của quá trình sống hiện thực”(4). Do vậy, theo các ông, “bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp công nhân hiểu rất rõ rằng, tương lai của giai cấp công nhân tức là tương lai của loài người, hoàn
  19. toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên”(5). Nhìn lại lịch sử đã qua, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác còn cho rằng, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự phân công lao động. Sự phân công lao động này làm cho con người ngày càng hoạt động trong lĩnh vực sản xuất hẹp, mỗi người là một mắt khâu của quá trình sản xuất xã hội và do vậy, nó tất sẽ dẫn đến sự phiến diện trong phát triển con người. Bởi vậy, theo các ông, “công tác giáo dục sẽ làm cho người trẻ tuổi… có thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tuỳ theo nhu cầu của xã hội hoặc tuỳ theo sở thích của bản thân họ. Do đó, công tác giáo dục sẽ làm cho họ thoát khỏi tình trạng một chiều mà sự phân công lao động hiện nay đang buộc mỗi một người phải theo”(6). Trong lịch sử tư tưởng giáo dục, các triết lý giáo dục, nhìn chung, đều coi giáo dục như là một cách thức truyền thụ những giá trị xã hội nào đó để cho người học có thể gia nhập vào xã hội, phục vụ cho xã hội đó và phát triển nó trong khuôn khổ của xã hội. Giáo dục ở đây có mục đích là lấy xã hội làm trung tâm. Xã hội trang bị cho người học những kiến thức kinh tế, kỹ thuật, kinh tế,… để phục vụ cho xã hội đó. Khác với các quan niệm đó - quan niệm chỉ coi giáo dục là phương pháp đào luyện con người thành những cỗ máy phục vụ cho xã hội, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cho rằng, giáo dục không những làm cho con người thích nghi với xã hội, phục vụ cho xã hội tốt hơn, mà hơn thế, quan trọng hơn, giáo dục là cách thức làm cho con người được phát triển toàn diện các năng lực của mình. Về quan niệm này, C.Mác đã chỉ rõ, nền giáo dục sau này sẽ là nền giáo dục làm cho mỗi một trẻ em, khi đến lứa tuổi nhất định, đều biết “kết hợp trí dục và thể dục với lao động chân tay và do đó, kết hợp lao động chân tay với trí dục và thể dục”, “kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục” và coi đó không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện…”(7). Nhìn lại lịch sử nhân loại đã qua, có thể nói, quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về giáo dục lấy sự phát triển toàn diện của con người làm mục đích chính càng cho thấy tính đúng đắn của nó. Trong tư tưởng của các ông, giáo dục không những là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của xã hội, mà quan trọng hơn, còn là tiền đề cho sự phát triển toàn diện các năng lực của con người, giáo dục vì sự phát
  20. triển của chính bản thân con người. Thực tiễn ngày càng khẳng định tính đúng đắn trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế nói riêng, của xã hội nói chung. Sự phát triển của Nhật Bản ở thế kỷ XIX đã minh chứng cho điều đó. Cuối thế kỷ XIX, khi Minh Trị Thiên Hoàng lên ngôi, chỉ có khoảng hơn 10% dân số Nhật Bản biết chữ. Với việc cải cách giáo dục, coi trọng nền giáo dục phổ thông, từ năm 1885 đến 1915, số học sinh trung học ở Nhật Bản đã tăng lên 10 lần. Hiện nay, kinh tế Nhật Bản phồn thịnh là kết quả của việc đầu tư vào giáo dục từ cuối thế kỷ trước. Người dân Nhật Bản bây giờ có trình độ học vấn bình quân cao nhất thế giới. Trong những năm 70 - 80 của thế kỷ trước, Đài Loan, Hồng Kông chỉ sản xuất những mặt hàng, như dệt may, đồ chơi rẻ tiền,… do trình độ công nhân thấp…; đến thập niên 80 - 90, họ chuyển sang việc lắp ráp điện tử, xe ô tô… Các công việc không yêu cầu trình độ nhân công cao và do đó, thu nhập thấp đã được họ chuyển sang các nước khác. Ngày nay, việc lắp ráp đồ điện tử, xe hơi… cũng không phải là việc làm của họ nữa. Hồng Kông, Đài Loan hiện trở thành những trung tâm tài chính, kinh tế hàng đầu của châu Á. Đây chính là kết quả của chiến lược phát triển giáo dục đúng đắn mà họ đã áp dụng trong những thập niên trước. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế – xã hội và quan trọng hơn, đối với sự phát triển toàn diện các năng lực của chính bản thân con người, ngay từ khi mới thành lập nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng công tác giáo dục. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta tiến hành sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức thì vai trò của giáo dục lại càng quan trọng. Bởi, “công nghiệp hoá thực chất là xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, hình thành mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học – công nghệ thế giới”(8). Do vậy, việc nâng cao
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2