Tìm hiểu một số địa danh ở Lâm Đồng - TS. Nguyễn Hữu Xuân
lượt xem 14
download
Bài viết "Tìm hiểu một số địa danh ở Lâm Đồng" trình bày khái quát về các đặc điểm của tỉnh Lâm Đồng, một số địa danh như: thành phố Đà Lạt, vườn quốc gia Cát Tiên, vườn quốc gia Bidoup - Núi Bà, núi Lang Biang, người C'Ho ở xã Lát, hồ Xuân Hương...Mời bạn đọc tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tìm hiểu một số địa danh ở Lâm Đồng - TS. Nguyễn Hữu Xuân
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 TIỀM HIỂU MỘT SỐ ĐỊA DANH Ở LÂM ĐỒNG Biên soạn: TS Nguyễn Hữu Xuân Khoa Địa lí – Địa chính – trường Đại học Qui Nhơn TỈNH LÂM ĐỒNG Lâm Đồng là tỉnh miền núi cực nam Tây Nguyên, phía đông giáp các tỉnh Khánh Hoà và Ninh Thuận, phía tây giáp Đắc Nông và Bình Phƣớc, phía tây nam giáp Đồng Nai, phía nam giáp Bình Thuận, phía bắc giáp Đắc Lắc. Lâm Đồng có có diện tích 9.764km2, chiếm khoảng 2,9% diện tích cả nƣớc bao gồm thành phố Đà Lạt, thị xã Bảo Lộc và 10 huyện: Lạc Dƣơng, Đơn Dƣơng, Đức Trọng, Lâm Hà, Di Linh, Bảo Lâm, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, Đamrông. Lâm Đồng có một số đô thị, lớn nhất là thành phố Đà Lạt – đô thị loại II với số dân 162.675 ngƣời (năm 1999), thị xã Bảo Lộc và các thị trấn Liên Nghĩa, Di Linh, Đình Văn, Thạnh Mĩ… Theo tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 1-4-2009, Lâm Đồng có 1.189.300 ngƣời, chiếm 1,39% dân số cả nƣớc. Mật độ dân số thấp so với trung bình cả nƣớc, chỉ đạt 122 ngƣời/km2. Lâm Đồng là địa phƣơng có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, ngƣời Kinh là dân tộc chiếm đa số, các dân tộc bản địa bao gồm ngƣời K’Ho (117.730 ngƣời), Mạ (28.282 ngƣời) chiếm số dân đông nhất, các dân tộc ít ngƣời khác nhƣ ngƣời Hoa, ngƣời M’Nông, Chu Ru, Rắc Lây, Xtiêng. Những năm gần đây một số dân tộc ít ngƣời từ miền Bắc di cƣ vào nhƣ ngƣời Tày, Nùng, Thái, Mƣờng, Thổ… Tự nhiên Lâm Đồng phân hóa mạnh mẽ. Thuộc vùng 4 của khí hậu Tây Nguyên với tính chất nhiệt đới gió mùa, khí hậu ở Lâm Đồng ôn hoà, dịu mát quanh năm, thời tiết thƣờng ít có những biến động lớn. Địa hình phân bậc với những bề mặt cao nguyên xếp tầng đã ảnh hƣởng tới sự hình thành và phát triển các loại rừng trên các vùng có độ cao khác nhau. Vùng cao dƣới 800m, phổ biến là rừng lá rộng, rừng tre nứa tập trung và rừng hỗn giao tre nứa – cây lá rộng, tập trung chủ yếu ở Đạ Huoai, Đạ Tẻh và Cát Tiên. Chiếm diện tích lớn nhất trong tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Lâm Đồng là những khu vực có độ cao 800 – 1.500m. Cảnh quan rừng đáng chú ý nhất ở đây là rừng thông thuần loại với thông 2 lá tập trung ở Đức Trọng, Di Linh và thông 3 lá ở Đà Lạt, Lạc Dƣơng, Bảo Lâm, Di Linh, Đức Trọng và Lâm Hà. Vùng núi cao từ 1.500m trở lên, chủ yếu thuộc huyện Lạc Dƣơng, một phần Lâm Hà và Đơn Dƣơng, phát triển những dải rừng thông 3 lá rộng lớn. Đặc biệt ở đây có các loại cây quý hiếm nhƣ pơ mu, thông 2 lá dẹt, thông 5 lá… Kinh tế chính của Lâm Đồng vẫn là nông – lâm nghiệp với thế mạnh là rừng, cây công nghiệp, cây ăn quả… Năm 2000, Lâm Đồng có 230.762ha đất nông nghiệp, hình thành 4 vùng sản xuất nông nghiệp chuyên môn hoá. Vùng sản xuất cây lƣơng thực – thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày bao gồm Đức Trọng – Lâm Hà – Đơn Dƣơng, Bảo Lộc – Bảo Lâm – Di 1
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 Linh. Đây là vùng sản xuất đa dạng với nhiều chủng loại cây trồng: cà phê, chè, dâu tằm… Diện tích cà phê đạt hơn 100.000ha, Lầm Đồng cũng là tỉnh có diện tích chè lớn nhất cả nƣớc (tới hơn 20.000ha).Vùng rau và hoa Đà Lạt trồng các loại rau, hoa quả đặc sản có nguồn gốc á nhiệt đới và ôn đới nổi tiếng trên thị trƣờng nhƣ mận, đào, hồng, bắp cải, sà lách, su su, actisô… Tổng diện tích đất lâm nghiệpcủa tỉnh đạt 676.236ha và đƣợc chia làm ba loại: rừng phòng hộ: 249.473ha, rừng đặc dụng: 121.204ha, rừng sản xuất: 305.559ha. Những năm gần đây du lịch, dịch vụ đang trở thành lĩnh vực kinh tế mũ nhọn của địa phƣơng. Giao thông đƣợc đẩy mạnh với sân bay Liên Khƣơng, các tuyến quốc lộ 20, 27… nối Lâm Đồng với các tỉnh miền Trung và Đông Nam Bộ. Hoạt động du lịch tăng trƣởng rất nhanh. Năm 2004 đã có khoảng 1,35 triệu du khách trong và ngoài nƣớc đến Lâm Đồng (chủ yếu là Đà Lạt) với doanh thu hơn 1000 tỉ đồng. Du lịch, dịch vụ đã và đang làm đổi thay nhanh chóng diện mạo của nhiều vùng trong tỉnh. THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT Ai lên xứ hoa đào... Đà Lạt – thành phố cao nguyên, thành phố hoa… bằng nhiều tên gọi mĩ miều và lãng mạn, Đà Lạt trong tâm thức nhiều ngƣời là một vùng đất rộng lớn trên cao nguyên Lang Biang. Hơn 100 năm hình thành và phát triển Đà Lạt đã đƣợc rất nhiều ngƣời trong nƣớc và quốc tế biết tới, đã từng đƣợc mệnh danh là một tiểu Pa-ri, thủ phủ của Hoàng triều Cƣơng thổ, cao nguyên Trung Phần, một trong nhiều thành phố nghỉ mát miền núi lý tƣởng của Việt Nam. Đà Lạt xƣa kia là một vùng rừng núi hoang vu, với dòng suối Đạ Lạch (nay là suối Cam Ly) và tộc ngƣời Lạch sinh sống cách biệt với các vùng khác. Sau khi đƣợc bác sĩ Alexandre Yersin, ngƣời Pháp gốc Thụy Sĩ, phát hiện năm 1893, Đà Lạt mới đƣợc nhiều ngƣời biết đến và ý định xây dựng nơi đây thành một trung tâm nghỉ mát mới trở thành hiện thực. Qua nhiều biến đổi, Đà Lạt ngày nay là đô thị loại II, là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh Lâm Đồng. Đà Lạt có số dân là 162.675 ngƣời (năm 1999), ngƣời Kinh chiếm 97%, các dân tộc ít ngƣời chiếm 3,% với nhiều dân tộc của vùng Nam Tây Nguyên. Trong đó các dân tộc Mạ, K’Ho, M’Nông… là những ngƣời dân đầu tiên của mảnh đất này. Ngƣời Kinh ở Đà Lạt từ nhiều miền đất nƣớc về đây sinh sống lập nghiệp qua các thời kỳ, chủ yếu là ngƣời Hà Đông, Nghệ Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Nam - Ngãi - Bình - Phú, Ninh Thuận... Đây là một trong những yếu tố cơ bản hình thành phong cách đặc trƣng của ngƣời Đà Lạt. Đà Lạt có khí hậu trong lành và ôn hoà mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình hàng năm 0 18 C. Mùa đông hơi lạnh, mùa hè mát ẩm, lƣợng mƣa trung bình chỉ khoảng 1600-1800mm, độ ẩm cao trên 80% là những điều kiện rất lí tƣởng cho rừng thông ngút ngàn, những luống hoa, thảm cỏ, vƣờn rau xanh vô tận. Thời tiết ở Đà Lạt chuyển biến rất nhanh, sáng sớm khí trời lạnh lạnh, nhiệt độ còn thấp, nhiều sƣơng phủ mờ trên thung lũng hay mặt hồ. Trƣa đến, mặt trời lên cao, nóng ấm, giống thời tiết mùa hè. Vào buổi xế chiều, mặt trời Ðà Lạt lặn sớm vì nhiều đồi núi, gió se lạnh, ta có cảm giác nhƣ trời vào thu, sƣơng mù giăng giăng khắp nẻo đƣờng, rừng cây. Về đêm, nhiệt độ xuống thấp, nhất vào nửa đêm – trời lạnh ngắt, đó là mùa đông. Đà Lạt với những thắng cảnh tự nhiên và nhân tạo nổi tiếng nhƣ các hồ Xuân Hƣơng, Than Thở, Đa Thiện, Chiến Thắng, Tuyền Lâm…; các thác nƣớc: Cam Ly, Đatanla, Prenn, Hang Cọp, Đồi Cù; những khu vực dạo chơi nhƣ Thung lũng Tình yêu, rừng Ái ân, Công viên hoa… đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nƣớc. Nhiều dinh thự nguy nga tráng lệ kiến trúc theo kiểu Pháp: Dinh I, Dinh II, Dinh III (Dinh Bảo Đại), Dinh Nguyễn Hữu Hào… với những đƣờng nét kiến trúc độc đáo, đã tạo nên phong cách kiến trúc đặc trƣng của Đà Lạt. 2
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 Đà Lạt còn có nhiều chùa và nhà thờ với kiến trúc và địa thế đẹp nhƣ chùa Linh Sơn, Linh Phong, Linh Quang, Thiên Vƣơng Cổ Sát (chùa Tàu), Ngọc Thiền, Linh Phƣớc… Thiền viện Trúc Lâm nằm trên bờ hồ Tuyền Lâm mới đƣợc xây dựng; các nhà thờ: Chánh Tòa, Thánh Mẫu, Tùng Lâm là những công trình kiến trúc tôn giáo bổ sung vào vẻ đẹp phong phú về kiến trúc chung của Đà Lạt. Từ thời Pháp, kiến trúc Ðà Lạt đã mang nét nghệ thuật đặc sắc. Các công trình kiến trúc đƣợc xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XX, theo các phong cách châu Âu, chủ yếu là phong cách Pháp, nhƣ ga xe lửa, Trƣờng Ðại học, Nha Ðịa dƣ, các nhà thờ,... Hiện nay, ở Ðà Lạt có khoảng 2.000 biệt thự, mỗi biệt thự có những nét kiến trúc độc đáo riêng kết hợp hài hoà với cảnh quan thiên nhiên đã khiến cho Ðà Lạt nhƣ một thành phố bảo tàng kiến trúc đa dạng, du khách đến thăm đều muốn tìm tòi, khám phá. Về tên gọi địa danh Đà Lạt Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều giả thuyết về địa danh của thành phố này: Thuyết đầu tiên cho rằng ĐALAT là do tên ngƣời Pháp đặt, lấy 5 chữ cái đầu trong một câu châm ngôn chữ Latinh ghép lại "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem" - (Cho người này niềm vui, người kia sự mát dịu). Nhiều ngƣời biết Đà Lạt theo giả thuyết này, nhƣng chính viên công sứ đầu tiên của thành phố Đà Lạt - ông Cunhac- đã phủ nhận điều trên và xác nhận rằng ĐALAT là tên do ngƣời thiểu số đặt. Giả thuyết thứ hai cho rằng ĐALAT gốc tiếng Hán - Việt: ĐALAT (hoặc ĐALAC) Đa: nhiều; Lạc: bộ lạc, nƣớc suối, Lạc còn có nghĩa là niềm vui. Từ đó ngƣời ta hiểu Đa Lạt là nơi có nhiều bộ lạc quần tụ, nơi có nhiều suối hoặc Đa Lạt là nơi cho ta nhiều niềm vui, an bình. Giả thuyết này có cơ sở pháp lý từ năm 1956, năm Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh nhằm Hán - Việt hóa, văn chƣơng hóa các tên tỉnh thành thuần Nôm hoặc thuần sắc tộc (dân tộc ít ngƣời) và cuối năm 1958 Hội đồng dân biểu Thị xã Đà Lạt do Nguyễn Vỹ làm chủ tịch đặt tên lại cho những con đƣờng, hồ nƣớc Đà Lạt. Do đó mà Grand Lac (hồ Lớn) thành hồ Xuân Hƣơng, B'Lao thành Bảo Lộc, Lak thành Lạc Thiện… Giả thuyết thứ 3 về tên gọi Đà Lạt đã đƣợc nhiều ngƣời chấp nhận. Theo đó: Đà Lạt có gốc từ tiếng dân tộc ít ngƣời của Đà Lạt - Lâm Đồng. Trƣớc thế kỷ 19 vùng Đà Lạt có 3 tộc ngƣời chính sống gần nhau: Chil, K’Ho, Lát. Mỗi tộc ngƣời lấy một ngọn núi, một con suối (có khi chỉ một đoạn)... làm buôn làng, quê hƣơng, nƣớc của mình. Chữ viết "Đa" hoặc "Đà" cũng đều đọc là "Đạ" nghĩa là "nước", "con sông, dòng suối"; "Lạt" do âm Lát hoặc Lạch chỉ tên một tộc ngƣời thiểu số chỉ có tại cao nguyên Lâm Viên. Lát là rừng thƣa, địa danh mà tộc ngƣời này dùng để đặt tên, phân biệt với các tộc ngƣời khác. Nhƣ vậy, Đạ Lạt có nghĩa là con suối của ngƣời Lạch, hay là con nƣớc của ngƣời Lạch. VƯỜN QUỐC GIA CÁT TIÊN (CÁT LỘC) Cách thành phố Hồ Chí Minh 150km, theo quốc lộ 20, đến huyện Tân Phú (Đồng Nai), rẽ vào con đƣờng nhỏ khoảng 15km sẽ đến trung tâm vƣờn quốc gia Cát Tiên. Năm 1992, vƣờn đƣợc thành lập trên cơ sở rừng cấm Nam Cát Tiên. Diện tích rộng tới 73.878 ha (phần thuộc tỉnh Đồng Nai: 38.100ha, Lâm Đồng: 30.635ha và Bình Phƣớc: 5.143ha), vƣờn quốc gia Cát Tiên có đa dạng sinh học hết sức phong phú đặc trƣng cho kiểu rừng miền Đông Nam Bộ. Đây là nơi lƣu giữ các giá trị về văn hoá - lịch sử với di chỉ nền văn hoá Óc Eo, là căn cứ địa cách mạng trong đấu tranh chống Mỹ… Rừng cấm Cát Tiên góp phần bảo tồn các hệ sinh thái rừng, các vùng đất ngập nƣớc rất hiếm gặp ở Việt Nam, bảo tồn nguồn gen động thực vật rừng quý hiếm, bảo tồn quần thể tê giác một sừng, quần thể voi và các loài động vật quý hiếm khác, góp phần thực hiện nghiên cứu khoa học, tuyên truyền, giáo dục môi trƣờng. Ngoài ra, Cát Tiên với môi trƣờng trong lành, cảnh quan thiên nhiên thanh bình… là địa điểm hấp dẫn du khách trong và ngoài nƣớc, góp phần phát 3
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 triển du lịch sinh thái, với nhiều tuyến và điểm lí thú nhƣ: Quan sát chim, xem thú ban đêm, du thuyền trên sông Đồng Nai, du lịch mạo hiểm vv... Cát Tiên có nhiều sinh cảnh rừng khác nhau từ rừng thƣờng xanh nguyên sinh và thứ sinh trên đất thấp với các cây họ dầu ƣu thế, đến vùng đất ngập nƣớc với hồ và các trảng cỏ ngập nƣớc theo mùa... Vƣờn quốc gia Cát Tiên là trung tâm đa dạng sinh học lớn thứ 2 ở nƣớc ta sau rừng Cúc Phƣơng (Ninh Bình) với 1.300 loài thực vật bậc cao có mạch. Có tới 144 loài cây lấy gỗ, quí hiếm nhƣ cẩm lai, trắc... ; 80 loài cây làm thuốc; 53 loài cây làm cảnh, đặc sắc nhất là các loại phong lan, quế lan hƣơng, tam bảo sắc...; 15 loài cây cho dầu nhựa: chò trai, dầu lá bóng, dầu mít, sao đen… ; 31 loài cây ăn quả nhƣ: dâu da, xoan, trám…; 31 loài cây đặc sản nhƣ lồ ô, mun, nứa, song, mây.... Trong đó có 34 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam, nhiều loài đặc biệt quí hiếm nhƣ gõ đỏ, cẩm lai, dáng hƣơng... Động vật rừng Cát Tiên rất độc đáo. Có tới 77 loài thú, 318 loài chim và 58 loài bò sát, 28 loài lƣỡng cƣ, 130 loài cá. Nhiều loài động vật bò sát nhƣ trăn, rắn độc, kỳ đà, ba ba, cá sấu,... Cá sông và cá đầm lầy rất phong phú nhƣ: cá rô, cá lóc trắng… Cát Tiên có nhiều loài chim đặc hữu nhƣ gà so cổ hung, gà tiền mặt vàng, nhiều loài chim nƣớc rất hiếm nhƣ ngan cánh trắng, gà đẫy. Trong rừng có có nhiều khu vực trũng thấp thƣờng bị ngập nƣớc vào mùa mƣa (tới 2500ha), một số nơi ngập quanh năm tạo nên các bàu lớn nhƣ Bàu Sấu, Bàu Cá, Bàu Chim… Cát Tiên cũng là nơi trú ngụ của cá sấu nƣớc ngọt. Hiện nay, kế hoạch khôi phục và bảo tồn cá sấu này đã đạt đƣợc những kết quả rất khả quan… Một trong các đặc trƣng quan trọng của hệ động vật ở đây là sự có mặt của quần chủng tê giác Java cuối cùng ở Việt Nam và là quần chủng Tê giác thứ hai đƣợc phát hiện trên thế giới (sau vƣờn quốc gia Ujung Kulon – Inđônêxia). Theo nghiên cứu, hiện nay số cá thể Tê giác trong vƣờn chỉ còn khoảng 3-5 cá thể. Do đó, công tác bảo tồn và phát triển loài thú quí hiếm này cần đƣợc quan tâm đặc biệt. Khu vực vƣờn quốc gia Cát Tiên thuộc tỉnh Lâm Đồng chủ yếu tập trung ở huyện Đạ Hoai, là khu vực có đa dạng sinh học rất cao, có giá trị lớn trong nghiên cứu khoa học và phát triển kinh tế. VƯỜN QUỐC GIA BIDOUP – NÚI BÀ Nằm ở phía tây và tây bắc Đà Lạt, trải trên diện tích rộng tới 72.753 ha thuộc các huyện Lạc Dƣơng, Đàm Rông, Lâm Hà, với nhiều đỉnh núi cao nhất trƣờng Sơn Nam nhƣ Bi Đoup: 2.287m, Lang Biang (Núi Bà): 2.167m, Chƣ Yan Du: 2.040m… khu bảo tồn thiên nhiên Bi Doup - Núi Bà, đƣợc thành lập năm 1993, đến 2004 chính thức trở thành vƣờn quốc gia. Các nhà lâm học ở Viện Nghiên cứu lâm nghiệp Việt Nam đã khẳng định Bi Doup – Núi Bà là một mẫu rừng cổ nguyên sinh chuẩn nhất ở Tây Nguyên còn sót lại, nơi có thực vật đa dạng và đặc hữu ở mức cao, có tới 87 loài/827 loài thực vật đặc hữu cho vùng cao nguyên Trung Bộ, 70 loài quý hiếm đã bị tuyệt chủng nhƣng vẫn thấy sinh trƣởng ở đây nhƣ thông hai lá dẹt, dƣơng xỉ thân gỗ… Vƣờn quốc gia Bi Doup - Núi Bà còn là nơi quần tụ của 2/3 loài thông hiện diện ở Việt Nam, trong đó có thông 2 lá dẹt, thông 5 lá, thông tre và đặc biệt là loài thông đỏ chữa đƣợc bệnh ung thƣ. Nhiều loài thực vật đƣợc phát hiện lần đầu ở khu Bi Đoup - Núi Bà và mang tên Lang Biang hay Bi Đoup nhƣ Lan đenrô (Dendrobium langbianense), lan vanđa (Vanda bidupensis), chim họa mi Lang Biang (Crocias langbianis),... Hệ động, thực vật ở đây rất đa dạng, phong phú. Có hai kiểu rừng chính là rừng cây lá kim và rừng thƣờng xanh có diện tích 36.069 ha. Cây lá kim chiếm 21.019 ha, ƣu thế bởi các loài thông ba lá. Ngoài ra còn kiểu rừng thƣờng xanh lá rộng hỗn giao với rừng cây lá kim. Khu hệ động vật cũng rất đa dạng về thành phần loài và có tính đặc hữu cao. Hiện có 382 loài động vật có xƣơng sống ở trong khu bảo tồn, bao gồm 89 loài thú, 202 loài chim, 62 loài bò 4
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 sát và 29 loài ếch nhái. Một số loài đặc trƣng nhƣ báo gấm, chó sói đỏ bò tót... Nhiều loài linh trƣởng nhƣ vƣợn, khỉ, sóc bay đen trắng, voọc ngũ sắc... Ở Bi Đoup - Núi Bà cũng phát hiện nhiều cây dƣợc liệu có giá trị hàng hoá nhƣ: cẩu tích, đản sâm, củ cung, sa nhân, tô hạp, hƣơng nhu xạ, bạch linh, sâm Ngọc Linh,... Các nhà nghiên cứu động vật đã thống kê đƣợc nơi đây có 27 loài động vật quý hiếm, 9 loài chim đang có nguy cơ bị tuyệt chủng trên toàn cầu. NÚI LANG BIANG Núi Lang Biang thuộc xã Lát, huyện Lạc Dƣơng, cách Ðà Lạt 16km. Lang Biang nhƣ một tấm bình phong án ngữ phía bắc thành phố, hai đỉnh cao nhất của dãy núi đƣợc ví nhƣ “bộ ngực của Đông Dương”. Từ xa nhìn về Lang Biang trong những ngày đẹp trời, ngƣời ta có cảm giác dãy núi Lang Biang hùng vĩ nhƣ một ngƣời phụ nữ đang nằm với bộ ngực căng tràn sức sống. Ngay từ thời Pháp thuộc để bảo vệ cảnh quan nơi đây và không gian kiến trúc quanh Đà Lạt, ngƣời Pháp đã qui định tất cả các công trình xây dựng về phía bắc Đà Lạt không đƣợc xây quá cao, làm giảm tầm nhìn về Lang Biang. Có nhiều huyền thoại, truyền thuyết và tín ngƣỡng của đồng bào dân tộc gắn với tên núi. Lang Biang là tên gọi về sự tích của một tình yêu đẹp. Do phong tục và xung đột của hai bộ tộc ngƣời K’Ho ngăn cản, họ đành phải tìm đến chết để bảo vệ tình yêu. Cảm phục trƣớc tình cảm của họ, ngƣời dân của 2 bộ tộc đã lấy tên họ đặt cho đỉnh núi cao nhất kia là Lang – Biang, còn gọi là núi Ông và núi Bà (thƣờng gọi là Núi Bà - theo quan niệm mẫu hệ). Trên đỉnh Rađa – một trong những đỉnh cao nhất của ngọn núi, tƣợng chàng Lang và nàng Biang đƣợc tạc khá đẹp, nổi bật trên nền xanh của cây rừng và hoa cỏ Tây Nguyên. Cùng với Chƣ Ang Sin, Bidoup, Lang Biang là một trong 3 đỉnh núi cao nhất vùng Nam Trƣờng Sơn. Dãy Lang Biang sừng sững với nhiều đỉnh sắc nhọn nhô lên bầu trời. Núi Lang Biang có tạo bởi đá mác ma axit xâm nhập, đá rất cứng rắn, khó bào mòn. Quá trình “bình sơn nguyên hoá” cao nguyên Đà Lạt đã hình thành “bề mặt bán bình nguyên cổ Đà Lạt”. Lang Biang nhƣ một khối núi sót của vùng, núi kéo dài theo hƣớng đông bắc - tây nam hơn 7km, là một quần thể 5 ngọn núi nối tiếp nhau. Đỉnh cao nhất nằm ở phía đông bắc, cao 2167m; kề đó là 2 đỉnh nhọn cao 2130m và 2070m. Phía tây nam có đỉnh Rađa chỉ cao 1914m, giữa dãy núi là đỉnh cao 1988m. Đứng trên đỉnh cao nhất có thể nhìn bao quát toàn cảnh thành phố Ðà Lạt, vào ngày đẹp trời, qua kính viễn vọng có thể thấy biển Ninh Chữ (Ninh Thuận) cách xa hàng trăm cây số. Vùng núi Lang Biang có kiểu khí hậu cận nhiệt đới trên núi. Nhiệt độ trung bình tháng luôn thấp hơn 180C, càng lên cao nhiệt độ càng giảm mạnh. Trời nắng vào giữa trƣa nhƣng trên đỉnh núi cũng chỉ khoảng 200C. Vùng này nhiều mƣa, những tháng đầu mùa thƣờng mƣa rào, mƣa dông vào buổi trƣa hoặc chiều. Độ ẩm không khí trong vùng rất cao, trên 90%. Khu vực núi cao hơn 2000m thƣờng xuyên có mây mù bao phủ vào các tháng mùa lạnh. Rừng cận nhiệt trên độ cao 1850m – Lang Biang Dƣới chân núi, có những buôn làng ngƣời Lạch sinh sống với những nét văn hoá đặc thù hấp dẫn, đây còn là địa điểm diễn ra lễ hội tƣng thành phố Đà Lạt 100 năm và 110 năm nên gọi là “Thung lũng trăm năm”. Lang Biang là một khu du lịch núi, đặc thù là du lịch dã ngoại, khám phá thiên nhiên, khám 5
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 phá văn hóa. Thung lũng trăm năm có thể đáp ứng nhu cầu cắm trại, sinh hoạt lửa trại đêm cho hàng ngàn du khách. Khách du lịch sẽ đƣợc ngủ trong lều trại, dự lễ hội cồng chiêng của ngƣời K’Ho Cil, K’Ho Lạch. Lang Biang đặc trƣng cho vùng núi và cao nguyên cao, có nhiều động thực vật nhiệt đới cũng nhƣ cận nhiệt với nhiều loài sinh vật đặc hữu. Đây là điểm rất thích hợp để phát triển du lịch leo núi, du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu… Núi Lang Biang là một trong những cảnh quan độc đáo của tỉnh Lâm Đồng. Rừng Lang Biang rất phong phú về lan với các loài lan rừng ngát hƣơng thơm nhƣ hồng lan, bạch hồng, hồng lan xuân – loài lan đặc hữu của vùng. Sự phân tầng của thảm rừng trên núi Lang Biang vô cùng độc đáo. Từ độ cao 1500m đến 1800m là thảm rừng thông 3 lá thuần loại, cây to, cao vút tới 30m, nhiều cây hàng trăm năm tuổi đan xen giữa những rừng thông tái sinh. Từ 1800- 2100m là rừng hỗn giao rộng, lá kim á nhiệt đới với các loài tiêu biểu nhƣ thông, dẻ, re, đỗ quyên, hồi núi… Ở đây còn có đỗ quyên Lang Biang, hoa to, sắc thắm, nở hàng tháng trời mà vẫn không phai màu. Trên đỉnh núi Bà chỉ có trúc lùn, cỏ tranh tạo thành một thảm cỏ đặc thù duy nhất ở Lâm Đồng. Những khu vực ẩm hơn, ngay từ độ cao 1600m thảm thực vật rừng kín thƣờng xanh trên núi đã phát triển mạnh, tạo thành thảm rừng rất giàu có, nhiều lại cây cao, to 2-3 ngƣời ôm mới xuể. Leo núi Lang Biang là một cuộc chinh phục cái đẹp và ý chí con ngƣời. Sƣờn núi khá dốc, nhất là lên đến độ cao trung bình 1800m, từ đây đến 2 đỉnh cao nhất của núi, độ dốc tăng đột ngột, có đoạn dốc đến 50-600. Chinh phục đỉnh cao nhất Lang Biang, nếu leo liên tục cũng phải mất khoảng 4 - 5 giờ đi bộ. Càng lên cao không khí càng lạnh dần. Núi dốc, leo nhanh dễ gây cảm giác ngộp thở cho ngƣời leo núi. Trƣớc đây, ngƣời Pháp đã làm đƣờng mòn lên núi nhƣng qua năm tháng con đƣờng đã hầu nhƣ không còn. Nếu đủ sức khỏe và ý thích khám phá thiên nhiên bạn nên đi bộ, cắt rừng luồn cây nhƣ những ngƣời thổ dân. Con đƣờng rừng nhỏ bé, rải đầy lá mục, những đoạn dốc cao trơn trƣợt, mây mù bất chợt che kín tất cả… dễ khiến ngƣời ta nản lòng. 5 cây số luồn rừng già là cả một quãng đƣờng gian nan, nhƣng bù lại bạn sẽ là ngƣời may mắn đƣợc biết đến “rừng sƣơng mù” với các loài cây khẳng khiu, vặn vẹo vì gió mạnh, vì rét, các loài rêu, phong lan, dây leo chằng chịt bám đầy thân cây. Hơn thế nữa, lên đến đỉnh cao nhất, hiện lên khung cảnh rất ngoạn mục và nên thơ. Nhìn về phía nam, Đà Lạt hiện ra thật xinh xắn với nhà cửa, đồi núi xen lẫn nhấp nhô; phía tây là những dãy đồi thấp trùng điệp nhấp nhô đến cuối chân trời. Đỉnh núi Bà rất hẹp, chỉ khoảng 100m2, xung quanh là sƣờn núi dốc đứng cho ngƣời ta cảm giác rờn rợn khi nhìn thẳng xuống. Leo núi Lang Biang Nếu không phải là một nhà leo núi nghiệp dƣ, theo xe U oát bạn sẽ đƣợc chở thẳng lên đỉnh núi Rađa để tận hƣởng những giây phút giao hòa cùng thiên nhiên. Lên xuống bằng xe U oát, sẽ có cảm giác nhƣ mình đang du khảo ở tận đâu đó trên dãy núi Trƣờng Sơn với những đèo dốc hiểm trở. Trên đỉnh Ra đa những đám mây mù lơ lửng trên đầu tƣởng nhƣ đã rất gần với trời xanh. Ngay dƣới chân núi, những đồi cỏ, rừng thông xanh trùng điệp, hồ Suối Vàng Suối bạc rộng mênh mông, những dòng suối uốn cong chảy vào hồ lớn nhƣ những dải lụa đào. Từ đỉnh Rađa này, với các kính viễn vọng, bạn thỏa sức kiếm tìm những điều bí mật của thiên nhiên. 6
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 NGƢỜI K’HO Ở XÃ LÁT Cao nguyên Lang Biang thuộc xã Lát, huyện Lạc Dƣơng - nơi sinh sống của dân tộc K’Ho. Ngƣời K’Ho có nét văn hóa rất riêng. Một gia đình của ngƣời K’ho gồm nhiều thế hệ sống chung trong một ngôi nhà. Nhà của ngƣời K’Ho không phải nhà rông mà là nhà dài gồm nhiều gian, trong đó mỗi gian là một gia đình sinh sống. Ngƣời K’Ho hiện nay vẫn theo chế độ mẫu hệ, vì thế tập tục tìm hiểu, yêu đƣơng, cƣới hỏi của họ cũng rất khác biệt: ngƣời con trai không phải đi tìm hiểu mà chờ ngƣời con gái đến dạm hỏi. Con gái muốn lấy chồng phải đi “bắt” chồng, phải có lễ vật là một hoặc hai con trâu đem đến ra mắt nhà trai. Họ phải cƣới ngƣời trong dòng tộc để giữ huyết thống. Con trai phải ở rể, nếu chẳng may vợ mất sớm, anh ta sẽ kết hôn với em hoặc cháu gái gái nhà vợ. Bản sắc văn hóa của dân tộc K’Ho thể hiện đậm nét qua phong tục thách cƣới, truyện kể, thơ ca dân gian...; đặc biệt qua các vũ điệu cồng chiêng, các nhạc cụ khèn tre, kèn đá và bầu rƣợu cần. Đối với ngƣời K’ho, bình rƣợu cần rất quan trọng, từ lễ hội, cƣới hỏi, đặt tên cho em bé hay phạt một ai đó đều phải có bình rƣợu cần và vài xâu thịt nƣớng. Rƣợu cần của ngƣời K’Ho có mùi vị rất đặc sắc, đƣợc làm từ gạo đỏ hoặc gạo nếp trộn với một ít vỏ cây, lá cây hoặc rễ cây cho ra những mùi vị khác nhau. Xã Lát hiện nay đã đổi khác nhiều, những nhà dài truyền thống đã thay thế dần bởi nhà xây, ngói đỏ, đƣờng làng đƣợc nâng cấp và trải nhựa, trình độ dân trí, y tế, văn hóa của bà con ngƣời K’Ho đƣợc nâng cao, họ đã có điện và nƣớc sạch để dùng. Ngƣời K’Ho ở xã Lát có sự cảm nhận đặc biệt về âm nhạc. Đã có nhiều ngƣời con của xã Lát đoạt giải cao trong các cuộc thi âm nhạc cấp quốc gia nhƣ Bonneur Trinh, giải nhất cuộc thi Tiếng hát truyền hình năm 2002 và gần đây nhất là Cil Pơy và Krafan Ut, hai trong mƣời lăm thí sinh lọt vào vòng chung kết giải Sao Mai 2003. HỒ XUÂN HƢƠNG Liễu rủ, chiều im tím mặt hồ… Nằm ở vị trí trung tâm Ðà Lạt, đƣợc xem là một “điểm nhấn” của thành phố, hồ Xuân Hƣơng là một trong những hồ nằm trên cao bậc nhất nƣớc ta (khoảng 1500m so với mặt biển). Hồ rộng 38ha, vòng quanh hồ phải mất gần 5 cây số. Tây nam hồ là Đồi Cù - sân gôn 18 lổ với những đồi cỏ xanh ngọc bích trải dài, phía đông là sân vận động, công viên văn hóa trung tâm, khách sạn Palace, nhà hàng Thủy Tạ… những biệt thự, rừng thông bao quanh nhƣ tô điểm thêm cho cảnh đẹp của hồ. Mùa nắng, nƣớc hồ thƣờng xanh biếc, nhƣng ngày mƣa lớn, nƣớc đỏ ngầu. Quanh hồ Xuân Hƣơng thƣờng diễn ra các hoạt động văn hóa nổi bật của Đà Lạt, đây còn là đƣờng đua xe đạp tranh cúp truyền hình hàng năm của cả nƣớc. Chiều chiều những xe đạp nƣớc đem theo các cặp tình nhân tung tăng khắp mặt hồ. Mỗi khi tết đến, những cây Mai anh đào ven hồ lại có dịp khoe sắc thắm đón xuân. Hồ Xuân Hương và Đồi Cù Hồ Xuân Hƣơng ngày trƣớc là một dòng suối nhỏ, năm 1919 kỹ sƣ công chánh Labbé cho xây đập từ Thuỷ Tạ đến quán Hƣớng đạo cũ, năm 1923 xây thêm đập phía dƣới tạo thành 2 hồ. Từ năm 1934 -1935 kỹ sƣ Trần Ðăng Khoa cho xây một đập lớn bằng đá gọi là cầu Ông Ðạo nối liền 2 hồ. Ngƣời Pháp đặt tên hồ này là Grand Lac (Hồ Lớn). Năm 1953, ông Nguyễn Vỹ - Chủ tịch Hội đồng Thị chính Ðà Lạt đổi tên hồ thành hồ Xuân Hƣơng, hồ mang tên nữ sĩ của tình yêu, bà chúa 7
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 thơ Nôm của Việt Nam từ đấy. Trải qua nhiều lần chỉnh trang, tu sửa vào các năm 1984, 1998 và năm 2000, hồ Xuân Hƣơng ngày càng đẹp hơn. Hồ nƣớc đã tăng vẻ duyên dáng, yêu kiều cho Đà Lạt. Tuy vậy, những năm gần đây, do hiện tƣợng bồi lắng đã làm mất đi khoảng 5 ha mặt hồ. Vào mùa khô, mực hồ xuống thấp cộng với nƣớc thải sinh hoạt, công nghiệp và du lịch đã khiến cho một số loài tảo độc phát triển nhanh khiến nƣớc hồ trở nên xanh lạ thƣờng, nhiều loài thủy sinh chết nổi trong hồ. Nếu không có hồ nƣớc, Đà Lạt sẽ trở nên đơn điệu với những ngọn đồi rừng thông. Bởi vậy công việc lọc nƣớc, chống bồi lấp, xói lở cho hồ Xuân Hƣơng, trồng thêm nhiều cây xanh quanh hồ là những biện pháp mà thành phố Đà Lạt nên làm. HỒ TUYỀN LÂM Nằm cách trung tâm thành phố Ðà Lạt khoảng 5km về phía nam, dƣới chân ngọn Pinhatt, Tuyền Lâm là hồ nƣớc lớn nhất thành phố Đà Lạt, hồ có diện tích khoảng 320ha, nơi sâu nhất tới 30m. Quanh hồ là những đồi thông trùng điệp, xƣa kia nơi đây là khu săn bắn của vua Bảo Ðại. Trên đỉnh đồi, phía bắc hồ là Thiền viện Trúc Lâm, một công trình kiến trúc uy nghi của Phật giáo mới đƣợc xây dựng từ năm 1992. Hồ Tuyền Lâm đƣợc xây dựng để cung cấp nƣớc tƣới cho khu vực Ðịnh An, điều tiết nƣớc suối Ða Trea (Suối Tía) và hệ thống thuỷ lợi Quảng Hiệp - Ðức Trọng. Từ năm 1982 đến năm 1987, ngƣời ta xây mọt con đập dài tới 235m, cao khoảng 40m ngăn giữa 2 mỏm đồi tạo nên hồ nƣớc lớn gọi là hồ Quang Trung, về sau đổi tên là hồ Tuyền Lâm. Khu vực hồ Tuyền Lâm có cấu trúc địa hình khá đa dạng và độc đáo với núi đồi, hồ rộng, khe sâu, thác nƣớc… tạo nên sức quyến rũ riêng của một khu vực nghỉ dƣỡng ở ngoại vi thành phố Đà Lạt. Nét đặc biệt của địa hình khu vực là độ cao tuyệt đối ở đây chỉ xấp xỉ 1.500m so với mặt biển. Mực nƣớc ở hồ cũng chỉ cao xấp xỉ 1.380m. Từ đó tạo nên những đồi thấp bao quanh rất thuận lợi cho việc hình thành các khu du lịch nghỉ dƣỡng quanh hồ. Phần ngoại vi là các đỉnh núi cao trên 1.500m nhƣ núi Voi, núi Pinhatt tạo thành một bức tƣờng núi phía sau vây quanh khu vực, trên đó là quần thể rừng lá rộng, khác biệt với rừng lá kim ở phần bao quanh hồ. Đặc điểm này thuận lợi cho bố trí các kiến trúc cao tầng xung quanh hồ mà vẫn hài hoà với khung cảnh xung quanh. Càng vào bên trong hồ càng tỏa rộng với nhiều nhánh chạy dọc theo các thung lũng trƣớc đây. Phía dƣới hồ là thác Đatanla – một trong những thác nƣớc hùng vĩ nhất ở Đà Lạt. Du khách có thể sử dụng ca-nô để du ngoạn trên mặt hồ và ghé thăm nhiều điểm du lịch hấp dẫn ven hồ nhƣ thác Bảo Ðại, Ðá Tiên, khu du lịch Phƣơng Nam, Nam Qua, đi săn bắn và viếng cảnh chùa. Thông thƣờng, đi ca nô phải mất 40 phút mới đến những địa điểm trên để có một chuyến dã ngoại sống với thiên nhiên Đà Lạt. Vùng hồ Tuyền Lâm đã và đang đƣợc đầu tƣ phát triển nhằm biến nơi đây thành một khu du lịch vui chơi, giải trí tổng hợp có sức hấp dẫn lớn trong và ngoài nƣớc. HỒ ÐAN KIA – SUỐI VÀNG Nằm cách trung tâm thành phố Ðà Lạt khoảng 12km về phía tây bắc, giữa một vùng rừng núi bao la hùng vĩ dƣới chân ngọn Lang Biang, hồ Ðan Kia - Suối Vàng gồm 2 hồ: hồ lớn có tên là Ðan Kia, nằm trên cao với diện tích khoảng 250ha và một hồ nhỏ thấp hơn nằm về phía nam rộng khoảng 50ha có tên là Suối Vàng. Hai hồ này đƣợc tạo bởi 2 đập chắn sông Ða Dâng, phát nguyên từ dãy Lang Biang. Hồ rộng và sâu, chứa tới 21 triệu m3 nƣớc, Ðan Kia- Suối Vàng cung cấp nƣớc sinh hoạt cho nhân dân thành phố Ðà Lạt và cấp nƣớc cho nhà máy thuỷ điện Ăngkroét. Phía dƣới hồ là thác Ăngkroét (thác bảy tầng), mùa mƣa thác nƣớc ào ạt đổ xuống những ngƣỡng đá phiến đen sẫm lóng lánh vẩy mica. Là một điểm tham quan du lịch nổi tiếng của Đà Lạt, hồ Đankia - Suối Vàng trông nhƣ một thiếu nữ vừa bƣớc vào tuổi thanh xuân nằm phơi mình bên những đồi thông xanh biếc chập chùng. Nơi đây, năm 1893 bác sĩ A. Yersin đã từng ngây ngất trƣớc vẻ đẹp thiên nhiên của núi non hùng vĩ trên cao nguyên Lang Biang và từ đó đã khai sinh lý tƣởng thiết lập một trạm nghỉ dƣỡng trên 8
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 cao nguyên tại nơi này. Tuy nhiên, sau đó Ðà Lạt đƣợc chọn vì có nhiều ƣu thế hơn, bởi Đà Lạt rộng, thoáng và ít ẩm ƣớt so với Đankia. Cảnh quan vùng hồ và không gian bao quanh rất đẹp, với nhiều rừng thông, đồi cỏ mênh mông. Hồ Đan kia Những năm đầu của thế kỷ XXI, các nhà đầu tƣ Nhật Bản đã đề nghị với Nhà nƣớc Việt Nam cho thành lập một thành phố du lịch quốc tế tại vùng đất Ðan Kia - Suối Vàng. Với ý tƣởng của dự án là xây dựng Đankia trở thành một thành phố xanh và sạch, thành phố nghỉ dƣỡng của thế kỷ 21. Khu đất dành cho dự án khu giải trí Đà Lạt - Đankia chiếm một diện tích khoảng 5000 ha, bao quanh hai hồ nƣớc rộng khoảng 300 ha, nằm trong một rừng thông có núi non xanh bao quanh và ở độ cao từ 1400 m đến 2167 m so với mặt biển. Tại đây sẽ xây dựng khoảng 30 nghìn ngôi biệt thự xinh xắn cho mục đích nghỉ ngơi, giải trí. Trong vành đai của khu phát triển, có những ngôi làng của ngƣời thiểu số. Những cƣ dân này và những nét kiến trúc cổ truyền của họ sẽ góp thêm vào đặc điểm của vùng. Khía cạnh độc đáo nhất của vùng này là cảnh rừng thông và khung cảnh chung quanh. Rừng thông nơi này khác hẳn với rừng rậm ở các vùng khác tại Việt nam và Đông nam Á. Rừng không dày lắm, với lớp cây cỏ trên mặt đất không nhiều, có thể đi bộ hay leo núi trong rừng. Không khí trong sạch, môi trƣờng không bị ô nhiễm, quanh năm mát mẻ, tuy nằm ở trên cao nhƣng sƣờn núi thoai thoải xuống ven bờ hồ nên nơi đây là điểm lí tƣởng cho du lịch sinh thái. Sắp tới với việc xây dựng tuyến cáp treo từ đỉnh núi Lang Biang xuống hồ Đankia sẽ tạo nên cú hích cho việc khai phá vùng này. HỒ THAN THỞ Khởi thủy chỉ là một hồ nhỏ, về sau ngƣời Pháp cho ngăn đập nƣớc tạo thành hồ và đặt tên là Lac des Soupirs. Sau năm 1975, có thời gian Than Thở thành Sƣơng Mai. Nhƣng trong lòng ngƣời Đà Lạt và du khách, khi nhắc đến cảnh đẹp Đà Lạt ngƣời ta vẫn dùng Than Thở chứ không dùng Sƣơng Mai. Hồ cách trung tâm Đà Lạt khoảng 6 cây số, trên đƣờng đi Thái Phiên hoặc Chi Lăng. Xuống bến xe Chi Lăng rẽ sang tay phải vào một con đƣờng nhỏ nằm gần rừng thông, đi khoảng 1 cây số là đến hồ. Nằm giữa rừng thông tĩnh mịch, không gian hoang vắng tạo cho hồ một nét buồn man mác, gần đấy có Ðồi thông hai mộ với một truyền thuyết về một mối tình tan vỡ đã làm cho địa danh này càng thêm sức lôi cuốn. Cảnh vật quanh hồ thật im vắng, mặt hồ phẳng lặng. Con đƣờng đất nhỏ hẹp quanh hồ mất hút xa xa. Đã có bao nhiêu truyền thuyết, tình sử về tên gọi của hồ, chỉ biết: Hồn thiêng em hãy đợi chờ Mặt hồ Than Thở bây giờ là đây. Là một hồ nhân tạo, với mục đích là trữ nƣớc cho sản xuất, những năm gần đây, do rừng bị tàn phá nhanh chóng, đất đai quanh vùng bị xói lở mạnh đã bồi đắp lòng hồ khiến hồ Than Thở ngày cạng cạn dần. Vào mùa khô hồ chỉ còn là một vũng nƣớc nhỏ. Mặc dù đã đƣợc cải tạo nhiều lần nhƣng mặt hồ đang thu hẹp nhanh chóng, hồ đang “than thở” cho thân phận mình trƣớc sự khai thác bừa bãi, tàn phá cảnh quan sinh thái của con ngƣời. 9
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 THUNG LŨNG TÌNH YÊU Cách Đà Lạt hơn 5 cây số theo hƣớng Bắc qua ngã 5 Đại học, theo trục đƣờng Đinh Tiên Hoàng - Phù Đổng Thiên Vƣơng hoặc Bùi Thị Xuân là Thung lũng tình yêu - điểm du lịch nổi tiếng của Đà Lạt. Nguyên trƣớc đây là một thung lũng lớn, Thung lũng tình yêu, có cảnh quan đẹp, ngay từ thời Pháp nơi đây đã đƣợc biết dƣới cái tên Vallê D’Amour. Năm 1953, theo chủ trƣơng của hội đồng thị xã Đà Lạt, ngƣời ta đã Việt hóa thành tên gọi “Thung lũng tình yêu”. Năm 1972, ngƣời ta cho xây dựng một đập ngăn nƣớc tạo nên một hồ chứa nƣớc dùng cho sản xuất nông nghiệp ở khu vực Đa Thiện (nay là phƣờng 8, Đà Lạt) nên mới có tên là hồ Đa Thiện. Có giả thuyết cho rằng, tên Thung lũng tình yêu bởi nơi đây gần Viện đại học (nay là Đại học Đà Lạt) là nơi sinh viên hay hẹn hò vào cuối tuần nên đã đƣợc sinh viên gọi là Thung lũng tình yêu. Giả thuyết khác cho rằng có thể do đỉnh núi Lang Biang án ngữ phía xa làm linh hồn cho phong cảnh hữu tình ở đây nên ngƣời ta đã gọi nó là Thung lũng tình yêu Ƣu điểm của thắng cảnh này là có nhiều đồi thông đẹp, thoai thoải, hợp cho những cuộc picnic vào ngày nghỉ, ngày lễ, vừa thích hợp cho đi bộ dã ngoại, vừa thích hợp cho việc cƣỡi ngựa dạo quanh khuôn viên khu du lịch. Với diện tích 242 ha, mặt hồ rộng 13 ha, kéo dài theo các sƣờn đồi, quanh co uốn lƣợn. Quanh hồ có đồi cao nhƣ đồi Mộng Mơ, Vọng Cảnh - từ đây vừa có thể ngắm nhìn đỉnh núi Lang Biang huyền thoại vừa ngắm toàn cảnh hồ. Trên đồi Địa Đàng có tƣợng Ađam và Eva, có trái táo cấm, những cây nấm khổng lồ, bầy nai đang nhởn nhơ gặm cỏ… Qua bàn tay tôn tạo và sắp đặt của con ngƣời, cảnh vật tự nhiên hòa quyện vào cảnh quan nhân tạo khiến nơi này vừa nhƣ thực, nhƣ mơ. Năm 1999, Thung lũng Tình yêu đƣợc công nhận là một danh thắng quốc gia. Cũng trong năm này, một dự án đầu tƣ đã đƣợc phê duyệt góp phần phát triển hơn nữa khu du lịch với nhiều sản phẩm mang chủ đề tình yêu, phục vụ du khách tham quan. Dự kiến sẽ xây dựng một tuyến cáp treo trên đỉnh các đồi cao từ tây bắc kéo xuống đông nam, tạo nên một tuyến tham quan đẹp trên cao, không chỉ nhìn thấy hồ Đa Thiện, Thung lũng Tình yêu mà còn có thể nhìn thấy các thung lũng khác ở phía Tây. Thung lũng Tình yêu, phía xa là 2 đỉnh Lang Biang Nhiều cảnh đẹp và huyền thoại khiến du khách không thể không đến đây khi thăm Ðà Lạt, Thung lũng tình yêu sẽ là khu du lịch sinh thái độc đáo của thành phố hoa. THÁC PRENN Lâm Đồng là địa phƣơng có rất nhiều thác nổi tiếng. Đà Lạt có thác Prenn, thác Đatanla, thác Cam ly…, thác Liên Khƣơng, Pongour ở Đức Trọng, thác Đămbri ở Bảo Lộc, thác Voi ở Lâm Hà… mỗi thác đẹp riêng mỗi vẻ, bổ sung nhau tạo thành những thắng cảnh nổi tiếng của vùng núi nam Tây Nguyên này. Là một tỉnh miền núi, có sự phân bậc địa hình mạnh mẽ với các cao nguyên xếp tầng đồ sộ nhƣ cao nguyên Di Linh – Đức Trọng cao khoảng 800-1000m, cao nguyên Đà Lạt cao 1500m. Lâm Đồng là nơi khởi nguồn của nhiều hệ thống lớn nhƣ sông Đa Dung, Sông La Ngà 10
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 (thƣợng nguồn sông Đồng Nai)… Chính sự chia cắt, phân bậc mạnh mẽ của các yếu tố địa chất kiến tạo và địa hình đã hình thành nên quần thể thác nƣớc đa dạng và độc đáo của Lâm Đồng. Nằm ở chân đèo Prenn trên đƣờng từ thành phố Hồ Chí Minh đến Đà Lạt, cách trung tâm Đà Lạt khoảng 10km là thác Prenn, một trong nhiều thác đẹp nhất cao nguyên Lâm Viên. Thác Prenn Thác Prenn cao khoảng 16m, mùa mƣa nƣớc đổ ào ào nhƣng mùa khô thác rất ít nƣớc. Thác đƣợc hình thành trong khu vực chuyển tiếp giữa cao nguyên Đà Lạt và cao nguyên Di Linh – Đức Trọng. Thành thác là những tảng đá lớn, vững chắc nên tốc độ phá huỷ của dòng nƣớc rất chậm chạp, qua bao năm tháng mới tạo nên một vòm đá khổng lồ. Trên nền đá bazan màu đen huyền lóng lánh những vảy mi ca vàng, dòng suối nhỏ đã đào thành hàm ếch rất độc đáo. Nƣớc từ trên cao đổ xuống nhƣ một bức màn kết bằng ngọc lóng lánh nên ngƣời ta còn gọi là thác Thiên Sa (những giọt châu sa từ trên trời rơi xuống). Bên dƣới vòm đá là chiếc cầu gỗ bắc qua, đi trên cầu nhìn qua màn nƣớc trắng xóa đổ ào ạt bên ngoài không khỏi khiến ta liên tƣởng đến “Thủy Liêm động” hay “Hoa Quả sơn” trong truyện của ngƣời xƣa. Với cảnh quan tự nhiên cùng với công viên hoa, cây cảnh đƣợc tạo ra ở đây, thác Prenn từ lâu đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng của Ðà Lạt. Theo gốc Chăm, Prenn có nghĩa là ranh giới, vùng xâm chiếm. Nhiều thế kỷ trƣớc, ngƣời Chăm ở Ninh Thuận luôn có những cuộc giao tranh dai dẳng với các bộ tộc ít ngƣời ở Lâm Đồng. Prenn là ranh giới giao tranh và phân định ranh giới (từ Prenn trở xuống Đơn Dƣơng, Phan Rang là của ngƣời Chăm và từ Prenn trở lên là của ngƣời K’Ho, Mạ. Hiện nay, nhiều làng ở vùng Đơn Dƣơng vẫn còn mang ảnh hƣởng Chăm. Từ năm 1968 đến nay, Prenn đƣợc cơ quan chủ quản là công ty du lịch Lâm Đồng, nay là công ty du lịch Đà Lạt đầu tƣ mạnh. Trong khuôn viên thác có cầu treo dân tộc, có hồ nuôi cá sấu, thú rừng, có vƣờn hoa. Gần đây với việc xây dựng một tuyến cáp treo nhỏ giúp cho việc lên xuống thác thuận tiện hơn. Nằm ngay ở cửa ngõ thành phố, thác Prenn là điểm du lịch hấp dẫn của Lâm Đồng. THÁC ÐAMB’RI Nằm cách thị xã Bảo Lộc khoảng 17km về phía tây, thác ÐamB’ri là một thắng cảnh nổi tiếng của vùng. Con đƣờng nhựa đi vào thác uốn lƣợn qua những nƣơng dâu nối tiếp đồi chè của cƣ dân cao nguyên Bảo Lộc. Năm 1992, Tổng Công ty Dâu tằm tơ đầu tƣ xây dựng đƣờng sá, biến nơi đây thành điểm du lịch tham quan và sinh thái lớn của Lâm Ðồng. Du khách khi đến thăm Ðà Lạt đều ghé vào chiêm ngƣỡng thác ĐamB'ri hùng vĩ, thăm đảo khỉ, làng dân tộc, dạo chơi trong rừng nguyên sinh, bình quân mỗi năm nơi đây đón trên 200.000 du khách. ÐamB’ri là thác cao nhất ở Lâm Ðồng với độ cao khoảng 60m, rộng tới 30m nằm giữa khung cảnh rừng nguyên sinh hoang sơ, hùng vĩ. Tại đây, hiện còn những cây cổ thụ cao 50-60m, chu vi gốc 12m, nhiều loại động, thực vật quý hiếm đang đƣợc bảo tồn. Ở chân thác, mỗi khi nắng lên, cầu vồng 7 sắc lại xuất hiện ôm lấy dòng thác chảy ầm ầm. Trong khu vực rừng thiêng rộng hơn 2.000 ha có cả một quần thể thác, tiêu biểu nhƣ thác Đạsara, Đạ Tồn… Bên cạnh thác 11
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 ÐamB’ri là buôn Đăng Đừng và những buôn làng của ngƣời Mạ với những ngôi nhà dài truyền thống có tự bao đời. Cách thác về phía Tây là một đồi cỏ tự nhiên rộng khoảng 10 ha, cỏ ngọt vàng óng xen lẫn những đồi sim tím mênh mông… Thác ĐamB’ri Ngay khu vực trung tâm thác là cả một thế giới động, thực vật phong phú và đa dạng. Những chú voi sẵn sàng trƣớc cổng thác chở du khách vào thăm làng dân tộc, uống rƣợu cần xem biểu diễn cồng chiêng. Một khu vƣờn sƣu tầm các loài lan rừng với trên 300 loại khác nhau, sẽ đƣợc đƣa ra cấy trên cây tự nhiên. Hiện Công ty Du lịch thác ĐamB'ri đã cấy đƣợc 1 ha. Khu vực nuôi thú, với nhiều loại quý hiếm nhƣ: Hổ, gấu, công, báo, mèo rừng, gà sao… đƣợc chăm sóc bài bản. Đặc biệt là việc xây dựng một vƣờn thú tự nhiên với "đảo khỉ" hơn 200 con, 30 con hƣơu sao, nai rừng, 10 con cá sấu… Cảnh lũ khỉ đùa giỡn với du khách, những chú hƣu, nai hiền lành để cho du khách vuốt ve ngay giữa rừng hoang tạo cảm giác gần gũi giữa con ngƣời và thiên nhiên. Một ĐamB'ri đầy hấp dẫn và quyến rũ với những ngôi nhà bằng gỗ nhỏ xinh bên thác nƣớc hùng vĩ. THÁC ÐATANLA Đatanla do các từ K’Ho ghép lại: Đà - Tàm - N'ha (nƣớc dƣới lá). Dòng suối này liên hệ đến lịch sử Đà Lạt, đến cuộc chiến tranh Chàm - Lạc, Chil. Nhờ có nƣớc, ngƣời Lạt đã "trụ" đƣợc Prenn, giữ đƣợc Đà Lạt trong khi ngƣời Chăm không biết "dƣới lá có nƣớc" nên đành phải rút sau một thời gian vây đánh ngƣời Lạt tại Prenn. Thác nằm ở khu vực đèo Prenn, cách Ðà Lạt 5km. Theo truyền thuyết, ngày xƣa các tiên nữ thƣờng xuống tắm và đến hong tóc trên những tảng đá quanh thác nên dòng suối gọi là suối Tiên. Thác rất hùng vĩ, nƣớc từ độ cao 32m tuôn xuống các ghềnh đá tung bọt trắng xoá, cảnh quan thiên nhiên quanh thác hoang dã, đầy bí ẩn, chân thác là vực Tử Thần huyền bí. Đây thực ra là một khe đá rất hẹp, dòng nƣớc tuôn chảy ngày đêm đã xuyên cắt đá tạo nên một hẽm vực sâu hun hút tới 40m, chiều ngang chỉ rộng vài mét. Nƣớc đổ ầm ầm, tung bọt trắng xóa bên dƣới, rêu xanh bám đầy gờ đá rất dễ trơn trƣợt nên còn gọi là vực Tử Thần. Vài năm gần đây, vực Tử Thần còn là nơi để du khách tìm cảm giác mạo hiểm qua trò chơi chinh phục vách đá. Nếu có nhu cầu, du khách đăng ký trƣớc qua văn phòng khu du lịch hoặc qua Công ty dã ngoại Thái Sơn - Đà Lạt. Thác Đatanla hình thành bên rìa cao nguyên Đà Lạt, ở độ cao chỉ khoảng 1200m chính sự phân bậc địa hình mạnh mẽ đã tạo cho dòng suối nhỏ (lấy nƣớc từ hồ Tuyền Lâm) có điều kiện khoan cắt nền đá cát kết có xi măng silic. Thác nằm khá sâu và lối lên xuống rất dốc, Từ trên đƣờng đèo xuống đến thác độ 300mét. Đứng trên đƣờng đèo Prenn đã nghe tiếng nƣớc đổ ầm ầm suốt đem ngày. Thác Đatanla 12
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 Phía trên thác là những cánh rừng thông đặc chủng xanh tốt. Nét độc đáo ở thác Đatanla là thảm rừng lá rộng thƣờng xanh rất phát triển quanh thác. Dòng nƣớc từ cao đổ xuống tung bọt trắng xóa, hơi nƣớc bay mờ mịt cả vùng đã tạo nên độ ẩm rất cao thích hợp cho cây gỗ lá rộng sinh trƣởng. Hàng chục cây cổ thụ có tuổi tới trăm năm, một ngƣời ôm không hết, cây cao 30-40m, dây leo chằng chịt, có nhiều dây leo thân gỗ nhƣ những con trăn khổng lồ vắt từ cây nọ tới cây kia. Dƣới chân thác có nhiều tảng đá to bằng phẳng rất thích hợp cho các chuyến du lịch dã ngoại. THÁC PONGOUR Cách Ðà Lạt 45km về phía nam và cách quốc lộ 20 chừng 7km, thác Pongour huyền bí nằm giữa rừng sâu trên địa bàn xã Tân Hội, huyện Đức Trọng. Tiếng thác đổ nhƣ sấm động từ một vách đá cao 30m, bề mặt thác dài hàng trăm mét và một thềm thác rộng hàng chục ha có thể tổ chức vui chơi cho hàng ngàn ngƣời một lúc. Các nhà du lịch đã không sai khi đặt cho Pongour biệt hiệu “Nam Phương đệ nhất thác”. Thác Pongour là một kỳ quan của thiên nhiên, phong cảnh xung quanh rất hoang dã. Vào tháng 11, 12 trong năm, thác nƣớc nhƣ bị ngập chìm trong màu sắc rực rỡ của hoa cỏ núi rừng. Cách xa thác tới 3 km đã nghe tiếng động ầm ầm, truyền đi và lặp lại trong rừng thẳm của khối nƣớc khổng lồ đổ từ bậc đá này tới bậc đá khác cho tới bậc đá cuối cùng. Mùa khô thác rất ít nƣớc nhƣng cũng đủ để tạo thành mành nƣớc nhẹ nhàng rơi trên mặt đá. Có nhiều huyền thoại gắn với thác, theo truyền thuyết của đồng bào dân tộc thì thác gắn liền với câu chuyện về nàng Ka Nai - một tù trƣởng xinh đẹp đã có công xây dựng nên cuộc sông thịnh vƣợng của đồng bào K’Ho. Tƣơng truyền Ka Nai có 4 con tê giác và Ponguor là dấu vết các con tê giác cắm sừng xuống đất. Thác Ponguor Từ nhiều năm nay, Ponguor có ngày hội thác vào rằm tháng giêng hàng năm và ngay này đã trở thành một ngày vui chơi xuân của thanh niên Đà Lạt - Lâm Đồng với nhiều trò chơi dân gian, các nghi lễ văn hóa truyền thống của các dân tộc bản địa. THÁC GOUGAH Gougah đổ trắng Gougah Sông Đa Nhim đến đây òa thành bông Đó là câu thơ nổi tiếng về cảnh đẹp của thác Gougah, một thắng cảnh đẹp ở Lâm Đồng.Thác nằm cách quốc lộ 20 khoảng 300m và cách Ðà Lạt 37km về phía nam (từ Đà Lạt về thành phố Hồ Chí Minh, qua khỏi thị trấn Liên Nghĩa 8km, gặp một ngã ba thì rẽ bên trái), là một thác đẹp và nổi tiếng của Đức Trọng – Lâm Đồng. Thác Gougah đẹp hùng vĩ với khối lƣợng nƣớc khổng lồ từ trên cao trút xuống trông nhiều màu sặc sỡ. Ở đây, dòng nƣớc phân làm đôi theo chiều dọc: phần nƣớc bên phải âm thầm trong màu vàng đục, phần bên trái bắn tung tóe trong màu trắng nhƣ tuyết. Các tia nƣớc phản chiếu ánh sáng có nhiều màu sắc bắn lên không trung thành những đƣờng vòng sặc sỡ. THÁC VOI Nằm ngay trung tâm thị trấn Nam Ban huyện Lâm Hà, giáp xã Tà Nung Ðà Lạt và cách Đà Lạt 40km về phía tây nam, thác Voi là một thác lớn và đẹp. Thác cao hơn 35m, dƣới chân thác là những tảng đá to nhƣ đàn voi dầm mình trong nƣớc, có nhiều hang động và vách đá cheo 13
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 leo quanh thác. Những năm gần đây, nhân dân địa phƣơng đã đầu tƣ đáng kể nên thác ngày càng hấp dẫn du khách. Cho tới bây giờ vẫn chƣa ai biết tên thác Voi có tự lúc nào và do ai đặt, chỉ biết đây là một dòng thác đẹp đến lạ thƣờng. Từ độ cao 35 mét một màn nƣớc trắng xóa đổ ào ào, tung bọt suốt ngày đêm khiến những tảng đá đen - một màu đen huyền bí và khổng lồ bên dƣới bị nƣớc bào mòn theo năm tháng đến độ tròn lẳn nhƣ những tấm lƣng bồ tƣợng của đàn voi rừng. Vào những ngày đẹp trời, qua làn sƣơng khói mờ mịt bốc lên lấp lánh 7 sắc cầu vồng, ta có cảm giác đàn voi dƣới chân thác đang di chuyển, khi ẩn, khi hiện, giữa rừng núi hoang vu. Tuy xa, nhƣng những nếu là ngƣời yêu thiên nhiên dù chỉ một lần cất công tìm đến, khi ra về ta khó quên đƣợc vẻ đẹp hoành tráng của thác nƣớc này. ĐÈO NGOẠN MỤC Nằm trên quốc lộ 27 nối liền Phan Rang – Đà Lạt, có thể nói Ngoạn Mục là một trong những đƣờng đèo đẹp nhất Việt Nam. Chính tên đèo đã phần nào nói lên sự hấp dẫn của nó. Đèo dài 18,5 km, có độ dốc trung bình trên 90, là đèo có độ dốc lớn nhất ở các tỉnh phía Nam. Có bốn đoạn cua tay áo rất gấp, con đƣờng uốn lƣợn mềm mại qua những doi núi, sƣờn đồi lớn nhỏ khác nhau hình vòng sóng, tạo nên những tầng đƣờng mà nếu có dịp dừng chân trên đỉnh nhìn xuống, dễ thấy vẻ quyến rũ lãng mạn lẫn hùng vĩ của nó. Càng lên cao đƣờng đi càng thu hẹp dần, một bên là vách đá, bên kia là vực sâu ngàn mét. Từ trên đèo nhìn xuống thấy bờ vực đốc đứng, sâu thẳm, lấp ló qua những rặng thông là con đƣờng ngoằn ngoèo, những chiếc xe chậm chạp đang bò lên hay xuống đèo. Xa xa là đồng bằng Phan Rang với dòng sông Cái uốn lƣợn. Hai dải núi nhấp nhô cao thấp chạy dọc thung lũng Phan Rang ra tận biển. Đứng ở khúc cua Eo Gió, cao hơn 1.000m, nhìn xuống "vực", có thể phóng tầm mắt ra xa, con đƣờng nhƣ sợi chỉ luồn qua núi non trùng điệp, dƣới thung sâu, những mái nhà, con đƣờng và những khoảng xanh cây trái, vƣờn tƣợc, hun hút tầm mắt về miền biển. 51 chiếc gƣơng cầu lồi đặt tại các đoạn cua gấp khúc trên đèo đủ cho ta cảm nhận hết mức độ hiểm trở và ngoạn mục của đƣờng đèo. Cách Ninh Sơn hàng chục cây số, trên khối núi sừng sững trƣớc mặt bổng xuất hiện 2 dải lụa bạc chạy thẳng từ đỉnh núi xuống. Càng đến gần, dải lụa ấy hiện ra rõ hơn, để rồi du khách ngỡ ngàng khi biết đó là 2 ống nƣớc khổng lồ từ đỉnh núi cao nghìn mét đƣa nƣớc từ hồ Đơn Dƣơng xuống nhà máy điện Đa Nhim. Qua đèo, có tới 2 lần xe sẽ chui dƣới những ống thép đó. Ngƣời đi Đà Lạt, từ Phan Rang lên đèo Ngoạn Mục bao giờ cũng cố chiêm ngƣỡng sự kỳ vĩ của đôi ống thủy áp trắng bạc khổng lồ ấy. Dƣới chân đèo Ngoạn Mục là nhà máy thủy điện Đa Nhim. Đƣợc khởi công xây dựng vào tháng 1-1962 đến tháng 12-1964, Đa Nhim đƣa vào vận hành khai thác, với tổng công suất thiết kế lắp đặt là 160 MW gồm 4 tổ máy, sản điện lƣợng bình quân hàng năm khỏang 1 tỷ kWh, cung cấp điện cho các tỉnh Lâm đồng, Ninh Thuận, Bình Thuận và Khánh Hòa thông qua các đƣờng dây 110kV và hòa vào hệ thống quốc gia thông qua đƣờng dây 220 kV. Nhà máy sử dụng trực tiếp nguồn nƣớc của sông Đa Nhim, Krônglét và sông Pha để phát điện, đồng thời cung cấp mỗi năm hơn 550 triệu m3 nƣớc phục vụ tƣới tiêu cho hơn 20.000 ha đất canh tác của tỉnh Ninh Thuận, vốn là một tỉnh có lƣợng mƣa trung bình hàng năm thấp nhất cả nƣớc. Mấy ai biết thủy điện Đa Nhim là kiểu nhà máy thủy điện áp lực. Nƣớc từ các hồ cao trên núi sẽ đƣợc đƣa xuống qua những ống thủy áp để phát điện. Để có đƣợc nhà máy này, ngƣời ta đã đắp đập Đơn Dƣơng - con đập thẳng tắp dài 1.460m nối hai sƣờn núi, sừng sững cao tới 38m, đáy rộng 180m, đỉnh hẹp lại chỉ còn 6m, tích nƣớc từ hai sông Đa Nhim và Krônglet. Hồ Đơn Dƣơng có diện tích 9,7km2, ở độ cao 1.042m, nƣớc từ hồ theo hai đƣờng hầm bê tông xuyên núi dài 5km tới chóp núi thì ùa vào hai ống thép áp lực có đƣờng kính 2m (càng xuống càng nhỏ dần còn 1m). Và chỉ cần 6m3 nƣớc/ giây cũng đủ cho Đa Nhim phát điện. Công trình này là kết quả đền bù chiến tranh của Nhật cho Việt Nam. Trong chiến tranh nó hầu nhƣ không thể hoạt động bởi du kích phá huỷ đƣờng ống. Những năm sau thống nhất, việc khôi phục và cải tạo đã giúp Đa Nhim 14
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 hồi sinh. Hiện ở nƣớc ta có hàng loạt công trình thủy điện lớn kiểu ông thủy áp nhƣ Vĩnh Sơn (Bình Định), Đại Ninh (Lâm Đồng – Bình Thuận)… Đèo Ngoạn Mục mang trong mình nhiều trạng thái không gian và khí hậu khác nhau. Nếu đi từ dƣới lên, sẽ dễ dàng nhận ra sự giảm dần nhiệt độ qua những thay đổi về sinh thái. Vào mùa hè khi đến nơi này, từ Phan Rang đến thị Trấn Ninh Sơn là cả một vùng khô cằn, nóng bức với những truông cây bụi gai đặc thù cho khí hậu khô hạn của vùng cực Nam Trung Bộ. Càng lên cao, sự xuất hiện dần của thông, hoa dã quỳ hai bên đƣờng nhƣ nhắc nhớ khách lữ hành phải khoác thêm áo ấm bởi khí hậu đang ngày một lạnh hơn, một vùng phong thổ khác – vùng nam Tây Nguyên. Lên Ngoạn Mục vào buổi sáng bằng xe gắn máy, dễ bị choáng ngợp bởi những cụm mây mịt mù. Lên Ngoạn Mục những chiều đông, có thể đứng ở vực cao ngắm ra khoảng rừng những vách đồi trƣớc mặt, thấy những mảng rừng đổi màu lá xanh, lá đỏ nhƣ những bức hoạ tuyệt tác từ thiên nhiên… Để rồi, khi đến Eo Gió, bạn thực sự ngỡ ngàng vì chỉ qua một khúc cua ngoặt, bạn đã lạc vào một vùng khí hậu khá. Bỏ lại sau lƣng cái khô khốc của nắng nóng Ninh Sơn để chìm vào những đợt gió cao nguyên se lạnh. Khoảng phân định hai miền khí hậu ấy chỉ là một sƣờn núi -rìa cao nguyên. Năm 1905, ngƣời Pháp bắt đầu làm con đƣờng từ Phan Rang lên Ðà Lạt, hàng chục năm trời bạt núi mở đƣờng con đƣờng mới dần hình thành. Khi đó, đƣờng đèo rất hẹp và dốc. Gần một thế kỷ trôi qua, con đèo đã đƣợc mở rộng hơn qua hai lần tu sửa lớn của Pháp và Nhật. Những năm gần đây quá trình tu sửa liên tục của Nhà nƣớc khiến việc đi lại dễ dàng hơn. Với địa thế hiểm trở, cảnh quan độc đáo, đèo Ngoạn Mục trở thành đoạn đƣờng thú vị cho một tour bằng xe đạp, xe gắn máy hấp dẫn trên đƣờng từ phố núi Đà Lạt xuôi về duyên hải Phan Rang. DINH III (DINH BẢO ĐẠI) Dinh III là dinh thự vô cùng trang nhã, nằm trong khung cảnh thơ mộng, một trong những dinh thự đẹp nhất ở Đà Lạt. Nơi đây vừa có không khí vừa trang nghiêm vừa đầm ấm của khung cảnh hoàng gia xa xƣa. Trƣớc kia, dinh III là biệt điện của cựu hoàng Bảo Ðại. Biệt điện có 2 tầng: Tầng trệt dùng làm nơi hội họp, yến tiệc, tiếp khách ngoại quốc và quan chức chính phủ Hoàng triều cƣơng thổ. Gồm có các phòng: Làm việc, tiếp khách thân mật, khánh tiết, , phòng vui chơi của công chúa và hoàng tử. Tại phòng khánh tiết vẫn còn một kỷ vật là bức tranh đền Ăngcovát do hoàng thân Xi Ha Núc (Campuchia) tặng cho Bảo Đại. Ở trên lầu là phòng ngủ của cựu hoàng Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phƣơng, thái tử Bảo Long, hoàng tử Bảo Thăng và của các công chúa Phƣơng Mai, PhƣơngLiên. Phía ngoài phòng ngủ của cựu hoàng là Lầu Vọng nguyệt khá đẹp dùng làm nơi ngắm trăng. Thái tử Bảo Long là ngƣời đƣợc chọn kế nghiệp ngai vàng (từ năm 1939) nên trong phòng của ông trang hoàng toàn màu vàng. Dinh Bảo Đại còn lƣu giữ đƣợc rất nhiều hiện vật quí và đƣợc bảo vệ khá tốt về tất cả những gì còn lại của vị vua cuối cùng triều Nguyễn, qua đó giúp ngƣời xem có thể hình dung về một giai đoạn thăng trầm của lịch sử. Nằm trên đồi cao thoáng đãng và rất yên tĩnh với rừng thông cổ thụ, đồi cỏ xanh đã tạo cho dinh Bảo Đại khung cảnh giao hòa với thiên nhiên. Đến Đà Lạt, đến Dinh III là một niềm yêu thích của du khách. THIỀN VIỆN TRÚC LÂM 15
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 Ðây là ngôi chùa to nhất, bề thế nhất ở Ðà Lạt hiện nay, do kiến trúc sƣ Ngô Viết Thụ phác thảo thiết kế. Thiền viện đƣợc xây dựng trên ngọn đồi cạnh hồ Tuyền Lâm, kiến trúc vừa cổ truyền vừa hiện đại, hài hoà với phong cảnh chung quanh. Tọa lạc trên núi Phụng Hoàng, cách Ðà Lạt 4km theo đƣờng chim bay do hòa thƣợng Thích Thanh Từ khởi dựng từ đầu thập niên 90, chính thức khởi công xây dựng ngày 8 tháng 4 năm Quí Dậu (28.5.2003) và khánh thành ngày 8 tháng 2 năm Giáp Tuất (19.2.1994), thiền viện có diện tích 24,5 ha, đƣợc chia thành 3 khu riêng biệt. Khu ngoại viện gồm có: chánh điện, lầu chuông, tham vấn đƣờng, nhà khách, ba cổng tam quan, hồ Tĩnh Tâm, đồi Thanh Lƣơng. Bên cạnh khu ngoại viện là khu nội viện. Bƣớc vào chánh điện, giữa không gian bao la, rộng lớn chỉ thấy bức tƣợng Phật Thích Ca tay cầm cành sen đƣa lên mỉm cƣời. Ngay lối vào nội viện, một toà tháp uy nghiêm bên trong có treo một "đại hồng chung" cao 1,98m nặng 1,1 tấn đƣợc đúc tận xứ Huế. Trên chiếc "đại đồng chung" ấy có khắc bài thơ của Trúc Lâm Đầu Đà đầy ý nghĩa triết học nhân sinh : “Phải trái rụng theo hoa buổi sớm Lợi danh lạnh với trận mƣa đêm Hoa tàn mƣa tạnh non im vắng Xuân cỗi còn nguyên một tiếng chim”. Từ sân trƣớc chánh điện, du khách nhìn thấy dãy núi Voi với đỉnh Pin Hatt cao 1.691m. Những đồi thông xanh, mặt nƣớc hồ Tuyền Lâm thấp thoáng qua hàng cây. Thiền viện Trúc Lâm là nơi lƣu giữ nhiều vật quí của nhà Phật, những vật cúng giàng của tăng ni phật tử bốn phƣơng. Trong đó, độc đáo nhất phải kể đến hóa đá cổ thụ có hơn 100.000 tuổi, cây si cổ thụ sần sùi, vững chải có tuổi đến 130 năm… Những lúc đông nhất, thiền viện có hàng ngàn tăng ni, phật tử đến theo học về thiền. Nơi đây là một thiền viện nghiên cứu về Thiền tông lớn nhất nƣớc ta hiện nay với ý muốn khôi phục thiền tông Việt Nam (có từ đời nhà Trần). Mỗi ngày, các tu sĩ ngồi thiền 3 thời, mỗi thời 2 giờ đồng hồ và thời đầu tiên là từ lúc 3 giờ sáng. Ngoài thời gian tu học, kế tục phái thiền Trúc Lâm, các thiền sinh còn chăm sóc vuờn hoa, cây cảnh, quản lý và bảo vệ trên 22 ha rừng thông, trồng cây gây rừng, tạo cảnh quan lâm tuyền mang sắc thái văn hóa dân tộc. Thiền viện Trúc Lâm tuy không có đƣợc những nét kiến trúc nguy nga và cổ kính nhƣ thƣờng thấy ở một số chùa chiền nổi danh khác khác, song nơi đây ẩn chứa bao điều huyền nhiệm của thế giới tâm linh. Ngoài ý nghĩa một ngôi chùa lớn, một viện thiền học, Trúc Lâm còn là một điểm tham quan lý tƣởng ở Đà Lạt. CÁP TREO ĐÀ LẠT Đến Đà Lạt, đi cáp treo để đƣợc ngắm nhìn toàn cảnh thành phố hoa từ trên cao quả là thú vị. Cáp treo Xuân Hƣơng Đà Lạt là tuyến cáp dài 2.267m - tuyến cáp treo dài nhất Việt Nam hiện nay và cũng là hệ thống cáp treo đầu tiên của Tây Nguyên. Đƣợc khánh thành ngay trong dịp Tết Nguyên đán Quý Mùi 2003, cho đến nay đã có hàng trăm nghìn lƣợt khách đƣợc “bay” trên tuyến cáp này. Từ độ cao 1.400-1.500m, trên những toa xe xinh xắn, du khách sẽ có cảm giác thật lạ lùng, thi vị khi nhìn ngắm toàn cảnh thành phố Đà Lạt thoắt ẩn, thoắt hiện trong sƣơng mù. Nƣớc ta đã có nhiều hệ thống cáp treo, nổi tiếng phải kể đến cáp treo Bà Nà (Đà Nẵng), núi Bà Đen (Tây Ninh) và Yên Tử (Quảng Ninh), song chiều dài các tuyến cáp này chỉ bằng 1/3 đến 2/3 tuyến cáp treo Đà Lạt. Cáp treo Xuân Hƣơng xuất phát từ đồi Robin (cao 1.517m, gần đèo 16
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 Prenn) đi chếch về hƣớng tây nam vƣợt qua nhiều đỉnh đồi với các độ cao khác nhau đến Thiền viện Trúc Lâm rồi vào “bán đảo” Tuyền Lâm thơ mộng. Từ đồi Robin nhìn xuống, thành phố Đà Lạt hiện ra thật tráng lệ với nhà thờ Chánh tòa, Trƣờng trung học Yecsin, tháp truyền hình thành phố. Xa xa hồ Xuân Hƣơng nhƣ dải lụa bạc bao lấy Đồi Cù xanh thẫm, 2 đỉnh Lang Biang nhƣ bộ ngực cô gái trẻ căng tràn nhựa sống nổi bật trên nền xanh của cây rừng. Tuyến cáp đƣợc xây dựng, lắp đặt theo công nghệ tiên tiến của hãng Doppemay (Áo), đạt tiêu chuẩn an toàn, hiện đại hàng đầu châu Âu với hệ thống đóng mở cửa và hệ thống an toàn tự động. Đƣờng cáp đƣợc nâng bằng 10 trụ đỡ đầu với chiều cao hàng chục đến hàng trăm mét đảm bảo độ cao tối thiểu của các xe treo cách tán cây rừng 10m. Trên tuyến cáp thƣờng xuyên có 50 chiếc xe treo swovoda xinh xắn (hình dáng, màu sắc trang nhã, bắt mắt) luân chuyển cách đều nhau 120m với tốc độ thay đổi từ 1-5m trong một giây và thời gian “bay” kéo dài tới 12 phút khi đi đơn tuyến và 24 phút nếu mua vé khứ hồi. Với 50000 đồng cho vé khứ hồi hay 30000 cho vé đi một chiều, khách đi theo đoàn có thể đƣợc giảm vé (nhất là học sinh – sinh viên), cáp treo Đà Lạt là cơ hội để khám phá thêm những vẻ đẹp của cao nguyên này. HOA ĐÀ LẠT Đà Lạt - thành phố hoa. Các loại hoa tiêu biểu nhƣ anh đào, mi-mô-da, hồng, lay-ơn... Đến Đà Lạt là đi vào những đƣờng hoa: đƣờng Anh Đào lên khu Hòa Bình; đƣờng Mi-mô-da dọc hai bên vào Dinh 3. Trên đƣờng vào khu chợ có những cành phƣợng tím. Dọc đƣờng Hồ Tùng Mậu mai trắng rộ lên mỗi độ xuân về... hoa làm tăng thêm vẻ đẹp kiều diễm của hàng ngàn biệt thự ẩn mình lặng yên dƣới những tán thông xanh mát. Ở Đà Lạt, có thể tìm thấy hoa ở mọi lúc, mọi nơi. Hoa trồng trong vƣờn, trong chậu, hoa trên cây lƣu niên, hoa dại mọc vệ đƣờng, hoa dại leo hàng rào. Vào mùa khô cuối năm, có những con đƣờng, triền đồi vàng rực màu hoa dã quỳ. Khí hậu Đà Lạt phù hợp với nhiều loại hoa, đặc biệt là hoa gốc ôn đới. Hiện nay các nông trại trồng hoa chuyên nghiệp đã tạo ra nhiều màu và giống hoa theo ý muốn, chẳng hạn nhƣ hoa hồng vàng, hồng tím, hồng ngọc bích… Hoa hồng ở đây là sản phẩm cung cấp cho cả nƣớc, cho xuất khẩu: búp hoa to, màu sắc tƣơi đẹp, kiêu sa. Các loại hoa cẩm chƣớng, lys, hoa cúc trắng, bƣớm vàng, lồng đèn, pensée, cẩm tú cầu… làm cho màu sắc của hoa Đà Lạt thêm phong phú. Đà Lạt có bao nhiêu loại hoa? Quả thật ở Đà Lạt dù ai có "sành" hoa mấy cũng không thể biết và nhớ hết tên các loài hoa. Hoa cúc hiện có trên 60 loại, hoa hồng có hơn 10 loại, hoa lan có gần 50 loại, hoa đồng tiền gần 20 loại. Cái hấp dẫn khác của Ðà Lạt có lẽ là hoa nở bốn mùa nhất là mùa xuân, nhiều loài hoa nở rộ, khoe hƣơng sắc. Hoa mai nở quanh năm. Có nhiều loại hoa mai nhƣ mai đỏ, mai tứ qúy, mai hồng, và nhất chi mai. Vào tháng chạp có hoa đào báo hiệu ngày Tết. hoa Mimôda Hoa Đà Lạt đƣợc lấy giống từ nhiều nơi trên thế giới: Pháp, Anh, Hà Lan, Ý, Nhật Bản, Đài Loan, Ốtxtrâylia... Một mảnh vƣờn xinh trƣớc mỗi biệt thự, nổi lên nào hoa lys, mãn đình hồng, xác pháo, hoa quỳnh đủ loại...; cổng vào nhiều khu biệt thự đƣợc trồng giàn hoa giấy, hoa rạng đông tạo thành những mái hoa rực rỡ. Hoa Đà Lạt nhiều loại, nhiều màu sắc, nhƣng nhiều ngƣời kể cả du khách vẫn rất mến mộ hoa hồng. Ngoài những giống hồng quen thuộc, Đà Lạt còn có những giống hồng quí hiếm: hồng 17
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 vàng, hồng phấn, hồng chàm và đặc biệt là hồng nhung đại đóa màu đỏ sẫm. Đà Lạt còn có rất nhiều loài hoa tuyệt đẹp khác: Hoa Cẩm tú cầu to với hàng trăm cánh hoa nhỏ nép sát vào nhau và thay đổi màu sắc lung linh nhƣ một nạm ngọc. Cứ chớm lạnh của mùa Noel đến là cả Đà Lạt dƣờng nhƣ vàng rực trong màu hoa dã quỳ - hoa trên những ngọn đồi, hoa ven những con đƣờng đồi dốc quanh co của miền sơn cƣớc. Đà Lạt còn là xứ sở của lan, nào vệ hài, hồng lan, bạch lan, hoàng lan... thi nhau khoe sắc, tỏa hƣơng. Còn phong lan thì thật là phong phú. Từ mùa Nô-en đến hết tháng tƣ, kim điệp, long tu, thủy tiên, dã hạc... trổ hoa hầu khắp các vƣờn, nhất là trong khu trồng lan của vƣờn hoa thành phố. Đặc biệt có những loài hoa mà chỉ có thể tìm thấy ở Đà Lạt nhƣ Mimôza vàng quý phái với những cánh lông tơ mịn, chỉ vài điểm vàng chấm phá trên nền lá xanh lam đủ tạo dáng nghệ thuật về màu sắc và đƣờng nét. Những cành phƣợng tím điểm ngang giữa không gian se lạnh làm ấm lòng ngƣời. Hiếm có nơi nào ở Việt Nam, các loài hoa dại lại mọc nhiều và đẹp nhƣ ở Đà Lạt. Có gần 20 loài hoa dại quen thuộc nhƣ: đồng thảo, địa lan, me đất, trinh nữ, mắt nai, huệ đất, cúc quỳ, cúc nút áo, bìm bìm, sim, mua, bằng lăng, sen cạn, mƣời giờ… Hoa dại mọc ở khắp nơi, trên đồi thông, bên vệ đƣờng, trên những mái nhà cổ kính hay nép mình bên những bờ hồ thơ mộng… Vẻ mảnh mai, hoang sơ nhƣng rất quyến rũ của chúng đã tạo nên nét riêng của Đà Lạt. Festival hoa Đà Lạt tổ chức vào trung tuần tháng 12 hàng năm là cơ hội cho công chúng yêu hoa có dịp chiêm ngƣỡng hƣơng sắc của “Thành phố hoa”. VƯỜN HOA THÀNH PHỐ Nằm ở cuối hồ Xuân Hƣơng, bên cạnh đồi Cù, cách trung tâm thành phố 2 km. Trƣớc kia, nơi đây từng đƣợc nhắc đến với tên gọi vƣờn hoa Bích Câu, từ năm 1986 đƣợc nâng cấp lên thành công viên hoa thành phố Đà Lạt. Vƣờn hoa hiện đang là nơi trƣng bày “bộ sưu tập” về hoa lớn nhất và đầy đủ nhất của Đà Lạt với hàng trăm giống hoa khác nhau. Ngoài các giống hoa truyền thống mà du khách đã biết nhƣ cẩm tú cầu, hồng, hồng ri, xác pháo, Mimosa. Tại vƣờn hoa còn có hàng chục giống hoa mới đƣợc thu nhập vào Đà Lạt từ 10 năm nay nhƣ các loại cúc, đồng tiền, đỗ quyên, trà my… Nơi đây còn có một khu vƣờn địa lan, phong lan khá lớn và thuộc loại đẹp nhất của thành phố hoa Đà Lạt, đáp ứng nhu cầu thƣởng thức, mua bán, trao đổi của khách hàng. Vào dịp cuối năm đây là một địa điểm tổ chức Fistival hoa. Đồng thời đây cũng là nơi diễn ra Hội hoa xuân nhằm tập hợp những nghệ nhân chơi hoa, địa lan, phong lan, cây cảnh, tiểu cảnh, non bộ của Đà Lạt thi tài nhân dịp Tết Nguyên đán hàng năm. Hoa bất tử trong vườn hoa thành phố Những năm gần đây, vƣờn hoa thành phố đã đƣợc mở rộng về phía đƣờng Nguyên Tử lực, kéo dài đến tận Đại học Đà Lạt. Khuôn viên vƣờn hoa rộng hàng trăm ha với các khu chức năng riêng biệt: khu trƣng bày hoa, khu nhân giống, nuôi cấy mô, khu trồng thử nghiệm… Vƣờn hoa Đà Lạt đang dần trở thành công viên hoa đẹp nhất, độc đáo và lớn nhất nƣớc ta. PHÂN VIỆN SINH HỌC ĐÀ LẠT 18
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 Cách trung tâm Đà Lạt chƣa đến 10km trên đƣờng đi hồ Suối Vàng, rẽ trái lên một quả đồi có tên gọi Tùng Lâm (cao 1.548m) đƣợc bao quanh bởi rừng thông xanh là Phân viện Sinh học Đà Lạt. Tọa lạc trên diện tích 3.700m2 giữa ngọn đồi ấy là một ngọn tháp cao đƣợc xây bằng đá với hàng trăm cánh cửa sổ vò, xung quanh là một khu rừng rộng gần 30ha. Nơi này vốn là Học viện dòng Chúa Cứu thế của Giáo hội Công giáo đƣợc xây dựng năm 1950, đến năm 1991 đƣợc chuyển giao cho Viện Sinh học nhiệt đới trực thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ và trở thành Phân Viện Sinh học tại Đà Lạt. Phân Viện Sinh học có chức năng nghiên cứu hoá học, nghiên cứu vi sinh, nghiên cứu thực vật và công nghệ sinh học nuôi cấy mô... Ngoài chức năng nghiên cứu và ứng dụng khoa học, Phân viện Sinh học Đà Lạt còn hoạt động nhƣ một bảo tàng nhằm giới thiệu với khách du lịch về sự giàu có của hệ động vật và thực vật của rừng Tây Nguyên. Đến với Phân viện Sinh học Đà Lạt bạn sẽ có cơ hội thƣởng ngoạn bộ sƣu tập phong lan vô cùng phong phú với hàng ngàn chậu, giò lan tuyệt đẹp. Họ lan Orchidaceae của rừng Lâm Đông có đến 101 chi (78,5%) và 396 loài (55,3%) trong tổng số 132 chi và 715 loài lan của cả nƣớc, nhất là những giống loài quý hiếm nhƣ hài đỏ - đƣợc xếp vào những loài đẹp nhất thế giới. Phân Viện Sinh học hiện đang chăm sóc giữ gìn nguồn gene của gần 200 loài lan rừng khác nhau nhƣ nguồn dự phòng cho phát triển kinh tế địa phƣơng mai sau. Đây là những loài đƣợc tìm thấy ở các rừng Lâm Đồng và vùng phụ cận, trong số đó nổi bật các loài lan nhƣ thanh lan, thanh đạm, tuyết ngọc... Bên cạnh đó Đà Lạt còn có hàng trăm giống lan nhập ngoại đƣợc gây trồng để thƣởng ngoạn và xuất khẩu. Theo các nhà khoa học Lâm Đồng có không ít các loài lan rừng rất quý hiếm. Đến Phân viện Sinh học Đà Lạt, chúng ta còn có dịp tìm hiểu về bộ sƣu tập động vật rừng cũng hết sức phong phú. Đến nay bộ sƣa tập này đã có trên 300 mẫu thú, 239 mẫu chim, 51 mẫu bò sát, 306 mẫu côn trùng, 36 mẫu thú nuôi nhà của 22 loài… đƣợc sắp xếp theo từng loài, lớp, bộ, họ đi từ động vật phát triển cấp thấp đến cấp cao, từ động vật biển nhƣ: san hô, cua, ốc; loài lƣỡng thê nhƣ trăn, rắn; động vật nuôi nhƣ gà, vịt, bò, cừu; lớp côn trùng; lớp chim; lớp thú, các loài thú phát triển ở bậc cao gần với con ngƣời nhƣ họ khỉ, hầu hay linh trƣởng... trong đó có nhiều mẫu vật của các loài quý hiếm. Cũng trong quá trình sƣu tập các nhà khoa học của Phân viện Sinh học Đà Lạt đã bổ sung 22 loài vào danh sách các loài thú quý hiếm của tỉnh Lâm Đồng. Tại bảo tàng này còn có một số mẫu vật lạ chƣa định loài đƣợc - rất có thể đó là những loài mới đối với khoa học nhƣ nai đầu đinh, gấu heo, lửng lợn lông ngắn... Phân Viện Sinh học còn trƣng bày 2 mô hình vũ trụ do Liên Xô cũ tặng Việt Nam năm 1989. Ở bảo tàng, những lời kêu gọi: “Hãy bảo vệ loài tê giác Java”, “ Hãy bảo vệ sao la”, “Hãy cứu lấy đàn voi của chúng ta”... các nhà khoa học muốn nhắn nhủ ” Hãy thân thiện hơn với thiên nhiên, để thiên nhiên luôn là bạn đồng hành của con ngƣời. GA XE LỬA ĐÀ LẠT Ga xe lửa Đà Lạt nằm ở độ cao 1.500 m so với mặt nƣớc biển, cùng với nhà ga Hải Phòng, đây là ga cổ kính nhất còn giữ lại đƣợc và là một trong những ga xe lửa lâu đời nhất Việt Nam. Ga Đà Lạt đã đƣợc công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Tuyến đƣờng sắt Tháp Chàm – Đà Lạt là cơ sở cho sự sự đời của ga xe lửa Đà Lạt. Xây dựng từ đầu thế kỷ XX, hoàn thành vào năm 1932, Đà Lạt - Tháp Chàm là một trong những đoạn đƣờng sắt độc đáo nhất thế giới mà hiện chỉ ở Thụy Sĩ mới có. Dự án làm con đƣờng này đã có từ đầu thế kỷ. Để khắc phục độ cao, ngƣời Pháp đã cho xây dựng đƣờng răng cƣa kiểu Thụy Sĩ và những đầu máy cũng đƣợc mua tại đây. Paul Doumer, toàn quyền Đông Dƣơng thời đó đã duyệt cho dự án này 200 triệu frăng (một số tiền rất lớn lúc bấy giờ). Năm 1908 bắt đầu khởi công đoạn Tháp Chàm - Krông Pha dài 38 km, đến năm 1915 mới hoàn thành. Đoạn Krông Pha - Eo Gió dài 10 km là đoạn khó nhất trong toàn tuyến đƣờng vì phải vƣợt qua đèo Ngoạn Mục, con đèo cao nhất miền Nam. Phải đục xuyên qua 3 đoạn đƣờng 19
- Một số địa danh ở Lâm Đồng………………. TS Nguyễn Hữu Xuân - ĐHQN 2012 hầm, nhân công lúc đó hoàn toàn làm bằng thủ công nên mất 10 năm đoạn này mới xong. Những đoạn còn lại tiếp tục hoàn thành: năm 1929 đoạn Eo Gió – Đ’ran dài 5 km; năm 1930 đoạn Đ’ran - Trạm Hành dài 6 km. Trong 2 năm (1931-1932) đoạn Trạm Hành - Cầu Đất - Đà Lạt dài 24 km cũng hoàn thành. Toàn bộ con đƣờng dài 84 km, có 16 km đƣờng răng cƣa, qua 5 đƣờng hầm, hầm dài nhất tới 600m. Khởi công xây dựng năm 1932 và hoàn tất năm 1936, ga xe lửa Đà Lạt đƣợc hai kiến trúc sƣ Reveron và Moncet thiết kế, nhà thầu Võ Đình Dung thi công. Đây là một kiến trúc đẹp và độc đáo. Toàn bộ khu vực nhà ga nằm trên một triền đồi đƣợc ủi bằng phẳng. Ga Đà Lạt mô phỏng hình ảnh dãy núi Lang Biang, toà nhà chính có 3 vòm mái nhô cao nhƣ 3 đỉnh núi. Với lối kiến trúc độc đáo, ga Đà Lạt đƣợc coi là một nhà ga đẹp nhất Đông Dƣơng lúc bấy giờ. Thời hoàng kim, ga Đà Lạt có 11 đầu máy, đa số do hãng Fuka - Thụy Sĩ sản xuất từ những năm 1920. Sau giải phóng vẫn còn 5 chiếc hoạt động. Từ năm 1988 - 1991, Tổng cục Đƣờng sắt Việt Nam đã lần lƣợt bán những chiếc đầu máy này cho nƣớc ngoài. Ngƣời mua không ai khác chính là Công ty Fuka của Thụy Sĩ, nơi đã sản xuất ra nó. Theo tài liệu của Pháp để lại, họ đã tìm tới ga Đà Lạt để mua lại. Đây là những đầu máy hơi nƣớc chạy bằng than củi hoạt động trên đƣờng răng cƣa lẫn đƣờng bằng duy nhất còn lại trên thế giới (ngay cả Thụy Sĩ cũng không còn). Công ty Fuka đã dùng hẳn một loại xe kéo chuyên dụng để chuyên chở 5 đầu máy xuống Vũng Tàu, đƣa về nƣớc phục hồi lại thành những đầu máy du lịch độc nhất vô nhị. Tại ga Đà Lạt hiện còn có một đầu máy hơi nƣớc của Nhật, do Trung Quốc tặng lại Tổng cục Đƣờng sắt Việt Nam, đƣợc chở bằng ô tô từ Hà Nội vào và hiện không hoạt động đƣợc chỉ đƣa ra để “trưng bày”. Trong tƣơng lai, khi khôi phục xong tuyến đƣờng Đà Lạt - Phan Rang ga Đà Lạt sẽ là vị trí đầu mối giao thông quan trọng và là một ga tàu hỏa du lịch. Đoạn đƣờng sắt 7 km từ ga đến Trại Mát đƣợc khôi phục lại từ năm 1991 và đƣa vào khai thác du lịch bởi đầu máy ô tô cải tiến của Liên Xô (cũ), chỉ có thể hoạt động trên đƣờng bình thƣờng. Tàu lửa sẽ đƣa du khách thƣởng ngoạn hồ Than Thở với đồi thông hai mộ, rừng Ái Ân từ trên cao. Tàu ôm cua theo triền núi, qua những thửa vƣờn bậc thang, xuyên qua những dãy nhà kính trồng hoa, trồng rau sạch theo công nghệ mới. Vừa trên đỉnh đồi cao, trong chốc lát đoàn tàu đã ẩn mình dƣới thung lũng sâu. Tàu chạy qua những sƣờn đồi, những dòng thung lũng lấp lóa ánh nắng, những vƣờn rau xanh, vƣờn hồng vàng rực, khiến du khách ngỡ ngàng trƣớc sự biến đổi kì ảo của thiên nhiên Đà Lạt. Một chuyến tham quan bằng xe lửa trên phố núi quả là thú vị. RỪNG THÔNG ĐÀ LẠT (RỪNG BẢO VỆ CẢNH QUAN ĐÀ LẠT) Kiếp sau xin chớ làm người Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Khu rừng bảo vệ cảnh quan, rừng Thông - Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lâm Viên, với diện tích rộng tới 33.572 ha, hiện do 5 đơn vị quản lý riêng biệt: 23.392 ha do Ban quản lý Lâm viên; 2.290 ha do Lâm trƣờng Đơn Dƣơng; 2.961 ha do Ban quản lý Công an Đơn Dƣơng; 453 ha do Trung tâm nghiên cứu và trình diễn rừng Lâm Đồng; 4.476 ha do Trại giống cây Xuân Thọ. Đà Lạt có rất nhiều loài thông: Thông đỏ (Taxus chinensis), thông tre (Podocarpus neriifolius) thông Pà cò (Pinus kwangtugensis) thông nƣớc (Glyptostrobus pensilis), loài thông cổ 2 lá dẹt (Ducampopinus krempfii) và nhất là loài thông 5 lá đặc hữu: Thông Đà Lạt (Pinus dalatensis). Rừng lá kim với cây thông 3 lá chiếm một diện tích khá lớn ở Đà Lạt. Thông có mặt khắp nơi từ chân đèo Prenn - cửa ngõ vào thành phố, đến những quả đồi tròn trịa nối tiếp nhau tƣởng nhƣ là vô tận. Thông vây quanh các biệt thự; thông che mát trƣờng học, công sở; thông rợp bóng trên nhiều ngả đƣờng uốn lƣợn quanh co và ẩn hiện trong sƣơng núi. Nguồn gốc của thông ở Đà Lạt cũng khá phức tạp. Có ngƣời cho rằng chính ngƣời Pháp đã đem thông đến trồng ở Đà Lạt và cao nguyên Lâm Viên. Giả thuyết khác cho là do sự di cƣ của các luồng sinh vật từ Nam Himalaya đến Tây Nguyên và Đà Lạt… Theo các nhà khoa học thì 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
BÁO CÁO THỰC TẬP THỰC TẾ LÀNG GIẤY PHONG KHÊ – BẮC NINH
18 p | 581 | 118
-
Bài giảng Địa lý cảnh quan: Chương 1 - PGS.TS. Hà Quang Hải
57 p | 301 | 59
-
Giáo trình môi trình mỏ
71 p | 144 | 46
-
Tìm hiểu về hãng hàng không giá rẽ JetBlue Airways
11 p | 296 | 33
-
Thử nghiệm tạo chế phẩm lân sinh học và đánh giá hiệu quả của chế phẩm đến một số chỉ tiêu sinh lí hóa sinh của cây lạc (Arachis hypogaea L.)
10 p | 69 | 4
-
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ Mobile GIS và GPS trong thu thập dữ liệu không gian về đất đai
6 p | 93 | 4
-
Tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa của địa danh “Long Xuyên” ở tỉnh An Giang
11 p | 57 | 4
-
Tìm hiểu thành phần loài địa y trên lá thuộc chi Porina Ach. 1890 ở một số khu vực thuộc địa phận tỉnh Đắk Lắk
7 p | 32 | 3
-
Đánh giá biến động đất ngập nước Vịnh Tiên Yên - Tỉnh Quảng Ninh phục vụ sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường
9 p | 66 | 3
-
Ứng dụng lý thuyết đồ thị để tìm kiếm tự động các vòng khép trong lưới trắc địa
5 p | 20 | 2
-
Phân tích một số chỉ tiêu về thành phần hóa học và định danh loài nấm cộng sinh rừng thông Đà Lạt
7 p | 40 | 1
-
Áp dụng phương pháp nội suy hồi quy Kriging xây dựng bản đồ hàm lượng cacbon hữu cơ trong đất tại xã Hương Lâm, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
10 p | 74 | 1
-
Phát hiện loài gặm nhấm "hóa thạch sống" (Laonestes Aenigmanus) ở Phong Nha - Kẻ Bàng, Việt Nam
8 p | 59 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn