intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu vai trò của Đại đế Asoka thông qua việc khảo cứu nội dung các thạch pháp dụ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

14
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này sẽ nêu rõ vai trò của vị vua nổi tiếng này đối với Ấn Độ nói riêng và thế giới nói chung thông qua việc khảo cứu nội dung của các thạch pháp dụ mà ông đã ban ra. Nội dung bài viết giới thiệu khái quát về Asoka và việc ban hành các sắc lệnh, chỉ dụ; những đóng góp cơ bản của Đại đế Asoka thông qua việc khảo cứu nội dung các thạch pháp dụ trên các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục và tôn giáo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu vai trò của Đại đế Asoka thông qua việc khảo cứu nội dung các thạch pháp dụ

  1. TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA ĐẠI ĐẾ ASOKA THÔNG QUA VIỆC KHẢO CỨU NỘI DUNG CÁC THẠCH PHÁP DỤ HUỲNH CÔNG MINH Khoa Lịch sử Tóm tắt: Asoka là nhân vật lịch sử nổi tiếng không chỉ đối với lịch sử Ấn Độ mà còn đối với lịch sử thế giới. Thân thế và sự nghiệp của ông có thể tìm thấy ở những sắc lệnh, chỉ dụ được khắc trên đá, và những phác họa về ông ở những tài liệu Phật giáo. Bài viết này sẽ nêu rõ vai trò của vị vua nổi tiếng này đối với Ấn Độ nói riêng và thế giới nói chung thông qua việc khảo cứu nội dung của các thạch pháp dụ mà ông đã ban ra. Nội dung bài viết giới thiệu khái quát về Asoka và việc ban hành các sắc lệnh, chỉ dụ; những đóng góp cơ bản của Đại đế Asoka thông qua việc khảo cứu nội dung các thạch pháp dụ trên các lĩnh vực chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục và tôn giáo. 1. VỀ VUA ASOKA VÀ CÁC SẮC LỆNH, CHỈ DỤ ĐƯỢC KHẮC TRÊN ĐÁ Asoka là vị vua nổi tiếng của vương triều Maurya (322 – 185 TCN). Ông sinh ra trong gia đình hoàng tộc, là con trai thứ của vua Bindusara (298 – 272 TCN). Từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, thao lược. Lớn lên ông được vua cha trọng dụng và giao nhiều trọng trách, trong đó, ông được bổ nhiệm làm Thái thú ở Bắc Ấn – một vùng có vị trí chiến lược quan trọng và thường xuyên xảy ra những cuộc nhiễu loạn. Ông đã bình định được quân phản loạn ở đây do đó quyền uy và tiếng tăm rất lớn. Sau khi vua Bindusara băng hà, tình hình đất nước trở nên rối loạn, các cuộc nhiễu loạn xảy ra ở nhiều nơi; ở trong triều tranh nhau ngôi vị diễn ra kéo dài suốt bốn năm trường. Cuối cùng, với tài năng và uy tín của mình Asoka đã dẹp yên các cuộc nhiễu loạn. Sau đó với sự giúp đỡ của Tể tướng Radhagypta cùng các nhân vật cao cấp trong triều đình đã suy tôn Asoka lên ngôi vào khoảng năm 269 TCN. Với sự trị vì của ông vương triều Maurya phát triển đến cực thịnh. Thời kỳ này lãnh thổ của đế quốc được mở rộng bao gồm toàn bộ miền Bắc và Trung Ấn Độ và một phần Afghanistan ngày nay. Trong cuộc chiến tranh chinh phục vương quốc Kalinga ở miền Đông Nam bán đảo Ấn Độ, một cuộc tàn sát khủng khiếp đã diễn ra. Sau trận chiến Kalinga, Asoka đã sám hối nên dốc lòng theo Phật giáo, bố thí cho người nghèo khổ, khuyên răng đạo đức, xây dựng các chùa chiền Phật giáo… Đạo Phật trở thành quốc giáo trong đế quốc Asoka. Ông đã triệu tập Đại hội Phật giáo toàn Ấn Độ tại kinh thành Pataliputra và cử nhiều phái đoàn Phật giáo sang truyền bá đạo Phật ở các nước Trung Á và Đông Nam Á khiến cho Phật giáo trở thành một tôn giáo quốc tế. Ngoài ra, ông còn cử sứ thần đặt quan hệ ngoại giao với nhiều nước như Syri, Ai Cập, Makedonia, đồng thời, quan tâm khuyến khích việc giao thương giữa Ấn Độ với nước ngoài, mở mang đường sá, bến cảng. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2014-2015 Trường Đại học Sư phạm Huế, tháng 12/2014: tr. 177-183
  2. 178 HUỲNH CÔNG MINH Sau khi Asoka mất (232 TCN), đế quốc Maurya suy yếu hẳn. Ở miền Bắc Ấn, sau triều Maurya là vương triều Sunga và Kanva tiếp tục trị vì từ năm 232 đến năm 28 TCN thì bị người Shakar ở phía tây chinh phục. Vào khoảng 9 năm sau khi Asoka lên ngôi (260 TCN), vì mục đích thống nhất toàn cõi Ấn Độ nên đem quân chinh phạt các nước lân cận như Kalinga (nay là Orissa thuộc Nam Ấn Độ) là một cường quốc rất mạnh về kinh tế và quân sự và các nước khác như Peshawar, Puri, Giaja,… Asoka đã chinh phục toàn bộ cõi Ấn Độ (trừ vùng cực Nam) rộng hơn Ấn Độ ngày nay rất nhiều. Trong các cuộc chiến tranh này đẫm máu nhất là cuộc chiến Kalinga, theo bia ký khắc trên Đại thạch pháp dụ số XIII có chép rằng: “Thiên tử, vua Piyadasi xâm chiếm Kalinga tám năm sau khi ngài đăng quang. Một trăm năm chục ngàn người bị bắt và bị đầy, một trăm ngàn người bị giết và rất nhiền người nữa chết vì những lý do khác” [3, tr. 74]. Sau vụ tàn sát này, Asoka đã sám hối và dốc lòng theo Phật giáo. Ông đã long trọng tuyên bố từ nay sẽ loại bỏ chiến tranh trong chính sách của vương quốc mình, và thay vào đó dùng chánh pháp, dùng Phật pháp để chinh phục lòng người. Mà Chánh pháp như Asoka hiểu, là sự quan tâm đến đời sống vật chất và tâm linh của tất cả dân chúng. Vì thế Asoka đã thi hành chính sách cai trị thích hợp với quần chúng, bằng cách lồng giáo lý Đức Phật vào quốc chính, dốc hết tâm lực vào việc giáo dục xã hội, ban bố những điều lệ, những sắc lệnh rất phù hợp với nhân dân, giảm bớt những khắc khe cho nhân dân. Để thần dân thông hiểu chính được những sự cải cách trong chính sách cai trị mới và những nguyên tắc về đạo đức ông đặt ra dựa theo Chánh pháp cốt tạo dựng nên một xã hội đầy nhân bản và công bằng hơn, Asoka đã ra lệnh khắc những pháp dụ này lên đá – có khi gọi là Lời ghi chánh pháp (dharmalipi), có khi lại gọi là Pháp lệnh (dharma-sravana) – đồng thời cho rao truyền rộng rãi khắp nơi trong nước. Do đó, vào năm thứ 12 sau khi lên ngôi và trở về sau, Asoka ban bố nhiều sắc lệnh chấn hưng Phật giáo. Những sắc lệnh này là những mốc lịch sử quý báu cho các sử gia cũng như sự tồn tại của Phật giáo ngày hôm nay, đồng thời để biết được Phật giáo thời bấy giờ ảnh hưởng đến giới vua chúa, các thế lực trong xã hội như thế nào. Các pháp dụ được khắc chủ yếu trên vách đá và trụ đá. Các pháp dụ được khắc trên vách đá gồm Đại Thạch Pháp dụ (Major Rock Edicts) và Tiểu Thạch Pháp dụ (Minor Rock Edicts). Các pháp dụ được khắc trên trụ đá được gọi là Thạch Trụ Pháp dụ (Pillar Edicts). Cho đến nay người ta phát hiện có 14 đại thạch pháp dụ mang nội dung rất rộng rãi từ việc hạn chế sát sinh đến cung cấp các dịch vụ phúc lợi và y tế, rồi đến cuộc chiến Kalinga và những tác dụng của nó. Lại thêm hai pháp dụ Kalinga được ban ra vào năm 259 TCN mà nội dung tương tự như 3 pháp dụ đã bị hư hỏng, là các pháp dụ số XI: nói về việc cứu tế và sự tương thân của nhân loại, số XII: nói về sự khoan dung tôn giáo và số XIII: nói về cuộc chiến tranh ở Kalinga, sự hồi tâm của Asoka. Hai pháp dụ này cũng có lời dành cho các quan cai trị vùng mới chiếm, nói về những vấn đề đạo đức, thi hành công lý, vấn đề làm giảm căng thẳng với lân bang và cải thiện hòa bình đế quốc. Những Tiểu Thạch Pháp dụ có lẽ đã được ban ra vào năm 260 TCN và là những pháp dụ đầu tiên, cùng lúc với những chuyến vi hành Pháp bắt đầu. Chúng tập trung hầu hết ở
  3. TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA ĐẠI ĐẾ ASOKA... 179 miềnTrung và Nam của đế quốc, tất cả gồm 3 Tiểu Thạch Pháp dụ được tìm thấy ở nhiều nơi trên khắp lãnh thổ của đế quốc. Các Thạch Trụ Pháp dụ được dựng vào năm thứ 26 đến 28 sau khi Asoka lên ngôi, những pháp dụ này được khắc trên những cột đá đánh chà bóng loáng, được dựng lên ở nhiều thành phố quan trọng trong thung lũng sông Hằng và các đường lớn trong đế quốc. Các Thạch trụ Pháp dụ này gồm 7 dụ mà nội dung tương đối đơn giản: bắt đầu bằng hai trụ nói về tự tánh của Chánh pháp, đến 3 trụ nói về sự ứng dụng Chánh pháp vào việc chế ngự ác nghiệp và tham ái, việc truyền bá đạo đức và công lý, và những quy định về việc sát hại súc vật và tiệc tùng công cộng, và kết thúc với một pháp dụ (hoặc 2 như trong trường hợp của trụ Topra thuộc vùng đông Punjab) nói về phương thức truyền bá đạo đức. Ngoài ra còn có các thạch pháp dụ khác được đặt tên theo nơi được tìm thấy hay còn được gọi là Tiểu Thạch trụ Pháp dụ bởi vì nội dung khắc trên đó rất ngắn. Hiện nay, người ta phát hiện có 3 Tiểu Thạch trụ Pháp dụ (trụ Allahabad, trụ Sarnath, trụ Lumbini). 2. VAI TRÒ CỦA ĐẠI ĐẾ ASOKA THÔNG QUA VIỆC KHẢO CỨU NỘI DUNG CÁC THẠCH PHÁP DỤ Về chính trị Asoka lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước Ấn Độ dưới vương triều Maurya rất khó khăn (vua cha vừa mới băng hà, người anh kế vị lại vụng về, thiếu năng lực nhiếp chính, đất nước xảy ra loạn lạc, tranh giành ngôi vị diễn ra,…). Với tài năng và uy tín của mình Asoka đã dẹp yên các cuộc nhiễu loạn, ổn định tình hình chính trị đất nước và lên ngôi vua. Hơn nữa, ông không hẳn là một vị vua tàn ác, bạo chúa, là một Candasoca (Asoka bạo chúa) như một số tài liệu đã ghi chép, chỉ vì ngôi báu mà giết chết 99 người anh em của mình. Tài liệu Thạch pháp dụ cho ta một cái nhìn khác: “…Họ được ủy nhiệm làm việc khắp nơi, ở đây, ở những thị trấn xa xôi, trong những hậu cung thuộc các bào huynh hay bào tĩ của trẫm và hoàng tộc…” [3, tr. 64] như vậy ở đây Asoka có nhắc đến anh em của mình. Hơn nữa, theo từ điển Phật học Huệ Quang cũng nói rằng: “theo chương 4,5,6 của pháp sắc khắc trên vách đá lớn, chương 7 trong pháp sắc khắc trên trụ đá và trong pháp sắc của Hoàng hậu đều chép rằng: Thời gian vua Asoka trị vì còn có anh em, chị em. Cho nên những truyền thuyết trên có thể do đời sau nói quá” [1, tr. 23]. Về điều này, nhiều học giả tin rằng, trong cuộc tranh ngôi đó chỉ có một người anh em của ông bị mất. Hơn nữa trong Đại thạch Pháp dụ số V thì rõ ràng trong những năm Asoka trị vị ông vẫn còn anh chị em. Tóm lại, Asoka không hẳn là một bạo chúa mà ông vẫn còn anh em và luôn khoan dung, yêu thương đối với họ. Một đóng góp quan trọng nữa của Asoka đó là ông đã “kết nối giữa chính trị và tôn giáo” [5, tr. 27]. Asoka nói rằng ông là “Người con yêu quý của các thần linh” (Priyadasi). Xét từ một góc độ, quan điểm này giống với quan niệm về vương quyền của Bàlamôn giáo: một vị vua trị vì hợp pháp phải có “phả hệ” từ thần linh, với huyết thống truyền thừa mang tính đẳng cấp, có sự chứng nhận và ban phép của tu sĩ Bàlamôn. Có thể Asoka không ảnh hưởng quan niệm này của Bàlamôn giáo, nhưng khi
  4. 180 HUỲNH CÔNG MINH ở một vương quốc mà niềm tin vào thần linh và sự kết nối giữa thần linh và con người vẫn còn phổ biến, thì việc thông báo đến với mọi người rằng mình là “Người con yêu quý của các thần linh” là cần thiết để duy trì sự hợp pháp của một vị đế vương. Bởi vậy, Asoka không chỉ là một vị vua nắm vương quyền tuyệt đối, có quyền lực tập trung trong tay mà ông còn nắm cả thần quyền, nhà vua được thần thánh hóa. Đây là một biểu hiện của thể chế chính trị quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Tuy nhiên, là một Phật tử và ủng hộ Phật giáo hết mình, trong đời sống thực tế, Asoka đã tạo nên một mối liên hệ thay thế mối liên hệ giữa người trị vì và người đại diện cho thần linh là tu sĩ Bàlamôn, đó là mối liên hệ giữa hoàng gia và Tăng đoàn. Nhà vua tìm lấy sự ủng hộ từ Tăng đoàn Phật giáo để duy trì sự trị vì đất nước của mình. Hoàng gia và tăng đoàn, cùng nương tựa vào nhau để tồn tại. Tuy nhiên, các tăng sĩ không được tham gia vào đời sống chính trị, nhiệm vụ của họ là thiết lập một xã hội có đạo đức bằng việc truyền bá những giá trị đạo đức của Phật giáo. Và nhà vua sẽ hỗ trợ tăng đoàn bằng việc cúng dường các nhu yếu phẩm, xây dựng chùa tháp và gửi đi các phái đoàn truyền giáo. Khái niệm “Chuyển luân thánh vương” 1 (Cakkavatti) xuất hiện trong tư tưởng Phật giáo cũng được cho là bắt đầu từ thời vua Asoka. Quan điểm một đất nước rộng lớn đứng dầu với một vị Chuyển luân thánh vương cùng tồn tại bên cạnh một Tăng đoàn Phật giáo với Đức Phật đại diện - một đại diện cho đời sống thế tục và một đại diện cho đời sống tâm linh – là một mô hình chính trị mới của Asoka. Nhưng Chuyển luân thánh vương không chỉ có quyền lực ở lĩnh vực thế tục, mà cũng còn được thần thánh hóa và vị trí được nâng cao ngang tầm với một vị Giáo chủ tôn giáo. Về xã hội, văn hóa – giáo dục Về xã hội, ông đã bước đầu thực hiện được lý tưởng mà ông suốt đời theo đuổi đó là đảm bảo hạnh phúc vật chất và tâm linh cho toàn thế giới, bao gồm cả người và súc vật, không những trong vương quốc của mình, mà trong cả thế giới mà ông được biết hay là có quan hệ. Asoka đã đặc ra sắc lệnh thành lập các nhà thương không chỉ cho con người mà còn cho cả súc vật ở khắp nơi trên lãnh thổ Ấn Độ và ngay cả ở một số vùng ở Châu Phi và Châu Âu. Như Đại thạch Pháp dụ II có ghi rằng:“Khắp nơi thuộc lãnh thổ do Thiên tử, Vua Piyadasi cai trị, và dân cư ngoài biên ải như dân Cholas, dân Pandyas, dân Satiyaputras, dân Keralaputras, và xa hơn nữa dân Tamraparni, và ở xứ Yona (Hy-lạp) do vua Antiyoka cai trị, và vua các xứ lân cận với vua Antiyoka. Thiên tử, Vua Piyadasi ban cho hai loại săn sóc y tế: cho người và cho thú” [3, tr. 59]. Đây là những nhà thương sớm nhất trên thế giới. Chúng ta đều biết nhà thương sớm nhất do người phương Tây xây dựng là nhà thương Diu ở Paris (Pháp) vào thế kỷ thứ VII, nghĩa là khoảng 1000 năm sau các nhà thương của Asoka. Nhà xã hội học người Đức Max Weber cho rằng, lần đầu tiên trong xã hội Hindu xuất hiện khái niệm “hệ thống phúc lợi xã hội” và “lợi ích công cộng” [4, tr. 242]. Đây quả thật là công lao rất to lớn của vua Asoka. 1 Khái niệm xuất hiện ở kinh Pali, như kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống (Trường bộ), tuy nhiên điều này được cho là bổ sung về sau, bởi trước thời Asoka, Ấn Độ là một tập hợp các tiểu vương quốc, không hề có một tiểu lục địa rộng lớn với biên giới địa lí nối từ bờ biển này đến bờ biển kia, mà nó làm cơ sở cho khái niệm Chuyển luân thánh vương cai trị một cõi đế quốc rộng lớn (Asoka).
  5. TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA ĐẠI ĐẾ ASOKA... 181 Một đóng góp nữa về mặt xã hội là ông rất chú trọng và đề cao công việc từ thiện. Asoka đã ban hành những sắc lệnh như: Trồng các loại cây thảo dược để trị bệnh cho nhân dân, đào giếng nước để cung cấp nguồn nước cho mọi người sinh hoạt, xây dựng đường xá, bổ nhiệm các chức quan lo việc phúc lợi xã hội,… Bố thí là một trong những chính sách được Asoka rất chú trọng, không chỉ bố thí cho người nghèo, mà còn “bố thí” cho các tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo. Theo nội dung của Thạch pháp dụ số VII có chép rằng: “Trong những lần như thế, các việc sau dã được làm: viếng thăm và quà tặng cho các bậc tu hành, viếng thăm và tặng tiền vàng cho người già, viếng thăm dân thôn quê…” [3, tr. 67] đã chứng tỏ rằng nhà vua rất quan tâm đến việc bố thí, cúng dường cho các tôn giáo. Việc xây dựng chùa tháp, tịnh xá, cúng dường cho Tăng đoàn, một mặt thể hiện tín tâm của một người Phật tử, nhưng mặt khác nhằm tạo nên sự phụ thuộc và khiến cho người nhận phải trung thành với nhà vua. Về văn hóa giáo dục, Asoka đã đem giáo lý của tôn giáo mà chủ yếu là của Phật giáo dạy dỗ cho dân chúng, phổ cập trong xã hội bằng những hình thức như thực hành năm giới tại gia, sống tri túc, hòa giải và an lạc. Điều đáng chú trọng là đích thân nhà vua trai giới, khuyên mọi người không nên sát sanh, dạy mọi người biết sống theo nếp sống văn hóa, tôn trong lẫn nhau, kính trọng những người già cả, cha mẹ anh em, thương yêu kẻ tàn tật, và khuyến khích làm việc thiện. Theo Đại thạch pháp dụ số XI có ghi: “Và nó bao gồm những điều này: đối xử tử tế với nô tì và gia nhân, kính trọng cha mẹ, hào phóng với bạn bè, phối ngẫu, bà con, các bậc tu hành, và đừng sát sinh. Vì thế một người cha, một người con, một người anh em, một người chủ, một người phối ngẫu, hay một người hàng xóm nên bảo rằng: “Điều này có phước đức, nên làm”. Bằng cách biếu quà Chánh pháp, người ta được lợi lộc ngay trong đời này và vô lượng phước đức trong đời sau” [3, tr. 71-72]. Đặc biệt, Asoka đã quan tâm đến việc học tập giáo lý của Đạo Phật cho phụ nữ để họ trở thành những “Tỷ Khưu Ni” và “Ưu Bà Di”(chỉ những cư sĩ nữ của Phật giáo). Trong Tiểu Thạch Pháp dụ III có ghi: “…kính thưa chư vị trẫm muốn tất cả Tỷ Khưu và Tỷ Khưu Ni (tăng và ni) nên thường tụng niệm. Những Ưu Bà Tắt và Ưu Bà Di (cư sĩ nam và nữ) cũng nên làm như thế. Trẫm cho ghi Pháp dụ này để chư tôn đức hiểu được ý trẫm” [3, tr. 87] đã nhắc đến chỉ dụ của Asoka về việc các cư sĩ nữ phải thường xuyên tụng niệm những giáo lý của Đạo Phật. Đây quả là một điểm rất tiến bộ của xã hội Ấn Độ thời bấy giờ. Về tôn giáo. Về tôn giáo, “vua Asoka tỏ ra rất khoan dung về mặt tín ngưỡng tôn giáo, ông không hề bức hại các tôn giáo hay giáo phái khác”[7, tr. 240]. Dưới triều đại Asoka, có nhiều tôn giáo cùng tồn tại, và sự xung khắc giữa các tôn giáo cũng đã xảy ra. Mặc dù tuyên bố mình là một Phật tử, nhiệt tâm ủng hộ Tăng đoàn và mạnh mẽ hỗ trợ phát triển Phật giáo, Asoka kêu gọi dân chúng nên kính trọng tôn giáo của nhau. Những sắc lệnh của ông trên các bia ký và trụ đá đã thể hiện sự kính trọng đối với mọi tôn giáo, mà không hề có sự bài xích bất cứ tôn giáo hay giáo phái nào. Những sắc lệnh trên bia ký ở Thạch trụ Pháp dụ VII khuyên dân chúng nên kính trọng và rộng lượng đối với các Sa môn và
  6. 182 HUỲNH CÔNG MINH Bàlamôn. Riêng bản thân mình, dù đã là một tín đồ Phật giáo, Asoka vẫn cúng dường cho các giáo phái khác, chẳng hạn như Ajivka, một giáo phái thường có những xung khắc với Phật giáo. Theo sắc lệnh ở Thạch trụ Pháp dụ VII có ghi: “Thiên tử, Vua Piyadasi phán rằng: Những Pháp Đại thần của trẫm bận rộn với những công tác giúp đở các bậc tu hành và cư sĩ các tôn giáo. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống Tăng già. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống của các tu-sĩ Bà-la-môn và đạo-sĩ Ajivika. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống của Niganthas. Trẫm ra lệnh cho họ nên chăm lo cho đời sống của các tông phái khác” [3, tr. 97-98]. Sắc lệnh trên các bia ký VII, XII cũng đưa ra những lời lẽ tương tự, kêu gọi các tôn giáo hãy nên khoan dung với nhau. Không chỉ những người khác tôn giáo, những người chung tôn giáo nhưng khác bộ phái cũng cần nên như vậy. Sắc lệnh ở Đại thạch pháp dụ XII ghi rằng: “Dù bất cứ lý do nào, tín ngưỡng của kẻ khác cần phải được tôn vinh. Có như vậy thì tôn giáo của mình cũng được lợi lộc, và tôn giáo của kẽ khác nữa. Ngược lại thì tôn giáo của mình bị tổn hại, và tôn giáo của kẽ khác nữa. Kẽ nào huyênh hoang về tôn giáo của mình vì cuồng tín vào phỉ báng tôn giáo kẽ khác với ác ý “Để ta làm vinh quang đạo của ta”, thì chỉ làm tổn hại đến tôn giáo của mình. Vì thế, sự hòa đồng tôn giáo là điều tốt. Ai cũng phải lắng nghe và tôn kính giáo lý của đạo khác” [3, tr. 72- 73]. Ở trong một xã hội có nhiều tôn giáo tồn tại, có cạnh tranh và xung đột, khoan dung tôn giáo là cần thiết để giữ cố kết xã hội. Asoka nói rằng sự quan tâm của ông về vấn đề khoan dung là vì lợi ích của toàn dân. Thực chất của chính sách tôn giáo có thể biểu lộ rõ qua lời nói sau đây của nhà vua: “Nghi lễ tôn giáo có thể đem đến cho người ta sự bổ ích. Đó là thái độ thích dáng đối với nô lệ và những kẻ hầu hạo, lòng tôn kính đối với cha mẹ và thầy giáo, lòng độ lượng đối với mọi sinh vật, lòng nhân từ đối với Bàlamôn” [7, tr. 240-241] Điều đó nói rõ mục đích Asoka truyền bá đạo Phật và tôn đạo Phật làm quốc giáo là nhằm tìm chỗ dựa vững chắc cho nền thống trị chuyên chế của mình. Tóm lại, Asoka là một nhân vật lịch sử vĩ đại, ông là người “Vĩ đại trong mọi mặt, ông không chỉ là người vĩ đại nhất trong số những người Maurya, mà cũng là một trong số ít ngững người trị vì vĩ đại nhất thế giới” [6, tr. 247]. Ông lên ngôi trong hoàn cảnh đất nước khó khăn nhưng với tài năng và uy tín của mình ông đã ổn định tình hình chính trị đưa vương triều Maurya phát triển đạt đến cực thịnh. Đồng thời, Asoka đã ban hành các thạch pháp dụ đem lại rất nhiều quyền lợi cho nhân dân. Thông qua việc khảo cứu nội dung của các thạch pháp dụ này có thể khẳng định ông có nhiều đóng góp trên nhiều lĩnh vực như chính trị, xã hội, văn hóa giáo dục, đặc biệt là tôn giáo nhất là Phật giáo. Phật giáo dưới thời Asoka không chỉ trở thành quốc giáo ở Ấn Độ mà còn trở thành một tôn giáo thế giới vào thế kỷ III TCN.Và “Người trị vì phi thường này, vẫn được yêu quý ở Ấn Độ và nhiều khu vực khác ở châu Á, đã hiến dâng đời mình cho việc truyền bá giáo pháp của Đức Phật, cho sự công bằng và thiện chí, và cho những công việc chung vì lợi ích của con người. Ông không phải là một khán giả thụ động của các sự kiện, mê man trong trầm tư và phát triển riêng tư. Ông đã lao động tích cực vì công việc cộng đồng và tuyên bố sẵn lòng cho điều đó” [2, tr. 136].
  7. TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA ĐẠI ĐẾ ASOKA... 183 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Thích Minh Cảnh (2003). Từ điển Phật học Huệ Quang, Tập 1, NXB Tổng Hợp, TP. Hồ Chí Minh. [2] Jawaharlal Nerul (2004). The Discovery of India, New Delhi: Penguni Books. [3] Trần Trúc Lâm (2007). Những Hộ pháp vương của Phật giáo trong lịch sử Ấn Độ, NXB Phương Đông, TP. Hồ Chí Minh. [4] Max Weber (2007). The Religion of India: The Socciology of Hinduism, Delhi: Munshirsm Manoharla. [5] Huỳnh Công Minh (2013). Tìm hiểu các Thạch pháp dụ của vua Asoka (269 – 232 TCN), Báo cáo tông kết đề tài nghiên cuu khoa học công nghệ cấp khoa, Trường Đại học Sư phạm Huế. [6] K.A. Nilkanta Sastri (1998). Age of the Nandas and Mauryas, Delhi: Motilal Banaridass. [7] Chiêm Tế (2000). Lịch sử thế giới cổ đại, Tập 1, NXB Đại học quốc gia, H. HUỲNH CÔNG MINH SV lớp Sử 4B, khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ĐT: 0165 905 0748, Email: huynhcongminh19b5@gmail.com
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2