intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tìm hiểu về lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng: Phần 1

Chia sẻ: Hoa La Hoa | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:66

100
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện và hệ thống lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng. Tài liệu thể hiện tâm huyết, tinh thần lao động khoa học nghiêm túc và tình yêu đến mức say mê các sáng tác của Nguyên Hồng của Lê Hồng My - Một nhà nghiên cứu văn học trẻ. Tài liệu được chia làm 2 phần. Phần 1 với nội dung là phương thức tổ chức lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng. Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tìm hiểu về lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng: Phần 1

  1. LÊ HỒNG MY LỜI VĂN NGHỆ THUẬT NGUYÊN HỒNG NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
  2. 775-20061CXB/14-17921GD Mã số : PVK53B6
  3. Lời giới thiệu Nguyên Hồng (1918 – 1982) - một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, một cấy bút hiện thực xuất sắc, nhà văn của những người cùng khổ, của cát bụi và ánh sáng, của tình yêu thương tha thiết và niềm tin tưởng mãnh liệt dành cho những con người ở dưới đáy của xã hội cũ… Người ta đã gọi Nguyên Hồng bằng rất nhiều danh hiệu cao quý, thể hiện lòng yêu mến và sự cảm phục đối với một nhà văn sống và viết bằng trái tim, trong mỗi trang viết đều thấm đượm tinh thần nhân đạo. Với gần năm chục năm lao động nghệ thuật cần mẫn, bền bỉ, dẻo dai, Nguyên Hồng có một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Vì thế, sự nghiệp văn học của ông đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu lí luận, phê bình văn học với hàng chục công trình nghiên cứu lớn nhỏ. Dường như mọi phương tiện sáng tác của Nguyên Hồng, từ nội dung đến hình thức, từ tư tưởng đến bút pháp, phong cách và cả một số phương diện ngôn ngữ nghệ thuật đã được khai thác gần như cạn kiệt. Trong tình hình đó, Lê Hồng My vẫn tìm được một lối đi riêng vào thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng bằng cách tiếp cận sáng tác của nhà văn từ góc độ lời văn nghệ thuật - một phương diện quan trọng của hình thức mang tính nội dung, một hướng tiếp cận đầy triển vọng mà ở nước ta mới chỉ thực sự được chú ý từ mấy năm gần đây. Có thể nới, hướng tiếp cận này của Lê Hồng My là công trình đầu tiên nghiên cứu toàn diện và hệ thống lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, đồng thời cũng là công trình đầu tiên ở Việt Nam tập trung nghiên cứu lời văn nghệ thuật trên phạm vi toàn bộ sáng tác của một tác giả. 2
  4. Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng là một công trình đầy tâm huyết, thể hienẹ tinh thần lao động khoa học nghiêm túc và tình yêu đến mức say mê sáng tác Nguyên Hồng của chị Lê Hồng My, một nhà nghiên cứu văn học trẻ. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc xa gần công trình nghiên cứu này. Hà Nội, ngày 1 tháng 10 năm 2006 GS. TS. Trần Đăng Suyền 3
  5. Lời nói đầu 1. Nguyên Hồng là nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một trong số những đại diện xuất sắc của khuynh hướng văn học hiện thực tiến bộ trước Cách mạng tháng Tám và cũng là một trong những người đầu tiên góp phần xây dựng nền văn học của thời đại mới. Với gần năm mươi năm say mê và khổ công cầm bút, Nguyên Hồng đã để lại một gia tài văn học khá đồ sộ, trong đó có những tác phẩm giá trị. Suốt cuộc đời lao động nghệ thuật, ông đã dốc toàn bộ sức lực và tâm huyết để viết về những người cùng khổ trong xã hội cũ và dựng nên bức tranh nện thực hoành tráng về sự nghiệp cách mạng trọng đại của dân tộc. Ngòi bút Nguyên Hồng cũng góp phần vào không khí sôi động và sự phát triển liên tục, bề thế của văn học nước nhà trong cuộc hành trình thế kỉ XX. Sự nghiệp văn học của nhà văn xứng đáng được ngợi ca, trân trọng. Để tạo sức sống cho những đứa con tinh thần máu thịt của mình, Nguyên Hồng cho biết: ông đã "đổ mồ hôi, sôi máu mắt” trên từng trang viết, đặt vào tác phẩm "cả cuộc đời, trái tim và tâm hồn, nhường, tất cả hơi sức, hi vọng và lòng tin”. Nhờ tâm huyết, tài năng và sự khổ luyện, nhà văn đã đạt được những thành công đáng ghi nhận trong nghệ thuật ngôn từ. 2. Trong nghiên cứu và thưởng thức văn học, điều quan trọng là phải chú ý đầy đủ đến những tồn tòi đóng góp của tác giả về nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ. Nếu không, ta có thể biến việc nghiên cứu một tác giả văn học thành công việc nghiên cứu một nhà tư tưởng, một nhà chính trị "Không nghiên cứu ngôn ngữ là bỏ qua mặt quan trọng của tác giả với tư cách là nghệ sĩ của một loại hình nghệ thuật riêng biệt" [41; tr717]. Xuất phát từ 4
  6. quan niệm đó, tác giả cuốn sách Lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng mong muốn đem đến cho bạn đọc một cách đọc, thẩm bình và thưởng thức văn chương theo đúng bản chất nghệ thuật ngôn từ. Từ góc độ lời văn nghệ thuật, cuốn sách sẽ soi sáng nhiều vấn đề thú vị, hấp dẫn và mới mẻ về thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng. Hiện nay, tác phẩm của Nguyên Hồng đã được đưa vào chương trình các cấp học từ phổ thông đến đại học. Hi vọng cuốn sách này sẽ là một tài liệu tham khảo thiết thực về văn chương Nguyên Hồng; các thầy cô giáo và sinh viên ngữ văn, các em học sinh phổ thông có điều kiện tiếp nhận một cách khoa học và thêm trân trọng những trang viết tâm huyết của nhà văn. Lời văn nghệ thuật là "dạng phát ngôn được tổ chức một cách nghệ thuật, tạo thành cơ sở ngôn từ của văn bản nghệ thuật, là hình thức ngôn từ nghệ thuật của các tác phẩm văn học"(Từ điển thuật ngữ văn học). Thuật ngữ lời văn nghệ thuật rất gần nghĩa với các thuật ngữ ngôn ngữ, ngôn ngữ nghệ thuật ngôn ngữ văn học, lời văn. Đây là những thuật ngữ có nét nghĩa tương tương đồng nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau nên cần có sự phân biệt. Ngôn ngữ là "hệ thống ngữ âm, những từ và quy tắc kết hợp chúng mà những người trong cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau [48; tr666]. Đó mới là chất liệu của tác phẩm văn học chứ chưa phải là lời văn nghệ thuật, hình thức của chỉnh thể thẩm mĩ trọn vẹn. Từ ngôn ngữ đến lời văn nghệ thuật là cả quá trình lao động công phu, gian khổ của nhà văn. Có thể ví ngôn ngữ như tấm vải còn lời văn nghệ thuật là bộ y phục nhà thiết kế đã hoàn thành. 5
  7. Ngôn ngữ nghệ thuật "là một hệ thống các phương thức, phương tiện tạo hình, biểu hiện, hệ thống các quy tắc thông báo bằng tín hiệu thẩm mĩ của một ngành, một sáng tác nghệ thuật. Người ta có thể nói đến ngôn ngữ ba lê, ngôn ngữ chèo, ngôn ngữ điện ảnh. Cũng có thể nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của sáng tác văn học trên cấp độ đó" [46; tr186]. Ngôn ngữ văn học là thuật ngữ dùng để "chỉ một cách khái quát các hiện tượng ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mực trong các văn bản Nhà nước, trên báo chí, đài phát thanh, trong văn hoá, văn học và khoa học" [41;tr149]. Như vậy, các thuật ngữ ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ văn học có nội hàm rộng hơn thuật ngữ lời văn nghệ thuật. Cũng cần phân biệt hai thuật ngữ lời văn và lời văn nghệ thuật.Theo lí luận văn học có nhiều dạng lời văn: "lời văn nghệ thuật, lời văn luật pháp, cũng như lời văn sách vở và ca hát của nhà thờ trong một số thời đại" [51; tr145]. Lời văn nghệ thuật chỉ là một dạng trong đó. Vì vậy phải dùng thuật ngữ lời văn nghệ thuật mới khu biệt rõ lời văn trong tác phẩm văn học. Nếu muốn dùng lời văn thay thế lời văn nghệ thuật theo lối rút gọn thì phải đặt trong văn cảnh cụ thể. Trong thực tế sử dụng, sự phân biệt giữa lời văn nghệ thuật với các thuật ngữ ngôn ngữ, ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ nghệ thuật và lời văn chỉ mang tính chất tương đối. Do có nét nghĩa trùng nhau nên chúng vẫn thường được sử dụng thay thế hoặc tương đương. Song việc phân biệt các thuật ngữ như trên sẽ giúp người đọc ý thức rõ lời văn nghệ thuật là ngôn ngữ mang tính toàn vẹn, cụ thể, sinh động, có giá trị thẩm mĩ trong tác phẩm 6
  8. văn học chứ không phải ngôn ngữ trong các hoạt động giao tiếp khác hoặc ngôn ngữ ở dạng chất liệu của sáng tác văn học. Lời văn nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là hình thức vật chất duy nhất cho sự tồn tại nội dung tác phẩm. Nhờ lớp lời văn mà toàn bộ thế giới nghệ thuật được định hình. Từ yếu tố trực tiếp, đầu tiên, duy nhất ấy người đọc có cơ sở tìm hiểu, khám phá thế giới hình tượng và các lớp nội dung ý nghĩa của văn bản nghệ thuật. Nghiên cứu Mĩ học, đi sâu vào phân tích mối quan hệ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật, Hê-ghen đã từng khẳng định rằng, trong một tác phẩm nghệ thuật, không có cái gì lại không có quan hệ cốt tử với nội dung và không biểu hiện nội dung. Trong mối quan hệ đó, hình thức tác phẩm không phải là chiếc vỏ ngoài thuần tuý mà là phương thức tồn tại và phương tiện biểu hiện của nội dung. So với các yếu tố hình thức khác lời văn nghệ thuật được đánh giá là yếu tố thứ nhất của hình thức tác phẩm, yếu tố mang tính nội dung sâu sắc và trực tiếp nhất, "cả hình tượng nhân vật, bức tranh phong cảnh, cốt truyện, kết cấu, chủ đề, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật về thế giới và con người... chỉ được nắm bắt nhờ những hình thức của ngôn từ” [54;trr70]. Lời văn nghệ thuật còn là phương tiện biểu hiện trực tiếp và rõ nét phong cách nhà văn. M.B.Khrapchenko đã từng lưu ý các nhà phong cách học cần coi trọng lời văn nghệ thuật bởi "ý nghĩa của nó không phải là những cơ sở đầu tiên của tác phẩm văn học mà còn như là hiện tượng của phong cách" [79;tr191]. Vì vậy, hiểu rõ lời văn nghệ thuật sẽ có điều kiện sôi thấu tư tưởng nghệ thuật, thế giới nghệ thuật và phong cách nhà văn. 7
  9. Lời văn nghệ thuật được xây dựng bằng chất liệu ngôn từ và các yếu tố bộ phận nhưng không phải là kết quả sự gắn kết thành phần và phương tiện một cách giản đơn. Từ chất liệu và các yếu tố bộ phận, nhà văn phải dày công kết hợp, sáng tạo mới có được lời văn nghệ thuật, hình thức ngôn từ của tác phẩm văn học mang tính cụ thể sinh động, phù hợp với nội dung sáng tác, có giá trị thẩm mĩ cao. Do đó, tìm hiểu lời văn nghệ thuật cần phát hiện dược lí do nào đã liên kết phát ngôn trở thành lời văn. Người đọc vừa phải đi sâu "cắt lớp" từng bộ phận thành phần, phương tiện của lời văn nghệ thuật, vừa có nhiệm vụ khám phá mối quan hệ hệ thống của nó. Về cơ bản, cần tập trung vào các phương diện sau: Thứ nhất - Phương thức tổ chức lời văn. Lời văn nghệ thuật là một hệ thống cấu trúc chức năng. Mỗi yếu tố bộ phận của nó đều góp phần hiện thực hoá tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, bởi "tư tưởng nghệ thuật không chứa đựng trong bất kì trích đoạn dẫu cho gọn ghẽ nào, mà được diễn đạt trong toàn bộ cấu trúc nghệ thuật” (I.U.M.Lót-man); "Mỗi tư tưởng nghệ thuật được diễn đạt bằng những lời lẽ đặc thù, sẽ đánh mất ý nghĩa, bị mất giá khủng khiếp khi trơ trọi một mình và thiếu đi sự liên kết mà nó hiện diện ở đó , (L.Tôn-xtôi). Để tạo nên hình thức ngôn từ tương ứng với nội dung sáng tác, phản ánh tư tưởng nghệ thuật của mình, nhà văn phải lựa chọn các yếu tố cần thiết từ "kho" nguyên liệu bề bộn rồi sắp xếp, liên kết lại theo những phương thức nhất định. Những phương thức đó quy định cách thức sử dụng phương tiện và sắp xếp thành phần lời văn nghệ thuật theo ý đồ sáng tạo của nhà văn. Lời văn nghệ thuật của mỗi tác giả, tác phẩm có thể do một hoặc một số phương thức tổ chức nhất định. Ví dụ như phương thức giễu nhại trong lời văn 8
  10. Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, phương thức tạo khoảng cách trong lời văn của Nam Cao, phương thức tập Kiều, dẫn Kiều trong bài thơ Kinh gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu v.v... Các nguyên tắc có khi lộ diện, có khi lại chìm trong mạch ngầm văn bản không dễ nhận ra. Vì vậy, cái khó nhất khi nghiên cứu lời văn nghệ thuật không phải là thẩm định các yếu tố trong cấu trúc của nó, mà là tiền ra nguyên tắc chi phối sự hiện diện của mỗi yếu tố trong văn bản. Thực tế cho thấy, chiếm lĩnh phương tiện lời văn là một việc, hiểu được lời văn nghệ thuật là một việc khác. Người ta có thể hiểu ngôn ngữ tác phẩm mà vẫn không hiểu được lời văn của nó. Nếu chỉ chú ý phân tích các phương tiện ngôn ngữ nhà văn đã sử dụng, tập trung vào từ đắt, câu hay mà chưa nhận ra nguyên tắc tổ chức chúng, sẽ không thoát khỏi hiện tượng "thấy cây mà không thấy rừng". L.Tôn-xtôi cũng đã từng khẳng định, cần có những người "thường xuyên hướng dẫn độc giả trong cái mê lộ bất tận của những mối liên kết, nơi tựu thành bản chất của nghệ thuật và theo những quy luật vốn là nền tảng của những mối liên kết ấy” [98; tr31] . Vì vậy, tìm hiểu phương thức tổ chức lời văn có ý nghĩa quan trọng hàng đầu khi nghiên cứu lời văn nghệ thuật. Thứ hai - Các thành phần của lời văn: Từ điển thuật ngữ văn học đã chỉ rõ "Lời thơ, lời trần thuật, lời nhân vật, lời thoại trong kịch và các dạng của chúng đều là các bộ phận tạo thành lời văn nghệ thuật" [44;tr130]. Trong đó "thành phần cơ bản của lời văn nghệ thuật là lời gián tiếp (của người kể chuyện, người trần thuật) và lời trực tiếp (của nhân vật)"' [44;tr130]. * Lời gián tiếp là toàn bộ lời văn của tác giả, của người trần thuật, hoặc người kể chuyện" [46; tr335]. Chức năng của nó "giúp cho các sự vật hiện tượng như ngoại hình, tình trạng, môi 9
  11. trường, phong cảnh, sự kiện... vốn không biết nói, được nói lên trong tác phẩm" [46; tr330]. Về tên gọi, có người gọi đây là lời trần thuật, miêu tả, lời tác giả. Các cách gọi ấy đều chấp nhận được một cách ước lệ vì tất cả đều do tác giả viết nên. Trong thực tế nghiên cứu, lời gián tiếp thường được gọi là lời trần thuật. * Lời trực tiếp của nhân vật có thể là lời đối thoại hoặc lời độc thoại. Lời trực tiếp thực hiện nhiều chức năng: chức năng phản ánh hiện thực ở ngoài nhân vật - chức năng như một hành động, sự kiện đối với nhân vật khác - chức năng biểu hiện thế giới bên trong của nhân vật. Lời độc thoại nội tâm là dạng đặc biệt của lời trực tiếp, đóng vai trò chính trong việc phản ánh nội tâm nhân vật. Các thành phần lời văn có tỉ lệ và vai trò khác nhau trong mỗi thể loại và mỗi tác phẩm văn học. Hiệu quả nghệ thuật của chúng phụ thuộc rất nhiều vào sở trường và năng lực sáng tạo của nhà văn. Thứ ba - Các phương tiện của lời văn nghệ thuật: Khi xây dựng tác phẩm, nhà văn phải vận dụng toàn bộ các khả năng và phương tiện diễn đạt của ngôn ngữ toàn dân. Các bình diện ngữ âm (hiệp vần, thanh điệu ), các phương tiện từ vựng (thực từ, hư từ...), cú pháp (câu đơn, câu phức, câu rút gọn, câu đặc biệt...), các phương tiện và biện pháp tu từ (nhân hoá, so sánh, tượng trưng, liệt kê, trùng điệp...) đều có khả năng kiến tạo lời văn nghệ thuật. Ở mỗi tác giả, tác phẩm, các phương tiện đó lại được vận dụng sáng tạo, linh hoạt để tạo nên hình thức ngôn từ độc đáo, không bao giờ lặp lại. Những vấn đề cơ bản về lời văn nghệ thuật được nêu trên là 10
  12. công cụ chính giúp chúng tôi đi sâu tìm hiểu, khám phá lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng. Đến với lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng, chúng tôi tập trung vào mục đích khám phá các phương thức tổ chức, đặc điểm và đặc sắc của lời văn; khám phá mối quan hệ giữa tư tưởng nghệ thuật và lời văn nghệ thuật, xác định vai trò của lời văn nghệ thuật đối với thế giới nghệ thuật và phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng. LÊ HỒNG MY 11
  13. Chương một PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC LỜI VĂN NGHỆ THUẬT CỦA NGUYÊN HỒNG Cụ thể hoá trường tận, tỉ mỉ, chi tiết đối tượng phản ánh I. TỪ MỤC ĐÍCH VIẾT ĐỂ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC BỀ BỘN, THỂ HIỆN VỐN SỐNG PHONG PHÚ CỦA NHÀ VĂN... Lời văn nghệ thuật có chức năng "tái hiện đời sống, thể hiện sự lí giải, đánh giá, cảm hứng đối với nó. Do đó, nó thường phải làm các đối tượng ngày một cụ thể hơn, lớn lên, bắt rễ sâu vào tâm trí người đọc, [46;tr326]. Nhờ cụ thể hoá đối tượng phản ánh, lời văn nghệ thuật đã tạo nên những hình tượng văn học đẹp đẽ, hấp dẫn, vừa chân thực, sinh động, vừa có sức khái quát cao, chứa đựng những ý nghĩa nhân sinh sâu sắc Đọc Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, khó ai quên được chương truyện kì tài miêu tả sân quần của bà Phó Đoàn. Quang cảnh lễ khánh thành sân quần được mở ra bằng những hình ảnh thật ấn tượng: "Trên rặng lưới của cái sân quán còn mới nguyên như một cô gái còn tân, người ta thấy một... hai.... ba... bốn cái quần, quần đùi, quần ngủ, quần ra phố, quần ở nhà, cái nào cũng bằng lụa, hoặc trơn, hoặc thêu đăng ten, những cái có thể khiến những ông cụ già trông thấy cũng phải lai láng lòng xuân". Trong bức hoạ ngôn từ độc đáo này, Vũ Trọng Phụng đã cụ thể hoá đối tượng miêu tả bằng hàng loạt các yếu tố: vị trí, số lượng, chất liệu, chủng loại của... những cái quần. Từng cái, từng cái... phấp phới trên sân, phơi trần ra trước bàn dân thiên hạ, đập vào mắt 12
  14. các quý ông quý bà danh giá. Mỗi từ ngữ trong đoạn văn miêu tả đều góp phần làm thành những tấm biểu ngữ trưng bày tinh thần thể thao Âu hoá rởm của giới thượng lưu trong xã hội đương thời, đồng thời góp thêm tiếng cười nhọn sắc vào chuỗi cười đả kích giòn giã của Số đỏ. Đó chỉ là một trong số muôn vàn đối tượng được cụ thể hoá qua lời văn nghệ thuật. Nhờ cụ thể hoá, chủ đề của tác phẩm không bị xơ cứng, mỗi tác phẩm văn học trở thành một sinh thể nghệ thuật sống động. Cụ thể hoá cũng giúp cho nhà văn có được khả năng vô hạn để phản ánh hiện thực, ở cả bề rộng và chiều sâu, cả tầm khái quát và trong từng chi tiết nhỏ nhất. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, cụ thể hoá trong lời văn nghệ thuật là cụ thể hoá có hướng. Mỗi yếu tố được chọn lựa đưa vào lời văn nghệ thuật phải vừa tái hiện sinh động bức tranh đời sống, vừa hướng vào chủ đề tư tưởng và cảm hứng chủ đạo của tác phẩm. Vì vậy, cụ thể hoá có hướng luôn đi kèm sự tỉnh lược. Tỉnh lược là lược bót đi một số phương diện nào đó của đối tượng phản ánh bỏ qua những chi tiết không cần thiết có thể làm mờ nhạt chủ đề tư tưởng, tập trung vào những yếu tố phục vụ tốt nhất ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Chẳng hạn, trong Số đỏ, sau khì giới thiệu đôi lời về việc khởi công xây dựng sân quần của bà Phó Đoàn, người viết đã cố tình im lặng, bỏ qua quá trình xây dựng sân quần (người xây, nguyên vật liệu, giá thành...) đi thẳng vào miêu tả lễ khánh thành sân quần để tạo tình huống trào phúng bất ngờ, thú vị. Trong lời văn nghệ thuật, cụ thể hoá có hướng và sự tỉnh lược luôn gắn kết, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Cụ thể hoá làm cho hình tượng nghệ thuật trở nên sống động, hấp dẫn. Tỉnh lược giúp mạch văn không bị rối, lời văn hàm súc, chủ đề tư tưởng 13
  15. được khắc sâu. Cụ thể hoá có hướng và sự tỉnh lược giống như một biểu thức nghệ thuật, kết quả phụ thuộc vào mức độ sử dụng, kết hợp chúng. Từ biểu thức nghệ thuật chung, mỗi nhà văn có sự vận dụng của riêng mình cho. phù hợp với năng lực, sở trường, cá tính sáng tạo và nhiệm vụ nghệ thuật của từng tác phẩm. Nguyên Hồng cũng đã có một lối đi riêng trên lộ trình chung. Trong lời văn nghệ thuật của ông, cụ thể hoá luôn có xu hưng tỉ trội hơn sự tỉnh lược. Cảnh vật, sự việc, nhân vật thường được tác giả dừng lại miêu tả, tường thuật kĩ lưỡng. Dường như Nguyên Hồng không đanh dứt bút khỏi một đối tượng nào đó khi nó mới là đôi nét phác thảo mờ nhạt. Sự tỉnh lược thường xuất hiện chậm, sau khi nhà văn đã trình bày tới mức bão hoà (có khi quá mức bão hoà) các chi tiết về đối tượng với một lượng từ ngữ đáng kể. Cụ thể hoá đối tượng phản ánh từ mức tối đa là phương thức tổ chức lời văn nghệ thuật của Nguyên Hồng, một phương thức thống nhất xuyên suốt toàn bộ hệ thống lời văn. Phương thức này rất phù hợp với tư tưởng nhân đạo hướng về những người cùng khổ và mục đích sáng tác mà Nguyên Hồng đã xác định từ khi bắt đầu cầm bút: tôi mượn Tám Bính để đưa ra giữa ánh sáng ban ngày của Trái Đất một sự thật trong những sự thật của một hạng người, một số người. Tôi mượn Tám Bính để làm cho nhiều người thấy có một sự thật trong những sự thật như thế của xã hội" (Bước đường viết văn). Chọn con đường viết văn để phản ánh sự thật, ngay từ đầu, Nguyên Hồng đã là một nhà văn hiện thực. Cũng như các nhà văn cùng khuynh hướng, Nguyên Hồng tự nguyện gánh vác trách nhiệm "người thư kí trung thành của thời đại", nỗ lực dùng ngòi bút để 14
  16. phơi bày, phản ánh hiện thực, nhằm làm cho bức tranh đời sống hiện lên với tất cả sự bề bộn phong phú và trong từng chi tiết cụ thể của nó. Không những thế, ở Nguyên Hồng, trách nhiệm của nhà văn hiện thực đã có sự gặp gỡ, kết hợp với tinh thần nhận đạo tha thiết, mãnh liệt trong ông. Tấm lòng yêu thương những người nghèo khổ trong xã hội cũ như đám thợ thuyền, phu phen, những người phụ nữ goá bụa, những kẻ lưu manh tội lỗi, đám trẻ mồ côi lang thang nơi đầu đường xó chợ đã thôi thúc Nguyên Hồng cầm hút ông viết về họ bằng tình cảm da diết, mãnh liệt và thường trực của tâm hồn. Nguyên Hồng có thể không giống Nguyễn Công Hoan ở khả năng nắm bắt tài tình các tình huống trào phúng để cười đời; không bằng Ngô Tất Tố ở thái độ tỉnh táo khách quan trước hiện thực; kém Nam Cao trong năng lực khái quát, triết lí cuộc sống, nhưng không thể xếp ông sau bất cứ nhà văn nào về sự gắn bó sâu sắc với người lao động. Lời nhân vật Huyên trong tác phẩm Cuộc sống của ông đã soi sáng nguồn tình cảm thiêng liêng đó: "Người! Những con người cần lao yên lặng và chăm chỉ nỗ lực sống kia, ai có thể xa được? Có chăng khi nào tím ta hết rung động, nghĩa là ta chết thì ta mới đi ra khỏi họ, không dự mật thiết vào những vui sướng đau buồn...của họ". Chính vì những con người đó mà ông viết. Nhà văn xác định: "Tôi sẽ viết về những cảnh đau khổ, về sự áp bức, về nỗi trái ngược bất công. Tôi sẽ đứng về phía những con người lầm than bị đầy đoạ, bị lăng nhục. Tôi sẽ vạch trần ra những vết thương xã hội, những việc làm bạo ngược, lộng hành của xã hội thời bấy giờ” (Bước đường viết văn). Tư tưởng nghệ thuật và mục đích sáng tác đã chi phối trực tiếp, sâu sắc phương thức tổ chức lời văn nghệ thuật. Cụ thể hoá tới mức tối đa đối tượng phản ánh giúp ông có thể mô tả tới tận cùng nỗi cực khổ của 15
  17. những kiếp người bị xã hội thực dân phong kiến đày đoạ tàn nhẫn và chuyển tải cho hết cái xô bồ đến hỗn tạp của cuộc sống đô thị đương thời. Bên cạnh đó, vốn sống phong phú và cá tính sáng tạo của nhà văn cũng góp phần hình thành phương thức tổ chức lời văn. Nguyên Hồng từng nói rằng chất liệu sáng tạo nghệ thuật của ông được lấy từ "mỏ quặng" cuộc đời không bao giờ vơi cạn. Cuộc sống nghèo khổ lăn lộn với đời mang lại cho ông vốn sống vô cùng phong phú. Có bao nhiêu tư liệu tích luỹ được, ông đều muốn chuyển tải cật lực vào trang sách và truyền đến cho người đọc. Nhu cầu nói cho đã, cho thoả những điều chất chứa trong lòng khiến Nguyên Hồng không thể cầm chừng ngòi bút khi viết, đúng như Nguyễn Minh Châu đã nhận xét: "Không thể nào có ở trên đời một Nguyên Hồng có chừng mực", cho nên lời văn của ông "bất cứ chữ nào, câu nào cũng chứa đựng một hình ảnh cụ thể đến mức có thể sờ mó được đến từng góc cạnh". Tóm lại, phương thức cụ thể hoá đối tượng phản ánh tới mức tối đa trong lời văn nghệ thuật Nguyên Hồng được hình thành chủ yếu từ mục đích viết để phơi bày, phản ánh hiện thực với tất cả sự bề bộn phong phú của nó; từ vốn sống giàu có và nhu cầu thể hiện đầy đủ, sâu sắc đến tận cùng nỗi khổ đau của người lao động trong xã hội cũ - những nhu cầu và mục đích sáng tác đã mang lại nhiệt huyết cho Nguyên Hồng trong suốt một đời văn. II. ĐẾN PHƯƠNG THỨC CỤ THỂ HOÁ TƯỜNG TẬN, TỈ MỈ, CHI TIẾT ĐỐI TƯỢNG PHẢN ÁNH TRONG LỜI VĂN NGHỆ THUẬT 1. Thể hiện trên các cấp độ cấu trúc lời văn. Trong tổng thể sáng tác, Nguyên Hồng để lại trên năm ngàn 16
  18. trang viết, trong đó hai tập thơ Trời xanh và Sông núi quê hương chỉ chiếm gần 100 trang. Số lượng còn lại là của truyện ngắn, tiểu thuyết và kí (gồm cả hồi lá và bứt kì). Về bản chất thể loại, kí là biến thể của tự sự Vì thế, sáng tác của Nguyên Hồng chủ yếu là tự sự, loại hình có khả năng phản ánh hiện thực sâu rộng nhất. Nhà nghiên cứu văn học G.N. Popspelov từng khẳng định: "Loại văn tự sự thời đại này sang thời đại khác ngày càng bỏ xa lối biểu hiện cô đọng, khái quát. Thế giới sự vật (theo nghĩa rộng) được miêu tả ngày càng nhiều và càng chắc nịch trong các chi tiết" [51; tr379]. Thế mạnh của tự sự rất phù hợp với nhu cầu sáng tạo của Nguyên Hồng. Với loại hình tự sự, Nguyên Hồng có điều kiện phản ánh cuộc sống một cách hiệu quả nhất, lời văn có thể hướng vào một chi tiết nhà văn muốn tái hiện dựa trên ưu thế thể loại. Hướng vào văn xuôi tự sự, trong đó, Nguyên Hồng tập trung nhiều nhất cho tiểu thuyết. Tác phẩm khi bắt đầu cầm bút của Nguyên Hồng (Bỉ vỏ), tác phẩm dành nhiều thời gian và tâm huyết nhất (Cửa biển) cho đến tác phẩm cuối đời (Núi rừng Yên Thế) đều là tiểu thuyết. Càng viết, Nguyên Hồng càng tập trung vào thể loại này. Từ khi viết Cửa biển,Nguyên Hồng gác lại hẳn thể loại truyện ngắn. Ông có làm thơ, viết kí, nhưng bút lực dồn vào tiểu thuyết. Ngoài các tác phẩm đúng "khung" thể loại tiểu thuyết như đã kể trên, nhiều truyện vừa, truyện ngắn, hồi kí của Nguyên Hồng có xu hướng "tiểu thuyết hoá" trở thành những đoạn thiên tiểu thuyết như Ngọn lửa, Vực thẳm, Đêm giải phóng, v.v... Giữa đặc điểm thể loại tiểu thuyết và nhu cầu sáng tạo của Nguyên Hồng đã có sự gặp gỡ. Về phương diện thể loại , tiểu thuyết là "Tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đối sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian, có thể 17
  19. phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, - những bức tranh phong tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng" [44;tr222]. Tiểu thuyết được xác định là hình thức nghệ thuật thuận lợi nhất của chủ nghĩa hiện thực để tạo nên "bức tranh rộng rãi của toàn thế giới" (Hê-ghen). Trong khả năng ấy, lời văn tiểu thuyết có thể dựng nên những bức tranh đời sống phong phú, phức tạp, trình bày tường tận tiểu sử, diện mạo, suy tư của nhân vật, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, tâm trạng của con người. Thể loại tiểu thuyết còn được đẩy lên mức "vượt khung", điển hình là bộ trường thiên tiểu thuyết Cửa biển tới bốn tập, dài hơn nhiều lần những tác phẩm cùng viết về hiện thực xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám như cuốn Mưa năm của Tô Hoài, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi. Với dung lượng lớn của lời văn trong bộ tiểu thuyết, tác giả có điều kiện vừa mở rộng tầm bao quát hiện thực, vừa đi sâu miêu tả, phản ánh từng sự kiện, từng nhân vật, cụ thể hoá tường tận, tỉ mỉ, chi tiết đối tượng phản ánh. Điều đó từng có nhiều ý kiến ghi nhận: "Nguyên Hồng đã tả lại cuộc đói khổ cực của những người nghèo khổ trong xã hội trước Cách mạng với một sức tái hiện mạnh mẽ lạ thường"(Như Phong), Nguyên Hồng đã "miêu tả chi tiết và sinh động trại tù đàn bà ở Hà Giang...,các nhân vật phụ được cá thể hoá rõ rệt, có lí lịch riêng, có suy nghĩ và hành động riêng" (Phan Cự Đệ); “Trên những trang sách của anh, thành phố Hải Phòng một thời quá khứ lại hiện về đầy rẫy những chi tiết cụ thể cứ theo ngòi bút của anh mà tuôn chảy ra cuồn cuộn" (Nguyễn Đăng Mạnh). Nhiều nhà văn nước ta khi tìm đến thể loại tiểu thuyết cùng triển khai thành bộ, hành tập, nhưng cho đến nay chưa có ai viết tiểu thuyết nhiều bộ, dài tập như Nguyên Hồng. Xây dựng trường thiên tiểu thuyết. Nguyên 18
  20. Hồng có điều kiện cụ thể hoá đối tượng phản ánh trong lời văn nghệ thuật một cách biệt để nhất so với các cây bút văn xuôi hiện đại của ta. Mở rộng phạm vi khảo sát, nghiên cứu, chúng tôi thấy lời thơ Nguyên Hồng cũng chịu sự chi phối của nguyên tắc chung. Cả hai tập thơ của ông đều là thơ tự do với những câu thơ dài, có khi rất dài. Tập Trời xanh có 16 bài với tổng số 829 câu thơ thì tới 439 câu từ tám chữ trở lên, câu dài nhất tới ba mươi nhăm chữ. Thơ Nguyên Hồng là thơ của một nhà tiểu thuyết, văn xuôi đã xâm lấn thơ trên hình thức câu chữ và trong đặc tính thể loại. "Một đặc tính của văn xuôi là nói nhiều (Hoài Thanh - Thi nhân Việt Nam). Sử dụng hình thức thơ tự do, câu thơ gần với câu văn xuôi Nguyên Hồng có thể đưa vào thơ "chất văn xuôi" một cách thuận lợi nhất. Thơ ông có "Những cầu gỗ lá che xanh những đường sỏi son mới đắp/Những gánh củi, gánh rau, những xe phượng hoàng chuyển xi măng gạo thóc"v.v... Lời thơ cũng biểu hiện phương thức tổ chức chung. Nhờ sự tương tác bền vững giữa ngòi bút nhà văn và những thể loại ông đã sử dụng, chúng ta có được "một Nguyên Hồng lực lưỡng (...), người đã đem vào trang sách những muối mặn, mồ hôi và đất bụi của cuộc đời” (Hà Minh Đức). Trong cấu trúc lời văn của từng tác phẩm, phương thức cụ thể hoá của ngòi bút Nguyên Hồng càng thể hiện rõ. Trước hết, nhìn vào đơn vị cơ sở của văn bản là đoạn văn. Nguyên Hồng thường viết đoạn văn dài hơn hẳn so với các nhà văn khác. Điều đó có thể nhận biết ngay bằng trực giác và càng rõ hơn qua khảo sát, so sánh. Tiến hành khảo sát các tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Mười năm của Tô Hoài, Sóng gầm và Cơn bão đã đến của Nguyên Hồng, mỗi tác phẩm khảo sát 192 trang khổ 13 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0