Lƣu Quang Sáng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
118(04): 99 - 102<br />
<br />
TÌM HIỂU VIỆC GIẢNG DẠY VÀ SỬ DỤNG CHỮ HÁN TẠI VIỆT NAM<br />
Lƣu Quang Sáng*<br />
Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
đ<br />
, tuy nhiê<br />
.<br />
Từ khóa: Chữ Hán; tiếng Trung Quốc, giảng dạy chữ Hán; sử dụng chữ Hán, Việt Nam<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ*<br />
Sau khi Việt Nam và Trung Quốc thiết lập<br />
quan hệ ngoại giao, vào những năm 50 và 60<br />
của thế kỷ trƣớc tiếng Trung Quốc là môn<br />
ngoại ngữ số 1 đƣợc giảng dạy tại Việt Nam.<br />
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc giảng<br />
dạy t<br />
một khoảng thời gian, ngày nay số ngƣời Việt<br />
đặc biệt là những ngƣời trẻ tuổi biết chữ Hán<br />
không nhiều. Cùng với sự phát triển của xã<br />
hội, văn hóa phƣơng Tây đã du nhập mạnh<br />
mẽ vào Việt Nam, nhƣng vì chịu ảnh hƣởng<br />
sâu sắc của văn hóa Hán, đặc biệt là tƣ tƣởng<br />
Nho giáo, nên Việt Nam vẫn không thể tách<br />
rời sự tồn tại của chữ Hán. Tuy không thông<br />
hiểu chữ Hán nhƣng phần lớn ngƣời Việt đều<br />
cho rằng những ngƣời biết chữ Hán là những<br />
ngƣời có học vấn thậm chí là những ngƣời<br />
uyên thâm đáng kính.<br />
<br />
Quốc nói chung và giảng dạy chữ Hán nói<br />
riêng ở Việt Nam còn chƣa thật sự đƣợc quy<br />
phạm hóa.<br />
VIỆC SỬ DỤNG CHỮ HÁN TẠI VIỆT NAM<br />
Ngày nay tại Việt Nam bất kể là nông thôn<br />
hay thành thị đều có thể dễ dàng nhận thấy sự<br />
*<br />
<br />
Tel: 0912 258158, Email: quangsangluu@gmail.com<br />
<br />
xuất hiện của chữ Hán, chữ Hán có trên sách<br />
vở, trên các công trình kiến trúc và trên nhiều<br />
vật dụng khác.<br />
Trƣớc hết là các thƣ tịch bằng chữ Hán, theo<br />
ghi chép trong “Sử ký” của Tƣ Mã Thiên, vào<br />
cuối thời Tần (thế kỷ thứ 3 trƣớc Công<br />
nguyên), Triệu Đà đã thi hành chính sách di<br />
dân, chính những ngƣời dân di cƣ này là<br />
những ngƣời đầu tiên truyền bá chữ Hán vào<br />
Việt Nam [6,662]. Có thể nói từ cuối thời Tần<br />
chữ Hán đã du nhập vào Việt Nam và ngày<br />
một mở rộng sự ảnh hƣởng của nó. Giai cấp<br />
thống trị của Việt Nam coi đây là một loại<br />
văn tự cao quý, từ các chỉ dụ của triều đình<br />
đến các loại văn bản giấy tờ, khoa cử đều sử<br />
dụng chữ Hán. Do đó các tác phẩm văn học<br />
đƣơng thời cũng đều đƣợc sáng tác bằng chữ<br />
Hán. Ngày nay thƣ tịch bằng chữ Hán tại Việt<br />
Nam có thể chia làm hai loại lớn là thƣ tịch cổ<br />
và các tài liệu sách vở hiện đại.<br />
Thƣ tịch cổ là loại sách vở đƣợc ghi chép<br />
trƣớc khi có sự xuất hiện của chữ quốc ngữ,<br />
những ghi chép thời kỳ này nếu không dùng<br />
chữ Hán thì là dùng chữ Nôm, loại chữ có<br />
hình dạng giống nhƣ chữ Hán. Những ghi<br />
chép bằng chữ Nôm không nhiều, tác phẩm<br />
nổi tiếng nhất là “Truyện Kiều” của Nguyễn<br />
Du, ngoài ra còn có một số phẩm khác nhƣ<br />
“Chinh oán ngâm” của Đặng Trần Côn,<br />
“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi v.v. Các<br />
tác phẩm khác đều đƣợc sáng tác bằng chữ<br />
99<br />
<br />
Lƣu Quang Sáng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Hán. Tác phẩm văn học cổ của Việt Nam khá<br />
phong phú về thể loại gồm cả thơ ca, tiểu<br />
thuyết… Trong đó nổi bật nhất là cuốn “Đại<br />
Việt sử ký toàn thƣ ” của Ngô Sỹ Liên. Ngoài<br />
ra còn có rất nhiều nguyên bản trứ tác của<br />
Trung Quốc vẫn đƣợc ngƣời Việt trân trọng<br />
và giữ gìn nhƣ “Kinh Thi”, “Tam Quốc diễn<br />
nghĩa”, “Thủy hử”…<br />
Đến thế kỷ 17 chữ quốc ngữ ra đời, với ƣu thế<br />
của mình nó đƣợc nhiều ngƣời Việt tiếp nhận,<br />
cuối thế kỷ 19 Việt Nam trở thành thuộc địa<br />
của Pháp, thực dân Pháp khuyến khích ngƣời<br />
Việt dùng chữ quốc ngữ nên chữ Hán đã dần<br />
mất đi vị thế của mình. Tuy nhiên nhiều<br />
ngƣời Việt Nam vẫn tiếp tục sử dụng chữ Hán<br />
để ghi chép và sáng tác, tiêu biểu nhất chính<br />
là cuốn “Nhật ký trong tù” của Hồ chủ tịch,<br />
cuốn sách do Ngƣời sáng tác đƣợc viết hoàn<br />
toàn bằng chữ Hán.<br />
Ngày nay hầu hết các sách viết bằng chữ Hán<br />
ở Việt Nam đều là giáo trình giảng dạy tiếng<br />
Trung Quốc, một số là do các trƣờng đại học<br />
có chuyên ngành tiếng Trung Quốc biên soạn,<br />
còn phần lớn là giáo trình nhập khẩu từ Trung<br />
Quốc. Có thể nói, tài liệu tiếng Trung Quốc<br />
chiếm một tỷ trọng khá lớn trong số sách<br />
ngoại văn của Việt Nam.<br />
Một nơi cũng có nhiều sự hiện diện chữ Hán<br />
đó là tại các công trình kiến trúc. Đến nay<br />
Việt Nam vẫn còn là một nƣớc nông nghiệp,<br />
theo Bộ Ngoại giao thì Việt Nam hiện có đến<br />
70% dân số sinh sống tại nông thôn [7].<br />
Ngƣời dân chủ yếu sống ở nhà riêng, tại các<br />
gia đình này cũng dễ dàng bắt gặp sự xuất<br />
hiện của chữ Hán, những công trình có khắc<br />
dấu chữ Hán đa phần là những kiến trúc cổ,<br />
gồm cả tƣ gia và những công trình công cộng<br />
nhƣ đình chùa, miếu phủ…<br />
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn<br />
giáo, trong đó Phật giáo là tôn giáo phổ biến<br />
nhất. Ngày nay trừ một số ít địa phƣơng, hầu<br />
hết các làng xã đều có chùa thờ Phật. Việt<br />
Nam cũng là một dân tộc tôn trọng lịch sử,<br />
kính trọng tổ tiên, do vậy ở rất nhiều nơi đã<br />
xây dựng đền miếu thờ cúng tổ tiên và các<br />
danh nhân lịch sử. Những nơi này đều có ghi<br />
khắc chữ Hán, chữ Hán thật sự đã trở nên gần<br />
gũi với mọi ngƣời.<br />
100<br />
<br />
118(04): 99 - 102<br />
<br />
Ngoài ra chữ Hán cũng thƣờng xuyên xuất<br />
hiện trong đời sống thƣờng nhật của ngƣời<br />
Việt. Mỗi khi tổ chức cƣới hỏi, treo chữ song<br />
hỷ là một việc không thể thiếu, trên tờ lịch<br />
treo tƣờng của mọi nhà cũng có các chữ Hán:<br />
Phúc, Lộc, Thọ… Điều này cho thấy ngƣời<br />
Việt từ nhỏ đã tiếp xúc thƣờng xuyên với chữ<br />
Hán, chữ Hán vừa lạ lại vừa quen với hầu hết<br />
mọi ngƣời.<br />
VIỆC GIẢNG DẠY CHỮ HÁN TẠI VIỆT NAM<br />
Dạy học chữ Hán theo lối truyền thống<br />
Trƣớc khi sử dụng chữ quốc ngữ, ngƣời Việt<br />
khi đi học đều học chữ Hán, cũng giống nhƣ<br />
ngƣời Trung Quốc, trẻ em Việt Nam xƣa<br />
cũng học chữ Hán qua các cuốn sách “Tam<br />
thiên tự”, “Tứ thiên tự” rồi đến “Tứ thƣ”,<br />
“Ngũ kinh”… Trong hơn 1000 năm dạy học<br />
chữ Hán, ngƣời Việt Nam ta đã căn cứ vào<br />
đặc điểm tiếng mẹ đẻ và các thói quen cuộc<br />
sống mà sáng tạo ra khá nhiều kinh nghiệm<br />
học tập chữ Hán. Những kinh nghiệm này<br />
đƣợc thể hiện qua các bài thơ, bài vè hoặc câu<br />
đố về chữ Hán, thông qua các bài thơ ca có<br />
vần có nhịp, ngƣời học có thể dễ dàng ghi<br />
nhớ đƣợc nhiều chữ Hán.<br />
Những ngƣời mới học đều cho rằng chữ Hán<br />
càng nhiều nét thì càng khó nhớ, nếu xét về<br />
việc nhớ mặt chữ thì điều này là đúng. Để tiện<br />
cho việc ghi nhớ, ngƣời xƣa đã dùng lối chiết<br />
tự rồi đặt ra các câu thơ bằng tiếng Việt nhƣ:<br />
Chim chích mà đậu cành tre<br />
Thập trên tứ dƣới nhất đè chữ tâm (chữ<br />
“德Đức”).<br />
Hay nhƣ:<br />
Bát đao phân mễ phấn<br />
Thiên lý trọng kim chung.<br />
(Chữ “bát八” kết hợp với chữ “đao刀” tạo<br />
thành chữ “phân分”, thêm chữ “mễ米” trở<br />
thành chữ “phấn粉”; chữ “thiên千” trên chữ<br />
“lý里” tạo thành chữ “trọng重”, thêm chữ<br />
“kim金” biến thành chữ “chung鐘”).<br />
Hoặc:<br />
Duyên thiên chƣa thấy nhô đầu dọc<br />
Phận liễu sao đà nảy nét ngang.<br />
(Không chồng mà chửa- Hồ Xuân Hƣơng)<br />
<br />
Lƣu Quang Sáng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
(Chữ “thiên 天(trời)” nhô đầu lên sẽ trở thành<br />
chữ “phu夫 (chồng)”; chữ “liễu了” có thêm<br />
nét ngang trở thành chữ “tử子 (con)”, biểu thị<br />
ngƣời phụ nữ chƣa có chồng mà đã có con).<br />
Những câu thơ này có thể học thuộc trong<br />
một khoảng thời gian ngắn, nó không những<br />
giúp ngƣời học có thể nhớ cách viết của chữ<br />
mà còn giúp hiểu sâu về nội hàm văn hóa<br />
cũng nhƣ sự phát triển của chữ Hán.<br />
Có rất nhiều chữ Hán có hình dạng gần giống<br />
nhau, để tránh việc nhầm lẫn các chữ, ngƣời<br />
Việt đã đặt ra nhiều câu giống nhƣ ca dao tục<br />
ngữ để phân biệt các chữ này, nhƣ:<br />
Thƣợng thò, hạ bất thò (chữ “Do由”)<br />
Hạ thò, thƣợng bất thò (chữ “Giáp甲”)<br />
Thƣợng hạ thò thò (chữ “Thân申”)<br />
Thƣợng hạ bất thò thò (chữ “Điền田”).<br />
Hoặc ba chữ “Tị巳”, “Kỷ己”, “Dĩ已” khá<br />
giống nhau, chỉ khác ở cao độ của nét sổ,<br />
ngƣời xƣa đã tổng kết ba chữ này nhƣ sau:<br />
“Tị thò, Kỷ thụt, Dĩ lửng lơ”.<br />
Sử dụng cách dạy học này tuy có lợi thế về<br />
nhận mặt chữ nhƣng khó có thể nói lên âm<br />
đọc và ngữ nghĩa của các chữ đó.<br />
Hiện trạng dạy học chữ Hán tại Việt Nam<br />
Năm 1950 Việt Nam và Trung Quốc chính<br />
thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Thập kỷ 50<br />
và 60 của thế kỷ trƣớc tiếng Trung Quốc đƣợc<br />
phổ biến rộng rãi tại miền Bắc Việt Nam. Khi<br />
đó kinh tế của Việt Nam còn rất lạc hậu, lại<br />
trong tình trạng chiến tranh nên các điều kiện<br />
dạy học vô cùng khó khăn. Tuy là ngoại ngữ<br />
số 1, nhƣng việc dạy học tiếng Trung Quốc<br />
còn rất nhiều bất cập. Trƣớc hết là về đội ngũ<br />
giáo viên, khi đó chỉ có 2 trƣờng đào tạo<br />
ngành tiếng Trung Quốc bậc đại học, mỗi<br />
năm chỉ có thể ra trƣờng đƣợc hơn 100 ngƣời,<br />
con số này không thể đáp ứng đƣợc nhu cầu<br />
xã hội. Do vậy nhiều trƣờng đã yêu cầu giáo<br />
viên dạy các môn ngoại ngữ khác tham gia<br />
các lớp học ngắn hạn, sau khi kết thúc khóa<br />
học trực tiếp tham gia giảng dạy. Trong bối<br />
cảnh nhƣ vậy, việc dạy học tiếng Trung Quốc<br />
nói chung và dạy học chữ Hán nói riêng đã<br />
gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại.<br />
Những năm 80 thế kỷ trƣớc, do quan hệ hai<br />
nƣớc nên việc dạy học tiếng Trung Quốc đã<br />
<br />
118(04): 99 - 102<br />
<br />
bị ngừng lại trong một thời gian tƣơng đối<br />
dài. Sau khi hai nƣớc bình thƣờng hóa quan<br />
hệ, vào đầu thập niên 90 việc dạy học tiếng<br />
Trung Quốc đã đƣợc khôi phục trở lại và dần<br />
tìm đƣợc vị thế của mình, ngày nay tiếng<br />
Trung Quốc đã trở thành ngoại ngữ lớn thứ<br />
hai tại Việt Nam sau tiếng Anh.<br />
Hiện nay đội ngũ giáo viên tiếng Trung Quốc<br />
của Việt Nam có thể chia làm hai nhóm đối<br />
tƣợng, một là những ngƣời tham gia công tác<br />
từ trƣớc năm 1979, những ngƣời này nay đều<br />
đã trên 50 tuổi; hai là những ngƣời tham gia<br />
công tác sau năm 1995, những ngƣời học<br />
tiếng Trung Quốc sau khi hai nƣớc đã bình<br />
thƣờng hóa quan hệ. Hầu hết các trƣờng đại<br />
học có chuyên ngành tiếng Trung Quốc của<br />
Việt Nam có cả hai loại giáo viên này, do sự<br />
khác biệt về tuổi tác, học vấn và phƣơng thức<br />
tƣ duy nên hai nhóm đối tƣợng này có lúc nảy<br />
sinh những bất đồng trong công việc.<br />
Tính đến nay các trƣờng có dạy học tiếng<br />
Trung Quốc ở Việt Nam đa phần vẫn là các<br />
trƣờng đại học, gồm cả các trƣờng công lập và<br />
dân lập. Việc dạy học chữ Hán ở các trƣờng này<br />
đều có những điểm chung nhƣ sau:<br />
Thứ nhất là loại chữ, hiện nay Việt Nam chỉ<br />
giảng dạy chữ Hán giản thể, so với chữ phồn<br />
thể thì chữ giản thể đã giảm bớt nhiều nét<br />
chữ, điều này cũng làm giảm nhẹ áp lực ghi<br />
nhớ chữ Hán cho những ngƣời mới học, tuy<br />
nhiên cũng là một khó khăn khi tiếp cận với<br />
những thƣ tịch cổ.<br />
Thứ hai là chƣơng trình học, “Hầu hết các<br />
trƣờng đều có thiết kế môn văn tự học, môn<br />
học này thƣờng đƣợc bố trí học ở năm thứ 3<br />
bậc đại học, nội dung môn học chủ yếu là các<br />
lý luận về văn tự học”[3,142]. Ở giai đoạn sơ<br />
cấp hầu nhƣ không trƣờng nào có thiết kế<br />
môn luyện học chữ Hán, việc dạy học chữ<br />
Hán chủ yếu thông qua việc dạy từ mới trong<br />
bài, nhƣ vậy có thể nói việc dạy chữ Hán<br />
chƣa có đƣợc vị trí cần có của nó.<br />
Cuối cùng là phƣơng pháp giảng dạy chữ<br />
Hán, khởi đầu giáo viên giảng dạy các nét<br />
chữ cơ bản và cách viết chữ Hán, dạy cho học<br />
sinh những chữ Hán cụ thể nào đó là do các<br />
nét chữ nào cấu tạo nên. Lúc ban đầu số<br />
lƣợng chữ Hán phải học chƣa nhiều, hình<br />
101<br />
<br />
Lƣu Quang Sáng<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
dạng chữ cũng chƣa quá phức tạp nên học<br />
sinh có thể tiếp nhận dễ dàng, về sau số lƣợng<br />
chữ phải học ngày càng nhiều lên, hình dạng<br />
chữ cũng trăm hình vạn trạng, lại có rất nhiều<br />
chữ hình dạng khá giống nhau, cách dạy học<br />
này đem đến cho học sinh khá nhiều áp lực<br />
trong việc học tập chữ Hán. Một số giáo viên<br />
cũng sử dụng phƣơng pháp dạy chữ Hán<br />
thông qua bộ chữ, nhƣng họ hầu nhƣ không<br />
giảng giải quan hệ giữa các bộ chữ trong một<br />
chữ Hán. Đến giai đoạn trung, cao cấp giáo<br />
viên hầu nhƣ không giảng dạy thêm chữ Hán<br />
nữa mà để học viên tự học chữ Hán. Có thể<br />
nói phƣơng pháp dạy học chữ Hán ở các<br />
trƣờng tại Việt Nam khá giống với cách dạy<br />
chữ Hán cho học sinh các nƣớc phƣơng Tây,<br />
cách dạy này tuy có không ít ƣu thế nhƣng<br />
không thể phát huy đƣợc những ƣu thế của<br />
ngƣời Việt khi học chữ Hán.<br />
KẾT LUẬN<br />
Là một nƣớc thuộc vòng văn hóa Hán, tuy<br />
hiện tại chữ viết của Việt Nam là loại chữ<br />
Latin biểu âm, nhƣng ta có thể nhận thấy sự<br />
tồn tại của chữ Hán ở hầu khắp mọi nơi, chữ<br />
Hán vừa xa lạ lại vừa thân thuộc với mỗi con<br />
ngƣời Việt Nam. Đây cũng chính là một lợi<br />
thế của ngƣời Việt khi học tập chữ Hán. Việc<br />
<br />
118(04): 99 - 102<br />
<br />
phát huy lợi thế này vào việc giảng dạy là một<br />
việc làm có ý nghĩa của chúng ta.<br />
Trong quá trình hơn 1000 năm dạy và học<br />
chữ Hán, ngƣời Việt Nam ta đã rút ra nhiều<br />
kinh nghiệm học tập quý báu từ thực tế, từ đó<br />
đúc rút ra những phƣơng pháp dạy học phù<br />
hợp với đặc điểm của mình. Nhiều giáo viên<br />
tiếng Trung Quốc nƣớc ta hiện nay hoặc là<br />
không hiểu rõ về phƣơng pháp này hoặc còn<br />
chƣa xem trọng giá trị của nó, và nhƣ vậy đã<br />
làm mất đi những ƣu thế của ngƣời Việt khi<br />
học tập chữ Hán. Nếu biết lợi dụng những ƣu<br />
thế của mình, áp dụng một cách linh hoạt vào<br />
phƣơng pháp giảng dạy có thể nâng cao hơn<br />
hiệu quả dạy học chữ Hán cho ngƣời Việt<br />
Nam ta.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. 胡文华, 汉字与对外汉字教学, 学林出版社,2008.<br />
2.<br />
刘光创,<br />
利用汉源语素提高对越汉字教学效率的研究, 2012.<br />
3.<br />
韦锦海,<br />
越南高校汉语教学现状,<br />
广西民族学院学报, 第五期2004年.<br />
<br />
4. Nguyễn Ngọc Hoa, Việc sử dụng từ gốc Hán<br />
trong tiếng Việt, tạp chí Ngôn ngữ học, 2002.<br />
5. Nguyễn Quốc Thắng, Chế độ khoa cử và giáo<br />
dục của Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, 1993<br />
6. Tƣ Mã Thiên, Sử ký, Nxb Văn học, 2003.<br />
7.http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/tt_baochi/<br />
nr041126171753/ns080923104051<br />
<br />
SUMMARY<br />
INVESTIGATING THE TEACHING AND USING<br />
OF CHINESE CHARACTERS IN VIETNAM<br />
Luu Quang Sang*<br />
School of foreign languages- TNU<br />
<br />
The current Vietnamese writing system is based on the Latin alphabet. This system is known by<br />
the Vietnamese as “Quoc-ngu script” (National script), which differs completely from Chinese<br />
characters (also known as “Nho script” in Vietnam) in terms of forms. From a historical<br />
perspective, Chinese was taught and used in Vietnam for a long period of time. Even the “Nom<br />
script”, which was invented by the Vietnamese was similar to Chinese in its written form. The<br />
presence of Chinese can be easily observed in Vietnam, and this has a certain impact on the<br />
teaching of Chinese to Vietnamese learners. After the normalisation of relation between Vietnam<br />
and China, the teaching of Chinese was resumed in Vietnam. Presently, there are over 10<br />
Vietnamese universities that offer Chinese majors. However, the curricula and teaching methods<br />
of these institutions are not yet unified. This paper analyses the application of Chinese and the<br />
state-of-the-art of the teaching of Chinese in Vietnam.<br />
Keywords: Chinese; Chinese character; application of Chinese; Chinese character teaching; Vietnam<br />
Ngày nhận bài:13/3/2014; Ngày phản biện:15/3/2014; Ngày duyệt đăng: 25/3/2014<br />
Phản biện khoa học: ThS. Mai Thị Ngọc Anh – Khoa Ngoại ngữ - ĐHTN<br />
*<br />
<br />
Tel: 0912 258158, Email: quangsangluu@gmail.com<br />
<br />
102<br />
<br />