intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tính tất yếu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: ViTsunade2711 ViTsunade2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

76
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thông qua hợp tác quốc tế về giáo dục - đào tạo, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam có một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Phải khẳng định rằng: Hợp tác quốc tế là một trong những hoạt động hữu hiệu để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tính tất yếu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo ở Việt Nam hiện nay

  1. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 TÍNH TẤT YẾU HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Thị Tiến Khoa Lý luận chính trị, Trường ĐH Xây dựng Miền Trung Tóm tắt 1. Yêu cầu khách quan của việc mở rộng, Ở một thế giới hội nhập, hướng đến nền kinh tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục tế tri thức và cạnh tranh toàn cầu thì hợp tác quốc - đào tạo ở Việt Nam tế trong giáo dục - đào tạo có ý nghĩa sống còn với Trong thời kỳ nào, giáo dục - đào tạo mỗi quốc gia. Thông qua hợp tác quốc tế về giáo dục cũng hết sức quan trọng, là quá trình biến con - đào tạo, phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam có một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu của sự người nguyên bản thành con người của xã hội nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong và truyền dạy họ những kiến thức, kinh nghiệm bối cảnh hội nhập quốc tế. Phải khẳng định rằng: nghề nghiệp để đảm bảo sự phát triển toàn Hợp tác quốc tế là một trong những hoạt động hữu diện của đất nước; giữ vai trò cân đối giữa tri hiệu để nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo và thức và thực tiễn để thích nghi với sự biến đổi nghiên cứu khoa học. của xã hội. Và ở một thế giới hội nhập, hướng Từ khóa đến nền kinh tế tri thức, cạnh tranh toàn cầu Hợp tác quốc tế, giáo dục - đào tạo, yêu cầu thì hợp tác quốc tế trong giáo dục - đào tạo khách quan càng có ý nghĩa sống còn với mỗi quốc gia cũng như mỗi con người. Con người trong quá trình hội nhập ngày nay không chỉ cần năng lực lao động mà còn cần trang bị các kỹ năng chung sống hòa bình trong môi trường đa dạng văn hóa, đặc biệt khi mà khối lượng kiến thức nhân loại ngày càng gia tăng, thách thức hệ thống giáo dục - đào tạo của tất cả các quốc gia trên thế giới. Cạnh tranh giữa các quốc gia hiện nay là cạnh tranh chất lượng nguồn nhân lực, hay chính là cạnh tranh về giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, cùng sống và tồn tại nên các nước vẫn chung tay, cùng nhau tạo sự phát triển gắn kết. Hợp tác quốc tế đã giúp Việt Nam tiếp nhận những nền giáo dục, khoa học kỹ thuật tiên tiến, giúp cải thiện chất lượng từ giáo trình, chất lượng quản lý đến giáo viên, học sinh, sinh viên 1.1. Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, tăng cường giao lưu, hợp tác giữa các nước trên thế giới Toàn cầu hoá như một quá trình không thể đảo ngược. Tuy nhiên đó là quá trình định hướng được và cần phải định hướng vì sự phát triển bền vững của từng quốc gia cũng như toàn thế giới. 96
  2. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 Yêu cầu định hướng đối với tiến trình dục trên thế giới. Họ mang theo cả một nền toàn cầu hoá thuộc phạm vi chính sách phát văn hoá khác với dân tộc khi trở về nước triển của từng quốc gia trên mọi lĩnh vực chính Nhu cầu hợp tác trong giáo dục - đào tạo trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Trong bối cảnh giữa các quốc gia trước quá trình toàn cầu hóa đó, hợp tác giáo dục - đào tạo là một xu thế đã và đang đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mới trong chính sách phát triển giáo dục - đào các khuôn khổ chung về giáo dục - đào tạo cấp tạo ở các nước nhằm góp phần định hướng tiến độ khu vực và quốc tế như: hệ thống giáo dục, trình toàn cầu hoá. chuẩn mực về nhà trường, giáo viên, chương Toàn cầu hóa tạo nên một thị trường giáo trình đào tạo, thiết bị, phương tiện dạy học... dục - đào tạo quốc tế, đòi hỏi các trường, các cơ tạo cơ sở thuận lợi cho các chương trình hợp tác sở giáo dục phải có chương trình đào tạo, cơ sở giáo dục - đào tạo, công nhận tương đương văn vật chất và đội ngũ giảng viên theo tiêu chuẩn bằng, chứng chỉ, trao đổi giảng viên, sinh viên, quốc tế. Nền giáo dục đại học đã trở thành một chuyển tiếp chương trình đào tạo, kiểm định thị trường cạnh tranh của những nền giáo dục chất lượng... Cùng với quá trình xây dựng và hiện đại trên thế giới. Liệu Việt Nam có thể trở hoàn thiện hệ thống chuẩn mực quốc gia, việc thành một đối tác, hợp tác một cách có hiệu quả tiếp cận với các chuẩn mực quốc tế và khu vực và cạnh tranh được với các nước khác hay là nhu cầu và xu hướng phát triển tất yếu của không? Điều này còn phụ thuộc vào chiến lược hệ thống giáo dục các nước đặc biệt là các nước đổi mới của giáo dục - đào tạo, chính sách đầu đang phát triển. Các quan hệ quốc tế và quốc tư, khả năng quản lý và đội ngũ giảng viên. gia trong phát triển giáo dục không phải là quan Nhưng thực tế cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa hệ đối lập, loại trừ mà là quan hệ tương thích có trường nào đạt tiêu chuẩn quốc tế. nhằm đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của từng Mỗi nước trên thế giới có sự khác nhau quốc gia và lợi ích của cộng đồng quốc tế trong về chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá và dân phát triển giáo dục - đào tạo. Nền giáo dục - tộc. Các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, đào tạo tiến bộ và hiện đại hướng tới hình thành Canada là những trung tâm giáo dục lớn trên và phát triển nhân cách toàn diện cho mỗi con thế giới, hấp dẫn nhiều du học sinh. Những người trở thành những công dân, những thành trung tâm giáo dục của từng vùng như trường viên tích cực của quốc gia và thế giới. Đại học ở Ả Rập cho những người nói tiếng Ả Trước xu thế toàn cầu hóa, không một Rập, các trường đại học ở Trung Quốc cho quốc gia, dân tộc nào có thể “cô lập”, sống tách vùng châu Á. Sự hội nhập, hợp tác quốc tế khỏi cộng đồng thế giới. Nghị quyết Đại hội IX về giáo dục - đào tạo ở từng nước còn phụ đã chỉ rõ: Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến thuộc nhiều vào sự quan tâm của các đảng đổi. Khoa học và công nghệ sẽ có bước tiến phái, chính phủ và năng lực kinh tế ở trong nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng các nước đó, nó đòi hỏi sự mạnh dạn nhưng nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản cũng phải hết sức cẩn trọng xuất. Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế kinh Càng ngày càng có nhiều người thích du tế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước học nước ngoài. Lưu lượng thông thường tham gia vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu khoảng chừng 4,5 triệu sinh viên, trong đó cực, vừa có hợp tác, vừa có đấu tranh. Các mâu 80% là từ các nước đang phát triển. Ngay sinh thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những viên ở các nước phát triển cũng thích ra nước hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và ngoài để học thêm văn hoá bổ sung kiến thức. phát triển, có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân Các giáo sư, nhà nghiên cứu và quản lý giáo tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra gay dục cũng chọn việc ra nước ngoài để giảng dạy gắt. Thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu hoặc trau dồi thêm kiến thức (khoảng 200.000 mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự người/năm). Làn sóng “di cư trí thức” từ các giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương” nước đang phát triển đến các trung tâm giáo [2, tr.64-65]. 97
  3. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 Yêu cầu định hướng đối với tiến trình tính. Khả năng cập nhật những tri thức mới toàn cầu hoá thuộc phạm vi chính sách phát cũng nhanh chóng. Công nghệ thông tin được triển của từng quốc gia trên mọi lĩnh vực kinh phát triển sử dụng với hình thức cao hơn, từ tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, hợp tác giáo dục quảng cáo đến thương mại điện tử và chính - đào tạo là một xu thế mới trong chính sách phủ điện tử ở các nước phát triển. Những quốc phát triển giáo dục - đào tạo ở các nước nhằm gia coi trọng công nghệ thông tin đã được lợi góp phần định hướng tiến trình toàn cầu hoá. vô cùng lớn trong việc tiếp nhận những tri thức. 1.2. Tác động của cách mạng khoa học Ngược lại, thực tế ở những nước chưa có đủ công nghệ điều kiện phát triển công nghệ thông tin thì nền Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, giáo dục cũng phát triển kém và hệ quả kéo nay là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ theo là nền kinh tế cũng trì trệ. đã tạo điều kiện cho xu thế “toàn cầu hóa”, Công nghệ thông tin đặc biệt giúp cho sự “quốc tế hóa” phát triển mạnh mẽ. Càng ngày phát triển của các trung tâm đào tạo từ xa, sự phân hóa giữa các nước phát triển và chậm nhanh chóng và thuận lợi đưa bài giảng đến phát triển càng gia tăng. Tại diễn đàn hợp tác từng người ở các vùng xa xôi hay thoả mãn bất và phát triển kinh tế năm 2001, Ban thư ký đã cứ thời gian nào của người ham học nhưng bận có một báo cáo, trong đó nói rằng: những quốc rộn. Nhiều trường đã thực hiện các chương gia có chính sách phát triển kinh tế tri thức đã trình đào tạo từ xa chất lượng và uy tín... tăng trưởng rất nhanh, còn những quốc gia Tuy nhiên, hiện nay không phải quốc gia nào khác đã tụt hậu ngày càng rõ rệt hơn. Đầu thế cũng có điều kiện phát triển công nghệ thông kỷ XX, khoảng cách thu nhập bình quân giữa tin, Việt Nam đang tích cực và cố gắng không nước giàu nhất so với nước nghèo nhất là 10 ngừng để tiếp nhận tri thức qua kênh công nghệ lần, thì đầu thế kỷ XXI, khoảng cách đó là 400 thông tin nhưng chưa thực sự hiệu quả lần. Sự không cập nhật tri thức mới trong quá 1.3. Nhu cầu phát triển đất nước nói trình lão hóa tri thức tăng tốc, nhất là sự bất chung và mở rộng, tăng cường hợp tác cập với công nghệ mới, công nghệ cao là yếu quốc tế trong giáo dục - đào tạo nói riêng tố hàng đầu của sự phân hóa phát triển - kém Thành tựu phát triển đất nước từ sau khi phát triển. Khoảng 30 năm lại đây, lượng kiến đổi mới đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thức nhân loại thu được về khoa học và công thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nghệ bằng tổng số kiến thức đó trong hai ngàn nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc năm trước đó. Theo dự báo, đến năm 2020, và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và những tri thức khoa học sẽ tăng khoảng 4 lần uy tín của nước ta trên trường quốc tế. so với năm 2000. Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam có nền Để giải quyết bài toán phát triển đầy kinh tế tăng trưởng khá, thoát ra khỏi nước thách thức, Việt Nam phải tính đến yếu tố khu vực nước kém phát triển. Văn hoá, xã con người, năng lực sáng tạo tri thức mới, từ hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân đó cần phải học tập và cập nhật kiến thức tiếp tục được cải thiện. Tình hình chính trị - mới, hòa mình vào với nền tri thức của nhân xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an loại để phát triển. ninh được tăng cường. Công tác xây dựng, Công nghệ thông tin đang giúp cho quá chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống trình phát triển ở các quốc gia nhanh chóng chính trị được củng cố. Quan hệ đối ngoại hơn. Công nghệ thông tin với hàng loạt các không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh sách báo điện tử, các bản tin, website, email tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt đã trở thành các dịch vụ công cộng nhanh nhất. nhiều kết quả tốt. Trước xu thế hội nhập Thông tin toàn cầu giúp con người bước vào thế quốc tế, Việt Nam đi lên từ một nước nghèo giới học vấn rộng lớn. Kiến thức được nhân lên và lạc hậu nên càng không thể đứng ngoài gấp bội qua thư viện khổng lồ và vô tận từ máy thế giới. Bắt đầu từ thế kỷ XXI, Việt Nam 98
  4. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 vẫn còn đi sau các nước ở nhiều mặt, là một lao động thấp, tuy nhiên, lại có lợi thế về nước nông nghiệp, dân số đông, năng lực nguồn nhân lực. Bảng 1: Dự báo một số chỉ tiêu cơ bản về phát triển nhân lực đến 2020 Chỉ tiêu 2005 2010 2015 2020 1. Lực lượng lao động làm việc 43.456 45.750 47.500 48.500 trong nền kinh tế –Tổng số/ (1000 người) 2. Tỷ lệ lao động qua đào tạo 24,8 40,0 50,0 60,0 (%) 3. Số người được đào tạo kỹ năng nghề nghiệp trình độ cao - Hoạch định chính sách 12.000 15.000 18.000 20.000 - Giảng viên đại học 47.700 70.000 120.000 200.000 - Khoa học – công nghệ 30.000 40.000 60.000 100.000 - Y tế, chăm sóc sức khỏe 51.500 60.000 70.000 80.000 Nguồn: Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam Trước kia, giá nhân công ở Việt Nam sự giúp đỡ từ các nước tiên tiến? Dựa trên rẻ hơn so với một số nước ở khu vực là một những điều kiện khách quan cũng như chủ lợi thế nhưng hiện nay đặc điểm này không quan, Việt Nam đã sớm nhận ra rằng muốn còn là yếu tố hấp dẫn đối với nhà đầu tư tiến lên để hòa nhập với phát triển toàn cầu nước ngoài mà họ đang chuyển hướng vào thì Việt Nam cần phải mở rộng quan hệ những nước có nguồn nhân lực tay nghề cao, ngoại giao với các nước trong khu vực cũng nền chính trị ổn định và tay nghề tốt. Đây là như trên thế giới về mọi mặt để tranh thủ sự một điều không mấy lợi thế cho sức cạnh giúp đỡ của quốc tế trong đó có lĩnh vực giáo tranh về nguồn nhân lực của Việt Nam nói dục - đào tạo. riêng và sức cạnh tranh kinh tế nói chung. Xu hướng toàn cầu hoá đang đặt ra Nhu cầu phát triển nhanh giáo dục - đào tạo những tiêu chuẩn quốc tế cho nguồn nhân đòi hỏi sự đáp ứng của quá trình công nghiệp lực có trình độ cao. Nền giáo dục Việt Nam hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh còn lạc hậu, phải đối mặt với một thách tế theo chiều sâu tri thức với công nghệ tiên thức nặng nề đó là vấn đề: “tồn tại hay tiến và hội nhập quốc tế, trong khi nguồn không tồn tại”. lực đầu tư cho giáo dục có giới hạn sẽ tạo Những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan sức ép đối với phát triển giáo dục - đào tạo. trọng và bức thiết đã và đang đặt ra những Nguy cơ tụt hậu có thể làm cho khoảng yêu cầu, những nội dung rất mới, rất cao về cách kinh tế, tri thức, giáo dục – đào tạo giữa nguồn lực con người, với những giá trị mới, Việt Nam với các nước ngày càng gia tăng. Để tiêu chí mới về phẩm chất và năng lực của trở thành một nước công nghiệp tiên tiến, mỗi con người và cả cộng đồng. với xuất phát điểm là nền kinh tế nông Nhận thức đúng sức mạnh dân tộc và nghiệp lạc hậu và chỉ vừa đạt được một số sức mạnh thời đại theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thành tựu kinh tế nhất định thì Việt Nam cần Đảng Cộng sản Việt Nam đã quán triệt bài học phải giải quyết nhiều vấn đề, trong đó đào về: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tạo nguồn nhân lực có tư duy phù hợp với khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc nền kinh tế thị trường và toàn cầu hóa là với sức mạnh thời đại 7 trong điều kiện mới. một trong những vấn đề tất yếu cần giải quyết. Để giải quyết những nhược điểm của Phát huy nội lực xem đây là nhân tố quyết nguồn nhân lực Việt Nam thì nền giáo dục - định đối với sự phát triển; đồng thời coi đào tạo có đáp ứng được hay không, hay cần trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông 99
  5. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế để phát triển đất nước nhanh và bền vững, giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định triển” [3, tr.119]. Vì thế, cùng với những hướng xã hội chủ nghĩa [3, tr.72-73] bước chuyển quan trọng trong quan hệ quốc Thách thức trước nguy cơ tụt hậu xa tế, cụ thể là việc bình thường hoá quan hệ hơn về giáo dục - đào tạo với khu vực và thế ngoại giao với Hoa Kỳ (12/7/1995), Việt giới kéo theo nguy cơ tụt hậu về kinh tế so Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN với các nước phát triển ngày càng lớn. Hợp (28/7/1995), nước ta ký hiệp định khung về tác quốc tế hội nhập thế giới đồng nghĩa với hợp tác với Liên minh châu Âu việc tăng lựa chọn quốc tế cho người học. (17/7/1995),… Nếu các cơ sở giáo dục - đào tạo trong nước Từ năm 2000, Việt Nam đã ban hành các không đáp ứng được chất lượng, người học văn bản pháp lý khuyến khích sự hiện diện có năng lực sẽ lựa chọn các cơ sở giáo dục - thương mại của các nhà cung ứng giáo dục đào tạo ngoài nước và sẽ làm cho các cơ sở nước ngoài theo cơ chế vì lợi nhuận và không giáo dục - đào tạo trong nước gặp khó khăn vì lợi nhuận, dưới các hình thức văn phòng đại hơn trong việc tiếp cận các chuẩn mực giáo diện, cơ sở liên kết và cơ sở 100% vốn nước dục - đào tạo quốc tế ngoài. Mặt tích cực của nó là đã thúc đẩy tiến Trước nhu cầu phát triển đất nước để trình đa dạng hoá giáo dục, đáp ứng nhu cầu sánh ngang với các nước trên thế giới, với vị học tập của một bộ phận người học thuộc các thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày nay, Việt Nam hiện nay cần phải hợp tác gia đình có thu nhập cao, khuyến khích sự du quốc tế về giáo dục - đào tạo, cùng với các học tại chỗ. lĩnh vực khác. Đây là cơ hội để giáo dục Việt Từ năm 1986 đến năm 1990, mỗi năm ta Nam tiếp cận với xu thế tất yếu, thực hiện gửi được 4.400 lưu học sinh trong đó có 2.400 việc trao đổi kinh nghiệm và xây dựng một ở bậc đại học, sau đại học và 2.000 ở bậc trung nền giáo dục – đào tạo tiên tiến bắt kịp với học chuyên nghiệp và dạy nghề đi Liên Xô và thế giới và khu vực. các nước Đông Âu. Đến đầu năm 1990, các nước 2. Tình hình hợp tác quốc tế trong giáo thuộc: Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa dục - đào tạo ở Việt Nam cũng đặt ra Đông Âu đã đào tạo cho Việt Nam 6.500 Phó những yêu cầu mới Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ), 238 Tiến sĩ (nay là Tiến Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước sĩ khoa học), 34.000 sinh viên Đại học và từ năm 1986 đã thực sự mở ra một thời kỳ 72.000 công nhân học nghề. Đây là những con mới trong lịch sử nước ta, nền giáo dục - đào số to lớn ghi nhận công lao và tình cảm quý báu tạo cũng có những chuyển biến căn bản. của Nhà nước và nhân dân các nước anh em đã Xuất phát từ quan điểm cơ bản là sự nghiệp giúp Việt Nam trong những năm tháng khó khăn giáo dục phải phù hợp với sự nghiệp phát mọi bề và mãi mãi không quên. triển kinh tế, yêu cầu của công cuộc đổi mới Từ năm 1987 đến năm 1999, khoảng giáo dục phải phù hợp với công cuộc đổi mới 16.000 lưu học sinh đã được cử đi học nước toàn diện nền kinh tế - xã hội, ngay năm ngoài và phân bố ở những khu vực địa lý 1987, ngành giáo dục - đào tạo đã tập trung thảo luận và đề xuất phương hướng đổi mới. như sau: Liên Xô-Đông Âu 53,29%, Tây Đánh dấu giai đoạn mới này là thông Bắc Á 30,6%, Australia-Newzealand 6,8%, điệp ngoại giao do Đại hội Đảng Cộng sản Việt Mỹ-Canada 0,9%, châu Phi-Mỹ Latinh Nam lần thứ VII (1991) gửi đi, trong đó khẳng 0,32%... lưu học sinh được cử đi đào tạo định: “Việt Nam thực hiện chính sách đối bằng nhiều hình thức học bổng khác nhau, 100
  6. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 thông qua các dự án, các chương trình hợp gia khác nhau trên thế giới, qua đó chúng ta tác song phương... đào tạo được nguồn nhân lực chất lượng cao... Năm 1999 - 2000, CIDA (Canadia Số sinh viên đi du học ngày càng tăng, trong đó ở Mỹ có đến 16.000 học viên và sinh viên International Development Agency) của Việt Nam theo học, đưa Việt Nam trở thành Canada đã tài trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo một trong những nước có nhiều sinh viên du một dự án trị giá khoảng 500.000 đôla học nhất tại Mỹ. Số sinh viên Việt Nam theo Canada để nâng cao năng lực xây dựng học tại các quốc gia khác cũng tăng mạnh như chính sách và chiến lược giáo dục Việt Nam. Úc, New Zeland, các nước truyền thống châu Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đón khoảng Âu và trong khu vực ASEAN. Với tư cách là 400 lượt khách quốc tế, đến năm 1995 là thành viên trong mạng lưới các trường Đại học 1.500 lượt, năm 1996 là 2.400 lượt và ngày ASEAN, Việt Nam tăng cường hợp tác với các càng tăng lên. Trong số đó có 40% vào để trao nước trong khu vực trao đổi sinh viên, hướng đổi, hợp tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, sinh viên học tập, tìm hiểu về văn hóa, lịch sử còn lại 60% số khách vào để giao lưu và tham và ngôn ngữ các nước, nhằm xây dựng Cộng gia các hoạt động văn hóa, giáo dục vào mỗi đồng văn hóa - xã hội ASEAN. Năm 2014, năm cuối thập kỉ 80. được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Từ năm 2000 đến năm 2007 trong tổng nhiều chương trình, dự án cụ thể về hợp tác số 2.684 lưu học sinh được tuyển chọn đi học đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đã tiếp tại 30 nước của đề án 322, số lượng được gửi tục được triển khai, điển hình là “Chương trình đi đào tạo nhiều nhất là ở Nga (496 người), 911”, tiếp nối “Chương trình 322” trước đây, tiếp đó là Úc (357 người) và Mỹ (334 người), đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở trình chiếm tỉ lệ cao nhất là các ngành khoa học kỹ độ thạc sỹ, tiến sỹ ở nước ngoài... Ngoài ra, thuật (41,49%), khoa học tự nhiên (14,55%), một điểm sáng nữa đó là quỹ NAFOSTED tiếp quản lý kinh tế (14,42%)... Trong giai đoạn 2 tục có nhiều đóng góp cho khoa học nước nhà, đề án 322 (kéo dài từ năm 2006 và kết thúc trở thành địa chỉ tin cậy, có uy tín đối với các vào năm 2014 với kinh phí dự kiến là 260 tỉ nhà khoa học mở rộng hợp tác quốc tế, ký đồng/năm), từ nay đến năm 2010, mỗi năm nhiều văn bản hợp tác với các quỹ quốc tế, tài Bộ Giáo dục - Đào tạo cấp 400 suất học bổng, trợ cho các đề tài nghị định thư hợp tác với Bỉ, trong đó 50% là để đào tạo bậc tiến sĩ tại các Úc, Mỹ... nước tiên tiến như: Mỹ, Canada, Anh, Đức, Nhằm tăng cường quan hệ hợp tác trong Pháp, Hà Lan, Liên bang Nga, Úc, New lĩnh vực giáo dục đại học giữa các trường đại Zealand, Nhật Bản, Hàn Quốc. Năm 2009, học Châu Âu và Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào nước ta đã có mối quan hệ liên kết đào tạo với tạo phối hợp với các cơ sở nước ngoài tổ chức khoảng 60 nước, 36 tổ chức quốc tế; 200 Diễn đàn Giáo dục đại học Việt Nam – Châu chương trình liên kết đào tạo ở những mức độ Âu vào ngày 3/11/2016 và Triển lãm giáo dục khác nhau. Năm 2011, có khoảng 60.000 du học sinh Việt Nam đang theo học tại các cơ sở Đại học Châu Âu vào ngày 4/11/2016. Hai sự đào tạo nước ngoài. Những ngành nghề được kiện này thể hiện cam kết thúc đẩy phát triển ưu tiên đào tạo bao gồm công nghệ thông tin, quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, công châu Âu với những nền giáo dục đại học hàng nghệ nano, công nghệ cao. Năm 2014, nước đầu thế giới, tạo sân chơi cho các trường đại ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng học Việt Nam và châu Âu xây dựng và phát trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, đồng thời vấn triển chương trình hợp tác, đóng góp chung đề hợp tác quốc tế được triển khai một cách vào việc tăng cường hội nhập quốc tế của giáo toàn diện, phục vụ cho chính sách đối ngoại dục đại học Việt Nam, kêu gọi và thúc đẩy xúc đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Việt Nam đã cử nhiều cán bộ đi giảng dạy, tiến đầu tư trong lĩnh vực giáo dục trong bối nghiên cứu, nâng cao trình độ ở nhiều quốc cảnh nguồn vốn vay ODA sẽ chấm dứt vào 101
  7. Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology Số 1/2017 No. 1/2017 năm 2018, và các viện trợ song phương cũng Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quy như nguồn học bổng của Chính phủ các nước định về việc quản lý công tác quan hệ quốc cấp ngày càng hạn hẹp. Tham gia Diễn đàn tế trong toàn ngành nhưng trên thực tế việc này có khoảng 30 trường Đại học đến từ các thực hiện còn nhiều chồng chéo Trước xu thế toàn cầu hoá, sự phát nước Châu Âu và gần 50 trường đại học của triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ Việt Nam. Tại Diễn đàn này, các cơ sở giáo đang diễn ra như vũ bão, để có thể hội nhập dục trong nước và quốc tế đã cùng nhau chia với thế giới, Việt Nam phải xây dựng cả xã sẻ, báo cáo một số kinh nghiệm phục vụ cho hội thành xã hội học tập. Toàn cầu hoá yêu quá trình hội nhập quốc tế của các cơ sở đào cầu phải thay đổi nền giáo dục của Việt Nam. tạo đại học nhằm tháo gỡ những khó khăn Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào cũng như mang đến những thông tin và cơ hội tạo có ý nghĩa hết sức quan trọng, sẽ là thời du học có giá trị cho học sinh, sinh viên cũng cơ để Việt Nam nắm bắt cơ hội hòa mình vào dòng chảy tri thức chung của thế giới, cũng như cơ hội hợp tác giáo dục đại học giữa Việt sẽ là thách thức mà nếu kiên định sẽ vượt Nam và Châu Âu. qua để thành công hơn, góp phần không nhỏ Bên cạnh đó cũng có nhiều hạn chế: vào quá trình xây dựng đất nước theo hướng Việt Nam chưa chuẩn bị và đào tạo kịp CNH, HĐH. Bên cạnh đó, từ những thành những cán bộ có trình độ chuyên môn và công và hạn chế trong sự nghiệp giáo dục và ngoại ngữ giỏi để làm công tác quan hệ quốc đào tạo trong suốt 30 năm đổi mới càng tế trong tình hình quốc tế thay đổi đột ngột khẳng định rằng: Hợp tác quốc tế trong lĩnh và các đối tác mới càng nhiều hơn. Chưa kịp vực giáo dục - đào tạo là vấn đề cấp bách và xây dựng được một cơ chế và bộ máy hữu sống còn đối với Việt Nam cả ở hiện tại và hiệu để điều hành và quản lý công tác quan tương lai. Để phát triển giáo dục - đào tạo hệ quốc tế của ngành, từ việc đào tạo và sử Việt Nam có thể hội nhập tốt với thế giới và dụng cán bộ một cách hợp lý cho đến việc khu vực, cùng với việc tăng thêm đầu tư của phân cấp quản lý công tác quan hệ quốc tế Nhà nước, phải xã hội hóa giáo dục một cách một cách rõ rằng: Hợp tác từ Bộ đến các sâu rộng và hội nhập quốc tế kịp thời, nhanh ngành và cơ sở. Mặc dù từ tháng 3/1994, chóng và chủ động TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Báo cáo quốc gia giáo dục cho Việt Nam 2015 của Việt Nam, Hà Nội. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Đảng về phát triển kinh tế - xã hội từ đổi mới (năm 1986) đến nay, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. [5] Trần Việt Hưng (1990), Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Tạp chí cộng sản, (20), tr.25-30. [6] Nguyễn Đình Hương (2007), Việt Nam hướng tới nền giáo dục hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 102
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2