BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Bùi Như Lai
KỊCH NÓI TIẾP THU ẢNH HƯỞNG KỊCH HÁT TRUYỀN THỐNG QUA MỘT SỐ VỞ DIỄN CỦA NHÀ HÁT TUỔI TRẺ
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Sân khấu Mã số: 9210221
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội - 2021
Công trình được hoàn thành tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Đào Mạnh Hùng Phản biện 1: Phản biện 2: Phản biện 3: Luận án được bảo vệ trước Hội đồng đánh giá luận án cấp Viện tại:
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM 32 phố Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội Vào lúc giờ ngày tháng năm 2021
Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam; - Thư viện Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài Vở kịch đầu tiên được coi là đánh dấu mốc cho sự ra đời của thể loại kịch nói ở Việt Nam là vở Chén thuốc độc (tác giả Vũ Đình Long) được công diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội vào năm 1921. Cũng từ đây, sân khấu Việt Nam song song tồn tại hai dòng sân khấu: Sân khấu kịch hát truyền thống và sân khấu kịch nói. Ở buổi đầu mới hình thành, do chịu ảnh hưởng chủ yếu từ văn học kịch nên về mặt biểu diễn, kịch nói Việt Nam vẫn còn nhiều bước chập chững và chủ yếu bắt chước những gì các nhà văn hóa Việt lúc đó học hỏi được từ văn hóa Pháp. Tuy nhiên, sự tự tôn dân tộc đã khiến những nghệ sĩ tiên phong ấy tìm tòi xây dựng một thể loại sân khấu kịch nói gần gũi với văn hóa dân tộc. Trong suốt quá trình lịch sử gần 100 năm hình thành và phát triển, đã hình thành một xu hướng kịch nói tiếp thu những tinh hoa nghệ thuật của kịch hát truyền thống. Quá trình kịch nói Việt Nam tiếp thu ảnh hưởng sân khấu kịch hát truyền thống từ nhiều thập niên trước đã góp phần tạo nên thành công của nhiều vở diễn ở hầu hết các đơn vị nghệ thuật, trong đó có các vở diễn của Nhà hát Tuổi trẻ.
Những cuốn sách mang tính sơ khảo, lược khảo về sự hình thành và phát triển của kịch nói Việt Nam đã giúp nghiên cứu sinh (NCS) nghiên cứu sâu về xu hướng kịch nói tiếp thu sân khấu kịch hát dân tộc. Qua tìm hiểu về những công trình nghiên cứu của những người đi trước, NCS nhận thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu về ảnh hưởng của kịch hát truyền thống đến kịch nói Việt Nam qua những vở diễn cụ thể, tiêu biểu. Vì thế, NCS mạnh dạn lựa chọn đề tài “Kịch nói tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống qua một số vở diễn của Nhà hát Tuổi trẻ” để làm luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu tổng quát
2
Nghiên cứu quá trình kịch nói Việt Nam tiếp thu ảnh hưởng của sân khấu kịch hát truyền thống để khẳng định những luận điểm sau: Đó là sự tiếp thu một cách có sáng tạo tinh hoa văn hóa nghệ thuật nội sinh (từ kịch hát truyền thống) và các yếu tố ngoại sinh (từ kịch phương Tây, chủ yếu là kịch chủ nghĩa Cổ điển Pháp thế kỷ XVII) để hình thành nên thể loại kịch nói Việt Nam. Nhà hát Tuổi trẻ đã tiếp nhận được xu hướng này để có những vở diễn thành công. Quá trình tiếp nhận các yếu tố nội sinh và ngoại sinh cũng là một quá trình tiếp biến văn hóa góp phần quan trọng để kịch nói Việt Nam phát triển và đậm đà bản sắc dân tộc.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể Phân tích một số vở diễn của Nhà hát Tuổi trẻ ở các mảng đề tài như: kịch lịch sử, kịch đề tài hiện đại, hay khi dàn dựng kịch bản kinh điển thế giới, kịch cho thiếu nhi... để khẳng định sự tiếp thu tinh hoa của sân khấu truyền thống giúp nghệ thuật kịch nói vượt qua được những gò bó của không gian thời gian sân khấu; Đây cũng là quá trình tiếp thu, cải biến những yếu tố của kịch phương Tây để thích hợp với tâm lý thưởng thức, văn hóa của người Việt (gia tăng yếu tố trữ tình; gia tăng tương tác với khán giả, kết hợp giữa nghệ thuật biểu diễn gián cách và nghệ thuật biểu diễn hóa thân, dùng nghệ thuật biểu diễn để hiển thị hoàn cảnh, tình huống kịch...). 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xác định cơ sở lý luận về ảnh hưởng của sân khấu kịch hát truyền
thống đến sân khấu kịch nói Việt Nam.
- Đánh giá về thực trạng ảnh hưởng của sân khấu kịch hát truyền thống đến sân khấu kịch nói qua phân tích một số vở diễn tiêu biểu của Nhà hát Tuổi trẻ.
- Rút ra một số bài học về sự ảnh hưởng của sân khấu kịch hát truyền
thống đến sân khấu kịch nói Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu
3
Luận án nghiên cứu về ảnh hưởng của sân khấu kịch hát truyền thống đến sân khấu kịch nói qua một số vở diễn tiêu biểu của Nhà hát Tuổi trẻ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi về thời gian Giai đoạn Nhà hát Tuổi trẻ được thành lập cho tới nay. Phạm vi nội dung Kịch nói tiếp thu ảnh hưởng kịch hát truyền thống qua những vở diễn của Nhà hát Tuổi trẻ là Rừng trúc (tác giả Nguyễn Đình Thi, đạo diễn NSND Phạm Thị Thành; bản diễn ngày 02/10/2004); Vũ Như Tô (tác giả Nguyễn Huy Tưởng, đạo diễn NSND Phạm Thị Thành; bản diễn ngày 26/07/2003); Công lý không gục ngã (tác giả Lê Chí Trung, đạo diễn NSND Doãn Hoàng Giang; bản diễn ngày 17/5/2015); Macbeth (tác giả William Shakespeare, đạo diễn NSND Lê Hùng; bản diễn ngày 28/02/2003); Bến bờ xa lắc (tác giả Lê Thu Hạnh, đạo diễn NSND Xuân Huyền và Lee Eun Son; bản diễn ngày 03/11/2017); Dế Mèn phiêu lưu ký (tác giả chuyển thể Vũ Hải, đạo diễn NSƯT Bùi Như Lai, bản diễn ngày 20/05/2015).
4. Câu hỏi nghiên cứu - Xu hướng kịch nói Việt Nam tiếp thu kịch hát truyền thống dân tộc
có phải là tất yếu trong bối cảnh tiếp biến văn hóa?
- Xu hướng này được thể hiện cụ thể trong một số vở diễn ở Nhà hát
Tuổi trẻ ra sao?
- Khi sân khấu thế giới cũng đang theo xu hướng ước lệ, tối giản... thì
kịch nói Việt Nam muốn giữ được bản sắc riêng, cần tiếp tục ra sao?
- Bài học kinh nghiệm nào cho đội ngũ sáng tạo kịch nói hiện nay? 5. Giả thuyết nghiên cứu Ra đời dưới ảnh hưởng của văn hóa châu Âu (cụ thể là văn hóa Pháp); tiếp thu tinh hoa của sân khấu dân tộc trong quá trình phát triển, kịch nói Việt Nam mới có thể phát triển một cách nhanh chóng và bền
4
vững, khẳng định được nét độc đáo riêng. Nhờ vào quá trình tiếp thu này, kịch nói Việt Nam nói chung, Nhà hát Tuổi trẻ nói riêng đã có những vở diễn thành công lớn. Sẽ khó có được những thành công và sự phát triển như ngày nay nếu kịch nói Việt Nam không tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống.
6. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp đồng đại và lịch đại. Phương pháp phân tích - tổng hợp. Phương pháp so sánh - đối chiếu. Luận án cũng rất cần đến cách tiếp cận liên ngành giúp NCS luận bàn sâu hơn về những yếu tố văn hóa học, nghệ thuật học, triết học, mỹ học phương Đông và phương Tây...
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 7.1. Đóng góp về lý luận Nhìn từ góc độ lý luận đối với một xu hướng phát triển có tính tất yếu khi kịch nói tiếp thu tinh hoa kịch hát truyền thống, củng cố tư liệu đã có và khẳng định xu hướng này được chính đội ngũ đạo diễn từ thế hệ đầu tiên đến nay tiếp tục duy trì. Đây cũng là quá trình Việt hóa một hình thức nghệ thuật tiếp thu từ bên ngoài để hình thành và phát triển.
7.2. Đóng góp về mặt thực tiễn Qua phân tích các tác phẩm kịch nói cụ thể dưới góc độ tiếp thu ảnh hưởng sân khấu kịch hát truyền thống, có thể rút ra những bài học thực tế cho công tác dàn dựng của các đạo diễn hiện nay.
8. Cấu trúc luận án Ngoài phần Mở đầu (7 trang); Kết luận (3 trang); Tài liệu tham khảo (6 trang); Danh mục các công trình nghiên cứu (1 trang); Phụ lục (18 trang), luận án chia thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề
tài (46 trang).
5
Chương 2: Các vở diễn thành công của Nhà hát Tuổi trẻ trong việc
tiếp thu tinh hoa kịch hát truyền thống (77 trang).
Chương 3: Những bài học từ xu hướng kịch nói tiếp thu nghệ thuật
kịch hát truyền thống (27 trang).
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Về sân khấu nói chung, sân khấu kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam nói riêng liên quan tới đề tài, có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học. NCS xin chia nhóm theo những vấn đề sau 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật kịch nói 1.1.1.1. Nhóm công trình của các tác giả nước ngoài được phổ biến ở
Việt Nam
Rất nhiều sách lý luận kịch phương Tây được dịch và phổ biến ở Việt Nam đã giúp các thế hệ nghệ sĩ hiểu rõ hơn về hình thức kịch nói - drama như: Lý luận kịch từ Aristot đến Lessin (Anhikst - Tất Thắng dịch), Người diễn viên thế kỷ XX (Aslan Odette - Vũ Quý Biền dịch), Bàn về sân khấu tự sự (B. Brecht - Đỗ Trọng Quang dịch), Nghệ thuật diễn viên (Dakhava - Vũ Đình Phòng dịch), 4 tập Nghệ thuật đạo diễn (Zvereva chủ biên - Hoàng Sự dịch), Lý luận về biểu diễn sân khấu (K.S.Stanislapxki - Nguyễn Đức Lộc dịch)…
1.1.1.2. Những công trình lý luận về kịch nói của các tác giả Việt Nam PGS Tất Thắng có những cuốn lý luận rất đáng chú ý như Về thi pháp kịch, Lý luận kịch… cùng những sách khác như Những vấn đề cơ sở lý luận phê bình sân khấu của PGS.TS Phạm Duy Khuê... và nhiều cuốn sách nghiên cứu khác về lý luận, về lịch sử kịch nói Việt Nam.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu về đặc trưng, phương pháp
của sân khấu kịch hát truyền thống
6
Đặc trưng nghệ thuật Tuồng (Nhà nghiên cứu Mịch Quang), Sơ thảo lịch sử Tuồng của GS Hoàng Châu Ký, Hội thoại về nghệ thuật Tuồng của Phạm Phú Tiết, Nội dung xã hội và mỹ học Tuồng đồ là công trình nghiên cứu của Lê Ngọc Cầu và Phan Ngọc, Nghệ thuật Tuồng, nhận thức từ một phía của PGS Tất Thắng, Đạo diễn với kịch hát dân tộc, (NSND Nguyễn Ngọc Phương), Chèo - một hiện tượng sân khấu dân tộc và Trần Bảng - Đạo diễn chèo của GS.NSND Trần Bảng, Những nguyên tắc cơ bản trong phương pháp nghệ thuật của Chèo truyền thống của TS, nhà viết kịch Trần Đình Ngôn, Sân khấu truyền thống bản sắc dân tộc và sự phát triển do GS.TS Đào Hùng chủ biên, Cơ sở Nghệ thuật ngẫu hứng của PGS.TS Phạm Duy Khuê, Nghệ thuật Chèo hiện đại - kế thừa và biến đổi của PGS.TS Đinh Quang Trung…
1.1.3. Những công trình có liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu - Về nghệ thuật diễn xuất kịch hát truyền thống và kịch nói Việt Nam của TS Đỗ Hương chủ yếu trình bày kịch nói Việt Nam tiếp thu ảnh hưởng của nghệ thuật diễn xuất kịch hát truyền thống. Đó là mối quan hệ tương tác, chịu ảnh hưởng lẫn nhau khi sân khấu Việt Nam hiện đại có sự song hành của kịch hát truyền thống và kịch nói… Do giới hạn của đề tài nghiên cứu nên tác giả chưa trình bày đầy đủ các khía cạnh của ảnh hưởng kịch hát truyền thống tới kịch nói, đặc biệt là cách các đạo diễn kịch nói tiếp thu tinh hoa kịch hát truyền thống trong xử lý không gian, thời gian sân khấu... - Sân khấu kịch nói tiếp thu sân khấu truyền thống của nhà nghiên cứu Hà Diệp, với các phần như: Vấn đề kịch nói tiếp thu tinh hoa kịch hát truyền thống; Vấn đề tiếp thu sân khấu truyền thống Việt Nam; Quá trình tiếp thu; Nhìn chung, sách lược lại ý kiến của người đi trước.
- Sân khấu Việt nam và sự tiếp thu ảnh hưởng của sân khấu nước ngoài trong quá trình phát triển của GS.TS. Đào Mạnh Hùng. Đây là một công trình nghiên cứu khoa học về quá trình giao lưu hội nhập văn hóa của Việt Nam với thế giới qua các giai đoạn lịch sử. Trong bối cảnh chung của nền văn hoá dân tộc, qua những lần giao lưu hội nhập, nghệ
7
thuật sân khấu cũng tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá nghệ thuật thế giới và tự hoàn thiện mình.
- Tiếng cười trên sân khấu kịch nói Việt Nam trong quan hệ với tiếng cười của sân khấu truyền thống - Luận án của Lê Mạnh Hùng. Ngoài lý thuyết về tiếng cười nói chung, tác giả phân tích những nhân tố gây ảnh hưởng từ sân khấu truyền thống Việt Nam vào tiếng cười trên sân khấu kịch nói và Tiếng cười của kịch nói Việt Nam tiếp nhận ảnh hưởng của tiếng cười trên sân khấu truyền thống. Nhân đó, tác giả cũng luận bàn về ảnh hưởng của kịch hát truyền thống tới kịch nói Việt Nam.
- Sự hình thành và phát triển của Mỹ thuật Kịch nói của NSND Phùng Huy Bính là cuốn sách tư liệu chân thực, giúp người làm nghề đi sau có thể vẽ lại sự tiếp thu tinh hoa sân khấu truyền thống của mỹ thuật Kịch nói Việt Nam vì thiết kế mỹ thuật thể hiện rõ rệt nhất cách xử lý không gian, thời gian sân khấu, cũng là khâu quan trọng giúp định hình xu hướng, phong cách, thậm chí trường phái sân khấu ở từng giai đoạn, từng đạo diễn...
- Phần 2 trong cuốn Về thi pháp kịch của PGS Tất Thắng, có bài “Kịch nói tiếp thu kịch hát vấn đề thi pháp” đã đưa ra một số đánh giá thẳng thắn về xu hướng tiếp thu kịch hát trên khía cạnh thi pháp.
- Loạt tham luận của TS.NSND Nguyễn Đình Nghi “Sân khấu kịch Việt Nam trên đường tìm về truyền thống”, “Quan hệ giữa sáng tác và biểu diễn kịch Việt Nam giai đoạn 1921-1945 dưới ảnh hưởng của phương Tây”; “Kịch nói Việt Nam đến hiện đại từ truyền thống” đã lược ghi quá trình kịch nói Việt Nam tiếp thu tinh hoa kịch hát truyền thống. Tác giả cho rằng, diễn viên kịch nói tiếp thu sân khấu truyền thống thì sẽ không rơi vào cực đoan như những trường phái châu Âu mà chấp nhận cả hai trạng thái đối địch mà châu Âu gọi là hòa cảm và gián cách, dù rằng, sáng tạo của diễn viên kịch cũng khác diễn viên kịch hát truyền thống ở nhiều điểm.
8
1.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Đây là hiện tượng tiếp biến văn hóa “nội sinh” và sự tác động của các yếu tố nội sinh này vẫn tiếp tục phát huy tác dụng tích cực đối với kịch nói Việt Nam, trở thành hướng đi được lựa chọn của cả nền sân khấu kịch nói trong bối cảnh thế giới đang tiến tới hòa nhập.
Trên thực tế, kịch nói Việt Nam khi đi theo xu hướng này đã và đang có những thay đổi cần nghiên cứu sâu ở nhiều khía cạnh. Ngoài những áp dụng tinh hoa trong mô tả không gian, thời gian sân khấu, thì các khâu khác như biên kịch, âm nhạc, diễn xuất... chưa thực sự có được sự đồng bộ, lại càng cần thiết nghiên cứu để không làm lẫn đi ranh giới thể loại kịch nói. Chưa kể, hiện nay, sân khấu nhiều nước thế giới cũng đi theo xu hướng áp dụng những thủ pháp ước lệ, cách điệu lấy ít tả nhiều, lấy tối thiểu để miêu tả tối đa, những khác biệt của kịch nói Việt Nam nên đi theo hướng tiếp tục khẳng định được bản sắc riêng trong dòng chảy chung của kịch thế giới. Hiện tại, chưa có công trình nào đặt lại vấn đề này để tiến hành nghiên cứu trên thực tế hoạt động kịch nói Việt Nam thời kỳ mới, thời kỳ có những giao lưu hội nhập, có sự cọ sát thông qua nhiều kênh khác nhau với sân khấu các nước khác. Bên cạnh đó cần nghiên cứu sâu hơn về ảnh hưởng quan trọng của nghệ thuật kịch hát truyền thống đến kịch nói trong xử lý không gian thời gian sân khấu, trong nghệ thuật diễn xuất kịch nói, nghệ thuật biên kịch kịch nói, cũng như tới các thành tố khác của kịch nói, đặc biệt là qua một số vở diễn cụ thể.
1.3. Cơ sở lý luận của đề tài 1.3.1. Các khái niệm thao tác 1.3.1.1. Khái niệm ảnh hưởng - tiếp thu Ảnh hưởng: Theo Từ điển Tiếng Việt là “Tác động có thể để lại kết
quả ở sự vật hoặc người nào đó”.
Tiếp thu theo Từ điển Tiếng Việt có nghĩa: “Nhận lại cái do người
khác để lại; Tiếp nhận, biến thành nhận thức của mình”.
9
Như vậy, đề tài Kịch nói tiếp thu ảnh hưởng kịch hát truyền thống qua một số vở diễn của Nhà hát Tuổi trẻ hàm nghĩa: kịch nói tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát cái gì, tiếp thu những ảnh hưởng như thế nào, tại sao lại tiếp thu... để từ đó triển khai nghiên cứu với các vở diễn được lựa chọn.
1.3.1.2. Khái niệm về sân khấu kịch Drama của châu Âu Với những lý thuyết sân khấu hiện đại thì, trước hết kịch là một thể loại của văn học, “được viết dưới hình thức đối thoại dành cho biểu diễn sân khấu, lấy xung đột làm động cơ phát triển của toàn bộ nội dung vở kịch và là sự dung hợp các yếu tố đối lập của tính khách quan tự sự và tính chủ quan trữ tình [Bêlinxky]”.
1.3.1.3. Khái niệm về kịch hát truyền thống Việt Nam Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, tập II, định nghĩa kịch hát dân tộc là “Khái niệm xuất hiện từ sau Cách mạng tháng 8 năm 4945, chỉ chung hai loại kịch hát truyền thống là Chèo và Tuồng cùng tất cả các loại hình kịch hát khác ra đời đầu thế kỷ XX theo phương pháp của nghệ thuật chèo và tuồng như các nghệ thuật: Cải lương, ca kịch Huế, ca kịch Bài chòi, ca kịch Nghệ Tĩnh v.v... Kịch hát dân tộc thuộc loại sân khấu tự sự (kể chuyện) phương tiện biểu hiện bao gồm từ lời nói thường, nói lối đến ngâm vịnh, ca hát; từ động tác thường đến cách điệu và múa phối hợp hào hòa với nhau. Hát và múa phát triển từ dân ca, dân vũ đã tạo nên màu sắc dân tộc đậm đà, phong phú trong kịch hát dân tộc. Kịch hát dân tộc là bộ phận chủ yếu làm nên bề dày của nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam”.
Từ định nghĩa này, ta có thể duy danh, Kịch hát truyền thống của Việt Nam có hai thể loại là Tuồng và Chèo, ra đời khoảng thế kỷ XIII, lấy múa, hát (các bài hát, các làn điệu chuyên dùng và đa dùng), hành động cách điệu và nghệ thuật diễn xuất của diễn viên làm ngôn ngữ chủ yếu để tái tạo hiện thực, xây dựng, biểu hiện đời sống nhân vật - hình tượng nhân vật nhằm diễn kể câu chuyện (tích) trên sân khấu, theo hệ
10
thống các nguyên tắc của phương pháp hiện thực tả ý - hiện thực tả thần.
1.3.2. Lý thuyết tiếp biến văn hóa áp dụng vào đề tài luận án 1.3.2.1. Khái niệm “tiếp biến văn hóa” Tiếp biến văn hóa (acculturation) là khái niệm được các nhà nhân học phương Tây đưa ra vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Giao lưu văn hóa chính là sự tiếp xúc, tương hỗ, biến đổi lẫn nhau giữa hai nền văn hóa khác nhau. Tiếp biến, giao lưu văn hóa là một thuộc tính của nhân loại vì đó là hoạt động tự nhiên của con người.
1.3.2.2. Áp dụng lý thuyết tiếp biến văn hóa vào đề tài luận án Việt Nam có một nền văn hóa lâu đời, tạo nên được những giá trị tinh thần và một hệ tư tưởng vững chắc, chính là bộ lọc những giá trị văn hóa được du nhập từ ngoài vào. Chúng ta có nhiều hình thức văn học nghệ thuật bắt nguồn từ những yếu tố ngoại sinh để rồi tiếp biến cho phù hợp với tâm lý, sự thưởng thức của người dân. Sân khấu, đặc biệt là sân khấu kịch nói lại càng tuân thủ theo quy luật này một cách rõ ràng. Sự tiếp thu các yếu tố văn hóa bản địa để phát triển, cũng là tiền đề tích cực để Việt hóa các yếu tố ngoại sinh của kịch nói Việt Nam.
Sân khấu kịch nói Việt Nam tiếp thu những tinh hoa của sân khấu truyền thống cũng là sự phù hợp với lý thuyết kế thừa truyền thống trong nghệ thuật.
1.3.3. Kịch nói và kịch hát truyền thống: những điểm tương đồng,
khác biệt
1.3.3.1. Những điểm tương đồng Cả hai đều là các hình thức sân khấu, lấy ngôn ngữ đối thoại là chủ yếu lấy xung đột làm phương tiện diễn tả cuộc sống. Dù khác nhau về nguyên tắc, thủ pháp... nhưng đều lấy mục tiêu là xây dựng các hình tượng nghệ thuật.
11
1.3.3.2. Những điểm khác biệt Kịch là tái hiện hiện thực; kịch hát truyền thống là tái tạo hiện thực; Kịch nhằm tạo ra ảo giác nghệ thuật đối với người tiếp nhận nên cố gắng tái tạo như hiện thực đang diễn ra. Kịch hát truyền thống lại lấy nguyên tắc tự sự bao trùm, khẳng định sân khấu chỉ là nơi kể lại câu chuyện. Kịch nói bị ràng buộc vào yêu cầu tả thật, khuôn vào những không gian và thời gian cố định. Ngược lại, ở kịch hát không gian thời gian sân khấu chỉ mang tính giả định, gợi ý. Kịch nói lấy cốt truyện để khám phá, phát hiện nội dung đời sống nhân vật, kịch hát lấy nhân vật để diễn kể câu chuyện; Ở kịch nói, xung đột đối chọi trực tiếp giữa các thế lực, kịch hát phát triển xung đột trong trữ tình; Kịch nói sử dụng lời kịch là đối thoại trong đời sống thường nhật, kịch hát: lời kịch là văn biền ngẫu và thơ cho các thể nói lối, nói cách, nói sử, nói vần, ngâm, vịnh, vỉa và hát; Kịch nói ngăn cách giữa vở diễn trên sân khấu với khán giả, thì kịch hát, đánh giá cao sự tương tác giữa nghệ sĩ - nhân vật với khán giả; Sân khấu kịch nói thường chú trọng tới yếu tố cá biệt hóa trong khi kịch hát truyền thống, các nhân vật thường mang tính phiếm dụ. Kịch nói đòi hỏi diễn viên không được phép sai lời kịch, nên sự phát huy nghệ thuật ngẫu hứng vẫn chỉ trong chừng mực nhất định. Nhưng với kịch hát truyền thống, các nghệ sĩ có rất nhiều khoảng trống để linh hoạt, ngẫu hứng sáng tạo.
1.3.3.3. Một số hạn chế của kịch nói, kịch hát truyền thống Với kịch nói, vì là hình thức sân khấu thiên về tả chân, yêu cầu đối với cảnh trí mô tả phải chi tiết, chân thực, diễn viên phải đồng cảm, nhập vai như đang sống cuộc đời của nhân vật... nên đòi hỏi không gian thời gian cố gắng tập trung ở một địa điểm, trong khoảng thời gian nhất định, hành động duy nhất. Kịch nói rất ít sự tương tác với khán giả, làm giảm đi cảm hứng được tạo ra từ sự cộng hưởng với khán giả, khá nghiêm ngặt với những ngẫu hứng trong biểu diễn, đánh mất đi phần nào nét phóng khoáng, tự do và khoái hoạt của mỗi đêm diễn.
12
Kịch hát truyền thống lại bị giới hạn bởi nguyên tắc mô hình hóa. Tuồng cổ và Chèo cổ có rất ít nhân vật chuyển hóa tính cách, làm giảm khả năng phát triển của nhân vật, giảm đi sự hấp dẫn của kịch tính, thiếu đi sự biến chuyển vốn thường diễn ra trong cuộc sống...
1.3.4. Kịch nói vận dụng sáng tạo một số nguyên tắc nghệ thuật
của kịch hát truyền thống
1.3.4.1. Nguyên tắc tự sự của kịch hát truyền thống: Đây là nguyên tắc chi phối lớn nhất đối với các nguyên tắc khác của Tuồng và Chèo. Là hình thức sân khấu kể chuyện, tự sự... nên kịch hát truyền thống ngay từ khi hình thành đã theo phép biên kịch tự sự (epique). Do cấu trúc tự sự nên kịch hát truyền thống thường có dung lượng phong phú với nhiều tình tiết mở rộng, đan xen, cũng cho phép mở rộng dung lượng không gian và thời gian không hạn chế. Nguyên tắc này cũng quy định kể chuyện theo trình tự thời gian không đảo lộn, không hồi tưởng...
1.3.4.2. Nguyên tắc ước lệ trong Tuồng - Chèo truyền thống: Với Tuồng - Chèo, ước lệ là một nguyên tắc nghệ thuật nhằm đạt tới mục đích tả ý, tả thần. Nói cách khác, ước lệ khiến kịch hát diễn tả hiện thực không giống như thật nhưng lại đạt được hiệu quả cao về sự nhận biết khi lột tả được cái thần, cái bản chất của sự vật hiện tượng và tâm tư con người. Tuồng và Chèo đã giải quyết vấn đề không gian và thời gian theo phương thức không tả thật mà biến ảo, đa dạng nhờ vào diễn xuất của diễn viên.
1.3.4.3. Nguyên tắc xây dựng và chuyển hóa mô hình Tuồng, Chèo thực hiện nguyên tắc mô hình hóa trong xây dựng hình tượng nhân vật, trong cấu trúc các làn điệu hát, các khuôn múa, vũ đạo, mà mô hình nhân vật là tổng hợp các mô hình khác.
Trong 3 nguyên tắc chủ yếu của sân khấu kịch hát thì nguyên tắc ước lệ được các nghệ sĩ kịch nói Việt Nam nghiên cứu, sử dụng nhiều nhất.
13
Tiểu kết Trong những công trình nghiên cứu đã được công bố có liên quan trực tiếp tới đề tài luận án, đáng chú ý nhất là những tham luận của TS.NSND Nguyễn Đình Nghi. Ông đã nhấn mạnh những điểm quan trọng trong quá trình kịch nói tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống từ cách xử lý không gian thời gian sân khấu đến nghệ thuật biểu diễn. Kịch nói Việt Nam chính thức có dấu mốc ra đời với vở diễn Chén thuốc độc công diễn vào năm 1921, lại cùng song hành với nền kịch hát truyền thống đã có nhiều trăm năm phát triển nên sự ảnh hưởng của kịch hát truyền thống đến nền kịch nói non trẻ này là tất yếu; Mỹ thuật sân khấu là khâu quan trọng trong việc tiếp thu tinh hoa kịch hát, mà mỹ thuật thời kỳ những thập niên cuối thế kỷ XX, do hoàn cảnh thường xuyên phải đi lưu diễn, không thể có những thiết kế cồng kềnh phức tạp dù là cần thiết nên cần phải có thay đổi theo hướng ước lệ; Thêm nữa, điều kiện trang thiết bị sân khấu còn thô sơ của các rạp hát không cho phép có những chuyển cảnh quy mô nhanh chóng...
Kịch nói Việt Nam Việt hóa được những yếu tố ngoại sinh của loại hình và cũng có cơ sở, điều kiện để bắt kịp với xu hướng phát triển của sân khấu thế giới chính là nhờ vào tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống. Nếu các nghệ sĩ hiểu sâu rộng hơn, có tư duy tốt hơn để tiếp biến một cách trọn vẹn các nguyên tắc của sân khấu truyền thống, chứ không chỉ nặng về một nguyên tắc ước lệ thì chắc hẳn, sự tiếp thu sẽ rộng hơn, sâu hơn.
Tuy nhiên, không phải mọi nguyên tắc, phương pháp của kịch hát truyền thống đều là tích cực, phù hợp với kịch nói. NCS cũng đã mạnh dạn chỉ ra những điểm còn hạn chế mà chỉ khi biết cách tiếp biến, bổ sung lẫn nhau, các thể loại của sân khấu Việt Nam mới có thể vững vàng phát triển. Với kịch nói, để có thể tiếp tục phát triển, rất cần có một sự hợp tác đồng bộ giữa mọi thành phần sáng tạo, có sự tiếp thu một cách toàn diện, đầy đủ hơn không chỉ những nguyên tắc, thủ pháp của kịch hát truyền
14
thống mà còn ở phần hồn cốt, những yếu tố mang tính thi pháp của thể loại để kịch nói có thêm những thành tựu mới, khẳng định được vị trí mũi nhọn trong nền sân khấu Việt Nam.
Chương 2 CÁC VỞ DIỄN THÀNH CÔNG CỦA NHÀ HÁT TUỔI TRẺ TRONG VIỆC TIẾP THU TINH HOA KỊCH HÁT TRUYỀN THỐNG 2.1. Khái quát quá trình kịch nói Việt Nam tiếp thu ảnh hưởng
nghệ thuật kịch hát truyền thống
2.1.1. Những vở kịch nói đầu tiên tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát
truyền thống
Có thể nói, đạo diễn Trần Hoạt là người đầu tiên tiếp thu, vận dụng nguyên tắc ước lệ của sân khấu kịch hát truyền thống trong xử lý không gian, thời gian sân khấu như vở Quẫn kịch bản của Lộng Chương, năm 1960. Những vở hài kịch như Quẫn, Cửa mở hé, Sang sông... đã ghi dấu ấn độc đáo của một đạo diễn vận dụng tốt những yếu tố của sân khấu chèo vào kịch nói.
2.1.2. Những tác phẩm thành công khi tiếp thu ảnh hưởng của
kịch hát truyền thống
Cùng thời với Trần Hoạt, các đạo diễn NSND Xuân Đàm, NSND Xuân Huyền, NSƯT Đoàn Anh Thắng… đều đã có những sáng tạo mới mẻ khi khai thác tinh hoa sân khấu kịch hát truyền thống dân tộc. NSND Xuân Đàm đã tận dụng tất cả những khoảng không gian sân khấu cho phép để tạo đất diễn cho diễn viên qua các vở như Tiếng hát, Bão tố ngoài khơi, Bình minh đó - trái tim anh, Chuyện đời thường vớ vẩn… NSUT Đoàn Anh Thắng với vở diễn Dòng sông ám ảnh đặc biệt thành công trong việc xử lý không gian các cảnh diễn theo những nguyên tắc mỹ học sân khấu ước lệ; NSND Xuân Huyền với các vở Đợi đến mùa xuân, Lời thề thứ chín, Cát bụi… lại tận dụng những vật thể rất ít ỏi hiện hữu trên sàn diễn để biểu hiện như những vật thể giầu
15
sức biểu cảm. Đạo diễn, NSUT Vũ Minh cũng có những tác phẩm được đánh giá cao như vở Đêm và ngày, Già kén, Bài ca miền đất chết...
Đặc biệt là vai trò của NSND Nguyễn Đình Nghi với những tác phẩm đỉnh cao, đóng góp vào gia tài sân khấu Việt những vở kịch ghi dấu son sáng ngời như: Tiếng sấm Tây Nguyên, Âm mưu và hậu quả, Đại đội trưởng của tôi, Con cáo và chùm nho, Tổ quốc, Đỉnh cao phía trước, Âm mưu và tình yêu, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Cô gái đội mũ nồi, Lôi Vũ, Vua Lia, Hoa cúc xanh trong đầm lầy, Hồn Trương Ba - da Hàng thịt, Nguồn sáng trong đời, Điều không thể mất... Quan trọng hơn, ông đã đúc kết kinh nghiệm để có những tham luận sâu sắc, nâng tầm văn hóa cho những sáng tạo trên sàn diễn của ông và các đồng nghiệp cùng thời.
2.2. Một số vở diễn tiêu biểu của Nhà hát Tuổi trẻ tiếp thu tinh
hoa kịch hát truyền thống
2.2.1. Tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống trong nghệ
thuật biên kịch
NCS đã phân tích các kịch bản Rừng trúc, Vũ Như Tô, Công lý không gục ngã, Macbeth, Bến bờ xa lắc, Dế Mèn phiêu lưu ký... để tìm thấy những biểu hiện các tác giả có xu hướng thể hiện các màn lớp tương đối độc lập, có những yếu tố khác lạ hóa trong diễn tả hiện thực đời sống, xây dựng hình tượng nhân vật cũng như cấu trúc kịch bản có những điểm tương đồng về mặt nghệ thuật biên kịch kịch hát... Với Bến bờ xa lắc, NCS ấn tượng với hình tượng nhân vật nữ chính, cái kết cay đắng của Thúy giống với nàng Súy Vân trong Chèo truyền thống, một phụ nữ nổi loạn vì khát vọng hạnh phúc. Kịch bản Dế Mèn phiêu lưu ký có cách xây dựng nhân vật trong kịch bản rất hợp với màu sắc của kịch hát truyền thống về sự lạ hóa, nhân cách hóa thế giới loài vật.
2.2.2. Tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống trong nghệ
thuật đạo diễn
Các đạo diễn khi dàn dựng thành công 6 kịch bản được nghiên cứu đều có cách lý giải và vận dụng nguyên tắc ước lệ trong xử lý không gian,
16
thời gian sân khấu. Hầu hết các vở đều trang trí đơn giản, có thêm những vật dụng nhỏ để gợi ý về bối cảnh kịch. Đặc biệt những màn chuyển không gian rất uyển chuyển như ở vở Rừng trúc, khi chuyển bối cảnh từ cung đình ra nơi dân dã mà không đóng màn thay cảnh, chỉ dùng những điệu múa dân gian trong ngày hội làng... Vở Công lý không gục ngã, những cảnh diễn liên tiếp rất nhanh gọn, bỏ qua những đoạn đóng màn thay cảnh. Đạo diễn đã cho người xem thấy được những thay đổi đầy biến ảo, từ cảnh ngoài chợ, nội cung, cung cấm, triều đình, nhà ngục, đại cảnh ngoài đường và cuối cùng là pháp đình. Vở Macbeth tận dụng sở trường của sân khấu kịch hát truyền thống có thể biểu diễn tốt những cảnh khó diễn, thường phải đẩy vào hậu trường như diễn tả cái chết của Marbeth và vợ. Nhưng đặc biệt với đêm diễn Bến bờ xa lắc cả hai đơn vị Việt, Hàn đều nhất quán dùng thủ pháp ước lệ để diễn tả câu chuyện khi chỉ sử dụng ánh sáng và vài đạo cụ như bộ bàn ghế mây, chiếc lọ hoa... toàn bộ sàn diễn tập trung cho diễn xuất của diễn viên. Với Dế Mèn phiêu lưu ký đạo diễn đề cao và kích thích sự tương tác, khán giả nhí tham gia vào các tình huống kịch, tạo nên sự sinh động, tăng thêm tính hấp dẫn.
2.2.3. Tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống trong nghệ
thuật diễn xuất
NCS đã đi sâu khai thác những nét diễn xuất thần của các nghệ sĩ như NSND Lê Khanh khi xử lý những cảnh nội tâm theo cung cách diễn xuất rất chắt lọc, dồn nén tâm sự ở các vai như Lý Chiêu Hoàng (trong Rừng trúc) hay Đan Thiềm của Vũ Như Tô. Công lý không gục ngã lại tuân theo cách diễn tả nhân vật tương ứng giữa tính cách và hình dáng bên ngoài khi Quang Ánh vào vai Mậu Lân mặt quầng thâm, nét xảo trá, gian ác, bộ dáng lúc hèn hạ lúc vênh váo thể hiện rất rõ. Hay vai Ngô Thì Nhậm của Bùi Như Lai lại khắc họa từ bước đi dáng đứng vẻ thanh tao, nét khảng khái của kẻ sĩ Bắc Hà... Ở Macbeth, NSND Anh Tú trong vai Macbeth, NSND Lan Hương trong vai vợ Macbeth đã có những đóng góp tuyệt vời trong diễn xuất với những vật dụng ước lệ. Bến bờ xa lắc lại một lần nữa
17
ghi đậm thêm tài năng của NSND Lê Khanh khi diễn mà như không diễn, như buông bỏ, dấu ấn của kịch hát truyền thống dường như ẩn vào không khí diễn như chơi đó. Bản diễn của các bạn Hàn Quốc cho thấy kỹ thuật diễn xuất có nhiều điểm tương đồng. Hai bản diễn đều đã ghi nhận thành công của các nghệ sĩ kịch nói chuyên nghiệp khi tiếp nhận lối diễn xuất với không gian thời gian hoàn toàn ước lệ của sân khấu kịch hát truyền thống. Vở Dế Mèn phiêu lưu ký lại là không khí sôi động đầy tinh thần trẻ trung, tươi tắn khi yêu cầu mô tả đường nét chính trong hình thể của mỗi loài vật, lại có sự khác biệt khá lớn trong tính cách của từng con vật.
2.2.4. Tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống trong Mỹ thuật Mỹ thuật sân khấu là khâu thể hiện ý đồ về xử lý không gian thời gian kịch. Mỗi vở diễn đều có thể thấy được sự ước lệ nhất định trong mỹ thuật. Vở Rừng trúc khi diễn tả dinh thự của Thái sư Trần Thủ Độ, được ví như “cột trụ chống trời” của triều Trần thì trên sàn diễn có chiếc cột rồng, phối với khung cảnh hoàng cung ở nền phía sau, ngụ ý chính là quyền uy và thế lực của Thái sư như ngang hàng vua chúa bởi rồng là biểu trưng chỉ vua mới được dùng ở chế độ phong kiến. Vở Vũ Như Tô những chiếc cột đá, công trình đầy tính mỹ thuật được mô tả trong kịch bản đã được thể hiện ở giai đoạn đầu với nửa chiếc cổng “khải hoàn môn” hiện ra trên sàn diễn cao lớn uy nghiêm, mười pho tượng chạy dài hai bên, những chiếc đầu rồng được khắc họa sắc nét... Yêu cầu thay cảnh không cần hạ màn, nhanh gọn chỉ bằng vài nét nhấn ấn tượng ở cảnh trí cứng hay mảnh lụa mềm mại không làm khó được họa sĩ chuyên thiết kế cho các loại hình sân khấu Tuồng, Chèo như ở vở Công lý không gục ngã. Trang trí được đánh giá là tối giản nhất trong số những vở NCS lựa chọn phân tích có lẽ thuộc về đêm diễn kết hợp giữa sân khấu Việt Nam - Hàn Quốc vở Bến bờ xa lắc. Mỹ thuật vở Dế Mèn phiêu lưu ký lại rực rỡ sắc màu những mô hình hoa, cỏ đều được làm cách điệu, rực rỡ và to lớn hơn bình thường. Các tổ của nhà Dế được xoay chuyển tối đa để tạo không gian đa chiều.
18
2.2.5. Tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống trong Âm nhạc Nhạc sĩ Phó Đức Phương khi làm vở Rừng trúc đã khuấy động lòng người với âm thanh của những nhạc cụ dân tộc như chiếc đàn đáy da diết khắc khoải, tiếng trống, tiếng phách, sáo, đàn bầu... đi cùng những lời ca trù thổn thức ngọt ngào đã hỗ trợ rất tốt cho diễn xuất cũng như tạo được không gian sang trọng mà giàu tính dân tộc cho vở diễn. Trong vở diễn Vũ Như Tô, sự hợp tác giữa nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân và đạo diễn Phạm Thị Thành đã trở thành sự đồng điệu. Công lý không gục ngã cũng lấy những âm hưởng này, ba lần sử dụng đều khá đắt. Âm nhạc ở vở Macbeth cũng góp phần thích đáng vào thành công của tác phẩm, làm cho tác phẩm trở nên rất đặc biệt nhờ vào sự phá cách phối hợp rất đẹp, rất êm giữa nhạc giao hưởng phương Tây kết hợp với những giai điệu âm nhạc dân tộc Việt Nam. Khán giả Việt Nam cũng dành tình cảm yêu mến đặc biệt cho cách xử lý âm nhạc của các nghệ sĩ Hàn Quốc trong Bến bờ xa lắc. Dàn nhạc sống với những nhạc cụ đặc trưng xứ bạn đã hỗ trợ tốt cho diễn xuất, tạo cảm hứng cho người diễn và người xem.
2.2.6. Tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống ở những nghệ
thuật phụ trợ khác
Các hình thức của nghệ thuật dân gian như múa, diễn xướng cũng được các đạo diễn vận dụng trong những cảnh diễn chủ chốt của tác phẩm sân khấu và đem lại hiệu quả rất tốt trong cảm thụ của người xem. Ví dụ, vở Rừng trúc điệu múa gõ gậy của đám trẻ trâu trong màn vua vi hành rất đắc địa hay những cảnh múa dân gian Bắc Bộ như múa cờ, múa mặt nạ trong màn hội làng... vừa tưng bừng, vừa gợi nhớ về văn hóa làng, văn hóa lúa nước rất Việt Nam. Trong vở Công lý không gục ngã, đạo diễn Doãn Hoàng Giang đã tạo nên những cảnh diễn như cảnh đưa Đặng Mậu Lân ra pháp trường, cả một đoàn người đi trong đêm tối với sự kết hợp giữa âm thanh, ánh sáng và nghệ thuật biểu diễn. Hay những màn múa ma mị, ám ảnh của bốn phù thủy, lực lượng đen tối luôn quẩn quanh bên nhân vật chính trong vở Macbeth. Âm thanh thét gào, gió hú, tiếng trống giục giã,
19
đêm tối, ánh sáng màu đỏ máu... tất cả kết hợp lại, gây ấn tượng căng thẳng, ám ảnh ma quái cho người xem. Ngược lại, cảnh diễn của Dế Mèn phiêu lưu ký lại là những nét múa tính cách, những đường nét tuyến tính mạnh mẽ hay yếu ớt... đem lại vẻ đẹp sinh động, hồn nhiên cho các loài vật được nhân cách hóa. Tiểu kết Kịch nói Việt Nam có rất nhiều đặc điểm khác với kịch (drama) của sân khấu phương Tây. Những vở diễn đem chuông đi đánh xứ người như các vở Tiếng hát, Hồn Trương Ba, da Hàng thịt... đã gây được sự chú ý, thích thú từ khán giả châu Âu nhờ tiếp thu có sáng tạo tinh hoa sân khấu kịch hát truyền thống. Quá trình tiếp thu này đã đem tới những thành quả lớn trong quá trình phát triển kịch nói Việt Nam.
Qua sáu vở diễn tiêu biểu của Nhà hát Tuổi trẻ có thể thấy, việc tiếp thu tinh hoa kịch hát truyền thống thể hiện đậm nét nhất ở nghệ thuật đạo diễn. Nhưng vở diễn thành công là những vở đồng bộ trong tiếp thu ảnh hưởng tích cực từ kịch hát truyền thống như nghệ thuật diễn xuất, mỹ thuật, âm thanh, ánh sáng, âm nhạc, múa. Nếu xử lý đạo diễn với không gian, thời gian sân khấu là ước lệ, thì cách diễn của diễn viên phải tương thích với không gian ước lệ đó một cách thuần thục thì hiệu quả mới thực sự thuyết phục.
Đặc biệt là sự ăn ý trong sáng tạo giữa đạo diễn, diễn viên cùng họa sĩ và nhạc sĩ để làm nên một bản tổng phổ là vở diễn. Học tập truyền thống, đồng thời chúng ta cũng nên học tập “đặc điểm vô cùng quan trọng: sân khấu truyền thống là ước lệ, cách điệu, giả định, nhưng không từ chối tả thực. Đi ngựa rất cách điệu nhưng nhân vật có thể hộc máu thật... Lớp Thị Màu rất cách điệu nhưng lớp việc làng rất gần tả thực... Cần chấp nhận trên cùng một sàn diễn nhiều hình thái miêu tả, không chỉ là giả định cũng không hoàn toàn là tả thực”.
Biên kịch kịch nói là khâu rất quan trọng, nhưng cũng chính ở khâu này, việc tiếp thu ảnh hưởng kịch hát chưa thật rõ ràng, ngoài một số nhận
20
thức của các tác giả khi mong muốn mở rộng biên độ phản ánh hiện thực nên đã có những thay đổi trong phép biên kịch, các phân cảnh của các tác giả ngày một phong phú hơn, không còn quá gò ép...
Chương 3
NHỮNG BÀI HỌC TỪ XU HƯỚNG KỊCH NÓI TIẾP THU NGHỆ THUẬT KỊCH HÁT TRUYỀN THỐNG
3.1. Những thành tựu và hạn chế trong việc tiếp thu tinh hoa kịch
hát truyền thống vào các vở diễn của Nhà hát Tuổi trẻ
3.1.1. Những thành tựu Một trong những nguyên nhân làm nên bề dày thành tích cho Nhà hát Tuổi trẻ là thành công của những vở diễn tiếp thu tốt ảnh hưởng của kịch hát truyền thống, góp phần không nhỏ khẳng định phong cách của Nhà hát Tuổi trẻ. Đó là phong cách riêng của một đơn vị sân khấu: tính dân chủ, tính dân gian, đời thường, tính tự sự (diễn kể) khá đậm nét, tính ước lệ, coi trọng sự trữ tình trong xung đột, tìm nét đẹp, chất thơ của đời sống; coi trọng việc tương tác với khán giả, coi trọng nghệ thuật ngẫu hứng - ứng tác và ứng diễn.
3.1.2. Một số hạn chế Không nên coi việc áp dụng các thủ pháp nghệ thuật của kịch hát truyền thống vào dàn dựng, biểu diễn là chìa khóa vạn năng. Tránh xu hướng thiếu đầu tư chiều sâu, làm nghèo sân khấu, không áp dụng được những thành quả rất đáng khích lệ của công nghệ hiện đại vào sân khấu để phù hợp hơn với thị hiếu khán giả trẻ. Rất cần học tập những bài học diễn xuất chân thật theo phương pháp của hệ thống hiện thực tâm lý Stanislavski để từ đó hiểu sâu, có sáng tạo trong nghệ thuật biểu diễn. Sự ước lệ không phải là sự giả vờ hời hợt...
3.2. Bàn luận về xu hướng kịch nói Việt Nam tiếp thu tinh hoa
kịch hát truyền thống
3.2.1. Hiệu quả của xu hướng kịch nói tiếp thu ảnh hưởng kịch hát
truyền thống
21
Xu hướng này giúp kịch nói chỉ sau gần 100 năm hình thành và phát triển đã hình thành rõ nét về mặt phương pháp - phong cách thể loại. Nghệ sĩ và công chúng Việt Nam đã quen với những ước lệ trên sàn diễn để những sự tả thực không níu kéo, giúp đạo diễn tự do hơn trong sáng tạo. Những ảnh hưởng của sân khấu kịch hát truyền thống đến kịch nói Việt Nam không những không cản trở kịch nói tiếp thu những thành quả thích hợp của sân khấu kịch hiện đại thế giới mà còn tạo điều kiện cho kịch nói Việt Nam giữ được bản sắc, không hòa tan trong sự giao lưu ngày càng rộng khắp hiện nay.
3.2.2. Một số điểm cần lưu ý trong xu hướng kịch nói tiếp nhận
ảnh hưởng kịch hát truyền thống
Nhiều đạo diễn áp dụng những phương pháp của sân khấu kịch hát truyền thống một cách cảm tính, chưa có hệ thống, thậm chí thiếu căn cứ lý thuyết cũng như cơ sở là thực tiễn sáng tạo để thuyết phục về một cách làm, một xu hướng... Vẫn còn có sự lộn xộn trong một tác phẩm khi không thống nhất về phương cách xử lý không gian tả thực hay tả ý, ước lệ. Hoặc ngược lại, có khi cảnh là ước lệ, người diễn viên lại không đủ trình độ để ứng xử thích ứng với cảnh trí... Đặc biệt, nhiều vở diễn nhân danh cái mới mà làm sai lạc đi những tinh túy từng được rút tỉa từ kho tàng truyền thống. Đó là chưa kể, nhiều đạo diễn nhân danh ước lệ mà làm ẩu, làm bừa...
3.2.3. Cần gìn giữ nét độc đáo cho kịch nói Việt Nam hiện đại Người nghệ sĩ tìm về với nguồn cội văn hóa dân tộc để làm thành bản sắc riêng cho kịch Việt Nam, đóng góp thêm cho hình thức drama của sân khấu thế giới nét khác biệt, độc đáo, làm phong phú và đa dạng hơn cho sân khấu nhân loại. Không chỉ bám vào mạch văn hóa diễn xướng để làm giàu thêm cho chất liệu dân tộc, rất nhiều gợi ý từ cảm thức về văn hóa dân tộc đã được người nghệ sĩ đưa lên sàn diễn kịch một cách thành công. Đó cũng là một trong những nhu cầu tự thân, đồng thời cũng góp phần không nhỏ tạo dựng phong cách riêng cho các đạo diễn, các đơn vị trong thời đại thế giới giao lưu hội nhập ngày càng sâu, ngày càng rộng.
22
3.3. Ảnh hưởng của kịch nói đối với kịch hát truyền thống 3.3.1. Ảnh hưởng tích cực Cách làm việc của thế hệ các đạo diễn kịch nói được đào tạo bài bản khi dựng vở cho tuồng, chèo... đã làm sân khấu truyền thống bước vào quỹ đạo hoạt động chuyên nghiệp, khoa học, tích cực, cải thiện sự tùy tiện, cung cách biểu diễn còn mang nặng tính nghiệp dư trước đây, thống nhất vở diễn trong một chủ đề tư tưởng… 3.3.2. Ảnh hưởng tiêu cực Đa phần đều lấy kịch bản từ kịch nói để chuyển thể sang kịch hát. Đáng tiếc, những tác phẩm chuyển thể này, về mặt văn học kịch chỉ có thể gọi bằng từ kịch cắm chèo, kịch cắm tuồng. Lực lượng đạo diễn chuyên nghiệp được học tập bài bản theo lý thuyết và cách dàn dựng của kịch nói, nhưng lại không mấy người được học hỏi về đạo diễn cho kịch hát, dễ dẫn tới tình trạng, áp đặt gây ảnh hưởng tiêu cực cho các thành phần sáng tạo khác, đặc biệt là diễn viên, dễ làm hỏng, biến các vở diễn của Tuồng, Chèo thành những vở Kịch - Chèo; Kịch cắm hát Chèo, hay Kịch cắm hát Tuồng…
Tiểu kết Các vở diễn của Nhà hát Tuổi trẻ khi tiếp thu tinh hoa nghệ thuật kịch hát truyền thống đã thực sự đem lại những thành công đáng kể, góp phần giúp đơn vị khẳng định được “thương hiệu” và có được phong cách riêng trong nền kịch nghệ Việt Nam. NCS cũng đã tìm ra những hạn chế nhất định khi các nghệ sĩ tiếp thu một chiều tinh hoa kịch hát truyền thống ngay tại Nhà hát Tuổi trẻ.
Các đạo diễn Việt Nam khi thực hành việc áp dụng tinh hoa sân khấu kịch hát truyền thống vào kịch nói vẫn còn có những điểm cần rút kinh nghiệm như: chưa có tư duy nền tảng nên xử lý dù có áp dụng thủ pháp của kịch hát truyền thống vẫn mang tính ngẫu nhiên; Vẫn có sự tùy tiện, chưa phù hợp, kiên cưỡng ở một số vở khi áp dụng những tinh hoa kịch hát truyền thống; Đáng phê phán hơn, có những đạo diễn lại ẩn sau nguyên tắc
23
ước lệ để làm ẩu, làm bừa; Ngược lại, có những đạo diễn lại coi nguyên tắc ước lệ của kịch hát truyền thống như chìa khóa vạn năng cho sáng tạo sân khấu....
Hiện nay sân khấu thế giới cũng ngày một nhiều tác phẩm sử dụng ước lệ, cách điệu trong xử lý không gian thời gian sân khấu. Cần phải khai thác hợp lý kho tàng văn hóa dân gian, rèn luyện để luôn có những suy nghĩ độc lập, không bị khuôn mẫu sẵn có trói buộc, có cách làm thích hợp nhất đối với từng tác phẩm riêng biệt. Nên chấp nhận sự đa dạng, không gò bó vào hình thức bất kỳ, đưa sân khấu trở lại với ý nghĩa ban đầu: sự trình diễn đầy tính tự nhiên, ngẫu hứng, ở bất kỳ địa điểm nào, với mọi hình thức... Ở một góc nhìn đối chiếu ngược, NCS cũng mạnh dạn chỉ ra những điểm tích cực cũng như cần điều chỉnh khi các nghệ sĩ kịch nói áp dụng lý thuyết kịch một cách máy móc cho sân khấu kịch hát truyền thống.
KẾT LUẬN
Do ảnh hưởng của tiếp biến văn hóa, của sự nối tiếp truyền thống... nên sân khấu kịch nói đã tiếp thu những tinh hoa của kịch hát truyền thống nhằm khắc phục những khó khăn trong mô tả không gian thời gian sân khấu. Có thể thấy, xu hướng kịch hát truyền thống ảnh hưởng tới kịch nói đã giúp kịch nói Việt Nam hình thành rõ nét về phương pháp thể loại, định hình một phong cách kịch nói dân tộc sau chưa đầy 100 năm phát triển. Xu hướng tiếp thu tinh hoa kịch hát truyền thống đã giúp kịch nói Việt Nam Việt hóa được những yếu tố ngoại sinh của loại hình và cũng tạo điều kiện để kịch nói Việt bắt kịp với xu hướng phát triển của sân khấu thế giới...
Thông qua việc phân tích những vở diễn ở các đề tài như kịch lịch sử, đề tài hiện đại, kịch thiếu nhi, kịch kinh điển thế giới của Nhà hát Tuổi trẻ, có thể thấy, cách thức học tập tinh hoa sân khấu kịch hát truyền thống giúp kịch nói thêm sinh động, hấp dẫn, mở ra nhiều cách hiểu và lý giải kịch bản hơn. Tùy thuộc vào tài năng, vào từng kịch bản cũng như sự phối kết hợp của cả ekip sáng tạo mà việc vận dụng được tinh hoa của sân khấu kịch hát truyền thống vào tác phẩm đậm nhạt khác nhau ở từng đạo diễn, từng vở diễn. Tuy nhiên, những
24
nguyên tắc được tiếp thu từ kịch hát truyền thống đã trở thành rất quen thuộc, thuận lợi trong mọi khâu sáng tạo của tác phẩm sân khấu, nhất là ở nghệ thuật đạo diễn. Với Nhà hát Tuổi trẻ, sự tiếp thu ảnh hưởng của kịch hát truyền thống một cách tích cực đã góp phần hình thành phong cách của đơn vị: tính dân chủ; tính dân gian, đời thường; tính tự sự (diễn kể); tính ước lệ trong xử lý nội dung và hình thức các vở diễn; coi trọng trữ tình trong xung đột - chất thơ của đời sống; coi trọng việc tương tác với khán giả; coi trọng nghệ thuật ngẫu hứng - ứng tác và ứng diễn.
Muốn giữ vững được nét độc đáo trong kịch, không trộn lẫn trong bối cảnh thế giới phẳng hiện nay thì các nghệ sĩ Việt Nam phải khai thác hợp lý kho tàng văn hóa dân gian, có được những suy nghĩ sáng tạo đổi mới, không bị khuôn mẫu sẵn có trói buộc, để có cách làm thích hợp nhất đối với từng tác phẩm riêng biệt. Có như vậy, kịch nói Việt Nam mới thực sự bảo tồn được những hiệu quả của xu hướng tiếp thu tinh hoa kịch hát, đồng thời bắt kịp những bước phát triển của sân khấu thế giới mà vẫn giữ vững được bản sắc dân tộc độc đáo của thể loại.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Bùi Như Lai (2020), “Về vấn đề giữ gìn bản sắc dân tộc trong kịch nói”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học Nghệ thuật, số tháng 4, tr.103 - 109. 2. Bùi Như Lai (2020), “Influence of narrative and convention principles from Traditional Theater arts to Vietnamese Spoken Theater arts” (Ảnh hưởng của nguyên tắc tự sự và ước lệ trong nghệ thuật sân khấu truyền thống đến với nghệ thuật sân khấu kịch nói Việt Nam), Tạp chí Cao học mục Văn hóa - Nghệ thuật của Nga, số 15, tr.36 - 39.