VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ LAN

TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ TRƢỚC

QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Ngành: Luật hiến pháp và hành chính

Mã số: 9 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2021

Công trình được hoàn thành tại:

Học viện khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Minh Mẫn

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện

họp tại……………………………..

vào hồi…….giờ…..phút, ngày…..tháng….. năm.

Có thể tìm hiểu Luận án tại Thư viện:

- Thư việc quốc gia

- Thư viện Học viện khoa học xã hội

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án

Trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội được hình thành đồng thời

với mô hình nhà nước dân chủ, trong đó có sự tồn tại của cơ quan hành

pháp và lập pháp. Các nghiên cứu của các học giả trên thế giới đã làm rõ và

cơ bản thống nhất cách hiểu, nội hàm nhiều vấn đề liên quan đến trách

nhiệm của chính phủ trước quốc hội như: Khái niệm, phạm vi, ý nghĩa, vai

trò, mục đích, phương thức thực hiện....

Tuy nhiên, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau như: lịch sử, văn hóa,

trình độ phát triển, thể chế chính trị, truyền thống pháp lý… mà nhiều vấn

đề cơ bản liên quan đến trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội còn có

những cách hiểu không thống nhất. Trách nhiệm của chính phủ trước quốc

hội không chỉ khác nhau giữa các mô hình tổ chức QLNN, trong việc lựa

chọn kỹ thuật để thể hiện mối tương quan giữa quốc hội với chính phủ mà

còn khác nhau về cách hiểu trong chính một quốc gia.

Hiện nay, khi đề cập đến pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội ở Việt Nam còn có nhiều quan điểm. Điều này thể hiện không chỉ

ở các quy định pháp luật chưa đầy đủ thì kể cả các nghiên cứu về vấn đề

này thời gian qua cũng chưa được chú trọng. Đó chính là một trong những

nguyên nhân cơ bản tưởng là tương đối rõ ràng về trách nhiệm của Chính

phủ trước Quốc hội như trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, trách

nhiệm pháp lý, trách nhiệm chính trị, trách nhiệm chủ động, trách nhiệm bị

động…khó tránh khỏi cách hiểu và diễn giải khác nhau.

Vấn đề đăt ra: Cơ chế và quy trình nào được áp dụng để Chính phủ và

thành viên Chính phủ nhận trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể trước

Quốc hội? Pháp luật đó có hợp lý, đáp ứng được yêu cầu thực tế? Tất cả

yếu tố đó tạo nên hệ thống pháp luật “trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội” ra sao? Các câu hỏi đó cần được nghiên cứu từ nguyên lý tổ chức

1

QLNN, bối cảnh lịch sử dân tộc, các yếu tố chính trị, xã hội, văn hóa, kinh

tế đất nước để tìm lời giải.

Góp phần hoàn thiện pháp luật “trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội” nhằm phát huy tốt chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan, hướng

tới mục đích phục sự Nhân dân, cần thiết nghiên cứu ở trên cả bình diện lý

luận và thực tiễn về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Chủ đề của

Luận án “Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt

Nam” được thiết kế với mong muốn góp phần giải mã một cách toàn diện

và có hệ thống các nội dung trên.

2. Mục đích và nhiệm vụ của Luận án

2.1. Mục đích của Luận án

Luận án có mục đích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm

của Chính phủ trước Quốc hội, đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiếp

tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan, bảo đảm các quy định

trực tiếp và gián tiếp về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội được

thực thi.

2.2. Nhiệm vụ của Luận án

Những kết quả đầu ra trên ràng buộc Luận án vào các nhiệm vụ cụ thể:

Một là: Phân tích cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội,

Chính phủ.

Hai là: Khái quát quá trình hình thành và thực tiễn vận dụng lý luận,

quy định về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội. Đánh giá thực

trạng quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật trách nhiệm của Chính phủ

trước Quốc hội hiện nay.

Ba là: Đề xuất và luận chứng quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp

luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

2

3.1. Đối tượng nghiên cứu

NCS tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định

về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội và Chính phủ, sự tác động

qua lại giữa hai chủ thể để xác định mối quan hệ hai bên. Sự đáp ứng của

các quy định hiện hành và thực tiễn áp dụng với yêu cầu thực tế đặt ra.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội dưới góc độ

là một phương thức tổ chức QLNN, do đó được xác định là một loại trách

nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý được quy định tại Hiến pháp và các

văn bản pháp luật về tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Chính phủ.

- Về thời gian: Luận án tập trung vào giai đoạn gắn liền với sự ra đời

Hiến pháp năm 2013 và nhận thức về chủ trương tiếp tục đổi mới, phát triển

nhà nước dân chủ.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận: Luận án được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng

phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác –

Lênin; quan điểm của Đảng CSVN và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền

Nhân dân, tổ chức và thực hiện QLNN.

4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Luận án được thực hiện bởi

các phương pháp cụ thể là: Phân tích, tổng hợp; Phương pháp xã hội học

pháp luật; Phương pháp lịch sử; Phương pháp thống kê; Phương pháp

nghiên cứu đa ngành, liên ngành.

Sự kết hợp nhiều phương pháp tiếp cận và nghiên cứu nhưng luôn tuân

thủ phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử hướng tới việc bảo đảm tính hệ thống, tính logic trong bố cục của

Luận án.

3

5. Những đóng góp mới về khoa học của Luận án

Kế thừa và phát triển những kết quả nghiên cứu, trên cơ sở nhận diện

đầy đủ, đúng đắn những nội dung cần tiếp tục làm sáng tỏ các khía cạnh lý

luận, thực tiễn về hoạt động của Chính phủ, Quốc hội, Luận án có những

đóng góp mới như sau:

Thứ nhất: Chỉ ra những nguyên lý cơ bản về trách nhiệm của chính

phủ trước quốc hội. Xây dựng khái niệm trách nhiệm, các yếu tố cấu thành

và nội dung trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội trong Nhà nước của

Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đồng thời, chỉ ra các yếu tố tác động,

chi phối đến tính “chịu trách nhiệm” của Chính phủ trước Quốc hội và ảnh

hưởng của việc Chính phủ không chịu trách nhiệm trước Quốc hội sẽ tác

động đến hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính Phủ.

Thứ hai: Khái quát quá trình hình thành và thực tiễn vận dụng lý luận,

quy định về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, đặc biệt trong giai

đoạn thực hiện Hiến pháp 2013.

Thứ ba: Đề xuất giải pháp pháp lý để Chính phủ thực hiện trách nhiệm

trước Quốc hội. Những giải pháp dựa trên quy định pháp luật và các giải

pháp hỗ trợ khác dựa vào điều kiện thực tế Việt Nam

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án

Về mặt lý luận: Luận án bổ sung cơ sở cho việc xây dựng hệ thống lý

thuyết, cung cấp đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp

luật, những giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ

trước Quốc hội.

Về mặt thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên

cứu, giảng dạy với các học phần liên quan đến tổ chức QLNN, BMNN ở

bậc đại học và sau đại học; là tài liệu tham khảo cho cán bộ hoạt động thực

tiễn tại Quốc hội, Chính phủ tham khảo khi xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật về tổ chức BMNN.

4

7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu có liên

quan của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo, Luận án được kết cấu gồm 4

chương, như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra liên

quan đến đề tài Luận án.

Chương 2: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội.

Chương 3: Thực trạng trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo

pháp luật Việt Nam.

Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách

nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội.

5

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG

VẤN ĐỀ ĐẶT RA LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc

Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức, hoạt động của Quốc hội

và Chính phủ được các nhà khoa học, chuyên gia đề cập với tính chất là các

chủ thể chính, độc lập, nhưng cũng có nhiều công trình nghiên cứu về

BMNN, hệ thống chính trị, ở đó Quốc hội và Chính phủ là các bộ phận cấu

thành.

Về khái niệm trách nhiệm của Chính phủ được các công trình nghiên

cứu đề cập với tính chất là những hậu quả bất lợi là cách tiếp cận dựa trên

các sự kiện cụ thể, mang tính trừng phạt hoặc gánh chịu hậu quả bất lợi khi

Chính phủ (tập thể/cá nhân) vi phạm pháp luật hoặc không hoàn thành tốt

chức năng, nhiệm vụ. Đáng lưu ý là, cách tiếp cận này chỉ cho thấy trách

nhiệm của chủ thể là Chính phủ trước pháp luật nói chung chứ không phải

chịu trách nhiệm trước Quốc hội.

1.2. Tình hình nghiên cứu nƣớc ngoài

Thông qua các công trình nghiên cứu, trách nhiệm của chính phủ trước

quốc hội thường được xem xét dưới góc độ là thẩm quyền của quốc hội

trong việc bất tín nhiệm, giải tán chính phủ. Có thể kể đến nghiên cứu của

tác giả Hironori Yamamoto (2007) với Tools for parliamentary oversight

(các công cụ giám sát của Quốc hội) cho thấy tại 63 trong tổng số 88 quốc

gia được khảo sát thì quốc hội có thẩm quyển lấy phiếu tín nhiệm đối với

tập thể chính phủ.

Trong các công trình nghiên cứu như Cộng hòa của Platon, Chính thể

đại diện và Bàn về tự do của John Stuart Mill là những tác phẩm về triết

học và nền dân chủ phương Tây. Nội dung xoay quanh các vấn đề chính là

tác động của Nhân dân đối với sự thành bại của chính thể đại nghị, trong đó

đặc biệt coi trọng việc xác định trách nhiệm cá nhân.

6

1.3. Nhận xét về các công trình nghiên cứu

1.3.1. Các kết quả đạt được trong các công trình nghiên cứu liên

quan đến đề tài Luận án

Qua tổng hợp và nghiên cứu các công trình có liên quan đến nội dung

Luận án, có thể khái quát một số lưu ý:

- Nhiều công trình được viết trên cơ sở tổng kết thực tiễn quá trình đổi

mới hệ thống chính trị và xây dựng NNPQXHCN ở Việt Nam. Trong đó,

Quốc hội và Chính phủ là các thiết chế trung tâm,

- Một số công trình tuy đề cao vai trò riêng biệt của Quốc hội hoặc

Chính phủ trên từng chức năng riêng nhưng đã luận giải về mối quan hệ

giữa Quốc hội và Chính phủ. Từ đó, khẳng định trách nhiệm của Chính phủ

đối với hoạt động của Quốc hội và ngược lại.

- Các công trình khoa học ít nhiều có nội dung nghiên cứu liên quan

đến Đề tài Luận án, có thể tiếp thu một số luận giải từ góc độ lý luận và

thực tiễn tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Chính phủ.

- Kinh nghiệm quốc tế về trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội

được nhiều nhà khoa học quan tâm, trong đó đề cập đến vai trò của chính

phủ như cơ quan chính trong chuỗi hoạt động để quốc hội làm tốt chức

năng. Nội dung này có mối liên quan chặt chẽ với việc nâng cao trách

nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội.

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khi đề cập đến quốc hội và

chính phủ ít nhiều đều đề cập đến mối quan hệ, sự tương tác giữa quốc hội

và chính phủ trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ. Do vậy, các công

trình trên có giá trị tham khảo cao đối với Luận án. 1.3.2. Những vấn đề

liên quan đến chủ đề Luận án chưa được giải quyết thấu đáo hoặc chưa

được đặt ra trong các công trình nghiên cứu đã công bố

7

1.3.2.1. Những vấn đề lý luận về trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội

- Khái niệm và cơ chế để Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc

hội là vấn đề chưa được đề cập là đối tượng nghiên cứu riêng trong các

công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề Luận án.

- Vai trò việc đề cao trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, xây

dựng một chế độ pháp lý, cơ chế thực hiện trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội chưa được lập luận đầy đủ và thuyết phục. Trách nhiệm của

Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật Việt Nam chưa được hình dung

một cách đầy đủ và có hệ thống.

- Các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước hầu như chưa đề cập

về các yếu tố ảnh hưởng tới hoàn thiện cơ chế “trách nhiệm” của Chính phủ

trước Quốc hội.

1.3.2.2. Những vấn đề về quá trình hình thành, phát triển và thực trạng

trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội.

- Thực trạng cơ chế “trách nhiệm” của Chính phủ trước Quốc hội ở

Việt Nam chưa được hình dung một cách đầy đủ, xét cả trên phương diện

quy định pháp luật và thực thi pháp luật. Nguyên nhân các ưu điểm, hạn chế

của thực trạng chưa đầy đủ hoặc mới dừng ở mức độ đặt vấn đề mà chưa

được luận giải sâu sắc.

- Chưa có công trình trong nước nghiên cứu về trách nhiệm của chính

phủ trước quốc hội tại một số quốc gia hiện đại hoặc có điều kiện, hoàn

cảnh chính trị tương đồng với Việt Nam.

1.3.2.3. Những vấn đề về giải pháp, kiến nghị nâng cao trách nhiệm

của Chính phủ trước Quốc hội.

- Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy thiếu sự phân tích,

lập luận đầy đủ về bối cảnh, nhu cầu hoàn thiện cơ chế “trách nhiệm” giữa

8

Chính phủ trước Quốc hội trên tất cả các phương diện hoạt động; chưa đề

xuất một hệ quan điểm được thừa nhận chung về tính “trách nhiệm”.

- Hoạt động nghiên cứu hiện nay còn thể hiện ở tính đơn lẻ, thiếu hệ

thống giữa các giải pháp và chưa đi đến bản chất của vấn đề xuất phát từ

việc phân tích các yếu tố tác động đến cơ chế trách nhiệm, ràng buộc giữa

các cơ quan trong BMNN ở Việt Nam.

1.3.3. Những vấn đề Luận án cần tiếp tục nghiên cứu

- Phân tích, làm sáng tỏ trách nhiệm của Chính phủ đối với các hoạt

động của Quốc hội; Các yêu cầu bảo đảm để Chính phủ thực hiện trách

nhiệm trước Quốc hội trong quá trình xây dựng và hoàn thiện NNPQ

XHCN Việt Nam.

- Chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân,

giải pháp khắc phục, phát huy ưu điểm để nâng cao chất lượng hoạt động

của Chính phủ, Quốc hội.

- Nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhận thức, tư duy về bản chất

hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Gắn với nhận thức về trách nhiệm của

Chính phủ đồng thời là trách nhiệm của Quốc hội.

1.4. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

1.4.1. Giả thuyết nghiên cứu

Nhận thức cũng như quy định pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ

trước Quốc hội Việt Nam chưa thống nhất, còn nhiều bất cập, chưa tạo ra

cơ sở pháp lý cần thiết để Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội.

1.4.2. Câu hỏi nghiên cứu

Thứ nhất, trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội được xác lập dựa

trên cơ sở lý luận nào?

Thứ hai, pháp luật và áp dụng pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ

trước Quốc hội ở Việt Nam?

9

Thứ ba, quan điểm và giải pháp nào để hoàn thiện pháp luật về trách

nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội ở Việt Nam?

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Việc khảo cứu, đánh giá tình hình các công trình nghiên cứu có liên

quan đến đề tài Luận án cho thấy:

1. Các công trình chuyên sâu, có tính hệ thống ở trong nước tuy có

nhiều nhưng mới chỉ dừng lại ở góc độ nghiên cứu về thiết chế Quốc hội

hoặc Chính phủ một cách riêng lẻ. Một số công trình nghiên cứu về mối

quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ nhưng chỉ dừng lại ở một phạm vi

chức năng cụ thể. Do đó, chưa mang tính khái quát, chuyên sâu và những

yếu tố tác động đến trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội Việt Nam.

2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài chủ yếu đề cập đến thực

tiễn cơ chế trách nhiệm của nội các trước nghị viện. Do sự khác nhau về

chế độ chính trị nên chỉ có giá trị tham khảo về mặt kỹ thuật thiết lập quy

trình trách nhiệm.

10

CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM

CỦA CHÍNH PHỦ TRƢỚC QUỐC HỘI

2.1. Chính phủ và các quan hệ trách nhiệm

2.1.1. Khái niệm trách nhiệm

Tùy thuộc vào mục đích, quá trình, kết quả để định nghĩa về “trách

nhiệm” gồm hai phần: một là những việc nên làm, phải làm, được làm, như

là bổn phận, nhiệm vụ, quyền hạn; hai là sự cam kết đối với kết quả thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn và nếu kết quả không tốt sẽ phải gánh chịu phần

hậu quả. Trong đó, vế thứ nhất là trách nhiệm tích cực, chủ động làm tiền

đề, nguyên nhân; vế thứ hai là trách nhiệm tiêu cực, bị động, phản ánh việc

chịu hệ quả tất yếu.

2.1.2. Khái lược về chính phủ

Với nguồn gốc ra đời, tính thống nhất về vị trí, chức năng trong các mô

hình cho thấy: Chính phủ là một cơ quan tập thể có thẩm quyền quản lý,

điều hành nền kinh tế - xã hội quốc gia. Về địa vị pháp lý, chính phủ có thể

là cơ quan cao nhất của chính quyền hành pháp hoặc có thể chỉ là cơ quan

tư vấn trực thuộc người đứng đầu Nhà nước, hoặc là cơ quan phái sinh của

cơ quan QLNN cao nhất. 2.1.3. Trách nhiệm của chính phủ trước quốc

hội trong tổ chức quyền lực nhà nước

Phụ thuộc vào bản chất chế độ chính trị của mỗi quốc gia để thiết lập

mô hình nghị viện và chính phủ phù hợp tương ứng. Từ đó chế độ trách

nhiệm của chính phủ trước quốc hội được hình thành cũng dựa trên nguyên

tắc tổ chức QLNN.

2.1.4. Phân loại trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội

Hiện nay trong khoa học tổ chức QLNN, còn có nhiều quan điểm chưa

thực rõ ràng khi phân loại trách nhiệm của chính phủ trước quốc hội là trách

nhiệm pháp lý hay trách nhiệm chính trị. Theo NCS, khi nói đến trách

nhiệm của chính phủ trước quốc hội thường được tiếp cận dưới góc độ là

11

trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý được quy định tại hiến pháp và

hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của quốc hội, chính phủ.

2.2. Tính tất yếu và vai trò trách nhiệm của Chính phủ trƣớc Quốc

hội theo pháp luật Việt Nam

Thứ nhất: Để bảo đảm nền dân chủ thì cần có các quy định pháp luật

ràng buộc trách nhiệm giữa các chủ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cơ quan

chấp hành, cơ quan hành pháp với cơ quan quyền lực, cơ quan đại diện cho

ý chí nguyện vọng của Nhân dân.

Thứ hai: Việc Chính phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội là tấm

gương và là nhân tố cho các cơ quan tổ chức BMNN tuân thủ pháp luật, là

cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung kịp thời những chính

sách. Điều này giúp cho hoạt động của Chính phủ và Quốc hội hiệu quả.

Thứ ba: Trong nhu cầu ổn định tổ chức, Quốc hội cần sự tham gia của

Chính phủ với vai trò là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành

chính nhà nước cao nhất. Việc Chính phủ có làm đúng trách nhiệm trước

Quốc hội hay không là thước đo đánh giá hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

Tương tự như vậy, động lực tự nhiên của Chính phủ cần có các yếu tố để

Chính phủ hoàn thành tốt nhiệm vụ để không phải gánh chịu một hệ quả

tiêu cực nào.

2.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về trách nhiệm của Chính

phủ trƣớc Quốc hội

Mỗi mô hình tổ chức QLNN của mỗi quốc gia cần phải bảo đảm sự

thích hợp với bối cảnh lịch sử, xã hội; trình độ văn hóa, điều kiện phát

triển của dân tộc. Bản chất “trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội”

phản ánh mối quan hệ, sự tương quan giữa các nhánh quyền lực thể hiện

kỹ thuật tổ chức QLNN, do vậy cũng không nằm ngoài vùng tác động

của các yếu tố đó.

12

Thứ nhất: Yếu tố chính trị ở Việt Nam tác động đến pháp luật về trách

nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội thể hiện ở các nội dung cơ bản sau: (i)

Phản ánh bản chất tất cả hoạt động của các cơ quan nhà nước đều phải chịu

sự kiểm soát của Nhân dân; (ii) Được vận dụng có chọn lọc những giá trị

tiến bộ của lý thuyết phân quyền; (iii) Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

CSVN; (iv) Tương quan giữa Chính phủ với các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ hai: Nhận thức đúng và đầy đủ về bản chất QLNN thuộc về Nhân

dân trong NNPQ XHCN là điểm xuất phát, trong đó Nhân dân là chủ thể

QLNN thông qua cơ chế đại diện quyền lực cho Nhân dân thì Chính phủ

phải có trách nhiệm trước Quốc hội.

Thứ ba: Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội bị chi phối bởi

văn hóa pháp lý và trình độ dân trí của nhiều chủ thể. Mọi người dân, mọi

tổ chức của Nhân dân đều có quyền giám sát và phản biện xã hội để tham

gia xây dựng và phát triển đất nước là yếu tố tác động đến pháp luật về

trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội.

2.4. Nội dung, hình thức trách nhiệm của Chính phủ trƣớc Quốc

hội theo pháp luật Việt Nam

2.4.1. Nội dung trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo

pháp luật Việt Nam

Dù có phân tách theo chức năng, nhưng bản chất trách nhiệm của

Chính phủ trước Quốc hội đều thể hiện ở vị trí pháp lý và chức năng, nhiệm

vụ của Quốc hội, Chính phủ. Trong đó, Quốc hội với vai trò là cơ quan

QLNN cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề

quan trọng của đất nước và giám sát tối cao hoạt động Nhà nước; Chính

phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp,

là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

2.4.2. Các hình thức trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội

theo pháp luật Việt Nam.

13

Căn cứ vào khái niệm, trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội

được chia thành hai nhóm: Một là trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ, bổn phận

trước Quốc hội; Hai là trách nhiệm chấp hành sự xem xét, đánh giá của

Quốc hội về kết quả thực hiện nghĩa vụ, bổn phận (trách nhiệm báo cáo,

trình, trả lời chất vấn, giải trình) và trách nhiệm gánh chịu những hệ quả

pháp lý do Quốc hội đề ra (chấp hành sự việc Quốc hội bãi bỏ văn bản

pháp luật do Chính phủ ban hành và chấp hành việc Quốc hội miễn nhiệm,

bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn kết quả miễn nhiệm, cách chức

Phó thủ tướng và các thành viên Chính phủ).

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Dù có sự khác nhau nhưng bản chất trách nhiệm của chính phủ trước

quốc hội là một trong những nội dung phản ánh bản chất mối tương quan

giữa các các cơ quan trong hệ thống tổ chức QLNN. Trách nhiệm của

Chính phủ trước Quốc hội là tổng hợp trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm

tập thể, là trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm gánh chịu những

hệ quả pháp lý do Quốc hội đề ra khi Chính phủ không thực hiện tốt nhiệm

vụ. Việc Chính phủ có trách nhiệm trước Quốc hội là tất yếu, xuất phát từ

bản chất QLNN và sự phân công nhiệm vụ của các cơ quan tổ chức BMNN.

Ở Việt Nam, trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội được xem xét

là trách nhiệm của cơ quan chấp hành trước cơ quan lập pháp. Tuy nhiên,

đó là một quá trình bắt nguồn từ nhiệm vụ hàng ngày của Chính phủ với

tính chất là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng

hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

14

CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ

TRƢỚC QUỐC HỘI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

3.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về trách nhiệm

của Chính phủ trƣớc Quốc hội ở Việt Nam

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm chính trị của Đảng

Cộng sản và các bản hiến pháp để khái quát quá trình hình thành, phát triển

tư duy, nhận thức, tiếp đến là quy định pháp luật về trách nhiệm của Chính

phủ trước Quốc hội. Trong đó, xuyên suốt là tư duy, nhận thức về việc xây

dựng Chính phủ có trách nhiệm trước Nhân dân thông qua cơ quan đại diện

là Quốc hội.

3.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội

Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật về tổ chức của Quốc

hội, Chính phủ đã phản ánh rõ nét hơn ý nguyện của Nhân dân và yêu cầu

thực tiễn, tạo cơ sở cho việc đổi mới phương thức hoạt động của Chính phủ

theo hướng bảo đảm giải quyết các vấn đề đối với từng lĩnh vực, tránh tình

trạng đùn đẩy trách nhiệm trong nội bộ Chính phủ. Bên cạnh đó, tùy thuộc

thời điểm, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Quốc hội sẽ ban

hành văn bản cụ thể. Đây là cơ sở thực tế với những định lượng rõ ràng về

chỉ tiêu, chỉ số, định mức thời gian... để Chính phủ thực hiện.

3.3. Thực trạng áp dụng pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ

trƣớc Quốc hội hiện nay

Nhóm trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ, nghĩa vụ của Chính phủ trước

Quốc hội: Bao gồm trách nhiệm báo cáo, trình dự án luật và các vấn đề

quan trọng đất nước, trả lời chất vấn và giải trình. Tùy thuộc vào nội dung

cụ thể mà chủ thể thực hiện trách nhiệm có thể là cá nhân hoặc tập thể.

Đánh giá về thực trạng áp dụng pháp luật cho thấy, Chính phủ đã thực hiện

tốt trách nhiệm trước Quốc hội. Tuy nhiên, một số hoat động còn mang tính

15

hình thức, hoặc bản chất để thể chế hóa quan điểm của Đảng. Thực trạng đó

xuất phát từ bản chất hoạt động của Chính phủ, Quốc hội, bị chi phối bởi

môi trường chính trị và ở chính năng lực phản biện của ĐBQH.

Nhóm trách nhiệm gánh chịu hệ quả pháp lý: Với cách thức quy định

và cơ chế áp dụng pháp luật cho thấy việc bãi bỏ văn bản của Chính phủ

trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và chấp hành việc Quốc

hội miễn nhiệm, bãi nhiệm đối với Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn đề

nghị miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ và các thành viên

khác của Chính phủ khi được hiểu dưới góc độ là trách nhiệm gánh chịu hệ

quả pháp lý bất lợi mới chỉ là giả định mà chưa phải là quy định có cơ chế

thực hiện để phản ánh được thực trạng, hiệu quả hoạt động của các thành

viên Chính phủ.

3.4. Đánh giá hệ thống pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ

trƣớc Quốc hội hiện nay

Trên cơ sở quy định pháp luật về hình thức và nội dung trách nhiệm

của Chính phủ trước Quốc hội cho thấy những thành tựu và hạn chế của hệ

thống pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội Việt Nam.

3.4.1. Những thành tựu đạt được

Thứ nhất, ban hành cơ sở pháp lý vững chắc cho chế độ trách nhiệm

của Chính phủ trước Quốc hội

Thứ hai, các văn bản pháp luật mới được ban hành có kế thừa, điều

chỉnh từ các văn bản trước để bảo đảm tính ổn định và phù hợp với điều

kiện thực tế.

3.4.2. Những hạn chế

Hiện nay, những yếu kém trong hoạt động của Chính phủ, tính “trách

nhiệm” của Chính phủ trước Quốc hội còn hình thức, việc “chịu trách

nhiệm” chỉ dừng lại bằng hình thức ngôn từ hoặc văn bản. Việc Chính phủ

thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội chưa thực sự đúng và đủ. Những hạn

16

chế đó một phần xuất phát từ chính hệ thống pháp luật về trách nhiệm của

Chính phủ trước Quốc hội.

3.4.2.1 Về hình thức pháp luật: Trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội được quy định tại nhiều văn bản từ Hiến pháp đến các đạo luật,

nghị định, nghị quyết, từ các luật về tổ chức đến các luật chuyên ngành, từ

luật về nội dung đến luật thủ tục. Điều này gây khó khăn cho việc nhận diện

rõ nét về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội một cách tổng thể, hệ

thống.

3.4.2.2 Về nội dung pháp luật

Thứ nhất, thiếu các quy định hướng dẫn xác lập quy trình để Chính

phủ thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội.

Thứ hai, thiếu các chế tài, thiếu các quy định xác định hệ quả pháp lý

khi Chính phủ không thực hiện đúng trách nhiệm. Trong đó, chưa có sự

phân biệt các hình thức miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức để Quốc hội áp

dụng với các thành viên Chính phủ.

Thứ ba, sự tương thích giữa luật nội dung và luật thủ tục chưa phù hợp,

dẫn đến tình trạng trách nhiệm của Chính phủ mang tính hình thức.

3.4.2.3 Các điều kiện bảo đảm không thuận lợi đến trách nhiệm của

Chính phủ trước Quốc hội

Ngoài những hạn chế về hình thức và nội dung pháp luật trực diện quy

định về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội như đã nêu thì còn có

những vướng mắc từ chính quy định về các chủ thể tham gia thực hiện chế

độ trách nhiệm đó.

Thứ nhất: Cơ chế hoạt động của Quốc hội tác động đến tính liên tục,

kịp thời và thường xuyên trong chế độ trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội.

Thứ hai: Cơ cấu ĐBQH kiêm nhiệm nhiều, trong đó có tỷ lệ thuộc khối

cơ quan hành pháp nói chung và Chính phủ nói riêng là những yếu tố chủ

17

quan tác động bất lợi đến hiệu quả việc Chính phủ thực hiện trách nhiệm

trước Quốc hội.

Thứ ba: Bộ máy tham mưu, giúp việc của Quốc hội phần nào phản ánh

nhận thức chưa đề cao công tác giám sát của Quốc hội đối với hoạt động

của Chính phủ, chưa thực sự quan tâm đến hiệu quả thực chất Chính phủ

thực hiện trách nhiệm trước Quốc hội thế nào.

Thứ tư: Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội là liên tục, thường

xuyên và có mối liên kết giữa các loại trách nhiệm. Do vậy, khi thay đổi

chủ thể thực hiện, đặc biệt với vai trò người đứng đầu ngành, lĩnh vực quản

lý của Chính phủ chắc chắn sẽ tác động tới hiệu quả thực hiện trách nhiệm.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Tùy thuộc vào nhiệm vụ chính trị và kỹ thuật lập pháp mỗi thời kỳ nên

trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội được thể hiện tại các bản Hiến

pháp khác nhau về mức độ, nội dung. Trong 4 bản Hiến pháp (các năm

1946, 1959, 1980, 1992) có Hiến pháp năm 1946 quy định rõ về trách

nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội bao gồm trách nhiệm cá nhân và trách

nhiệm tập thể, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm gánh chịu

những hệ quả pháp lý do Quốc hội đề ra khi Chính phủ không được Quốc

hội tín nhiệm.

Về cơ bản, trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội theo pháp luật

hiện nay tương đối bao quát chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, phù hợp

với bản chất của Chính phủ và Quốc hội Việt Nam. Nhưng các hình thức

trách nhiệm của Chính phủ mới chỉ phù hợp với lý thuyết về sự phân công

nhiệm vụ của Quốc hội và Chính phủ mà chưa phản ánh một Chính phủ có

trách nhiệm đến cùng về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, bổn phận

trước Quốc hội.

Pháp luật cũng như cơ chế áp dụng pháp luật chưa đầy đủ nên trách

nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội mới dừng lại ở quy định, chưa được

18

triển khai trên thực tế hoặc có triển khai cũng mang tính hình thức. Cùng

với đó là một khoảng trống từ pháp luật đến thực tế dưới góc độ là gánh

chịu những hệ quả pháp lý bất lợi đối với tập thể Chính phủ và từng cá nhân

thành viên Chính phủ, đã tác động đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ cũng

như trong việc nhận trách nhiệm của cá nhân thành viên Chính phủ trước

Quốc hội, trước cử tri.

CHƯƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CHÍNH PHỦ TRƯỚC QUỐC HỘI

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính

phủ trƣớc Quốc hội

Thứ nhất: Bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân: Nhu

cầu bảo đảm quyền lực Nhân dân là chính đáng, phản ánh ý chí, mong

muốn của Nhân dân với tư cách là chủ thể QLNN. Nhà nước phải có

trách nhiệm thực hiện mong muốn, nguyện vọng chính đáng bằng pháp

luật để bảo đảm quyền lợi của Nhân dân. Một trong những phương thức

cơ bản để giải quyết quyền lợi của Nhân dân và trách nhiệm của Nhà

nước là nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nói chung và của Chính

phủ nói riêng trước Quốc hội.

Thứ hai: Phù hợp với quan điểm, định hướng của Đảng Cộng sản Việt

Nam về xây dựng Nhà nước và đề cao trách nhiệm tập thể, trách nhiệm cá

nhân người đứng đầu trong cơ quan Nhà nước.

Thứ ba: Xuất phát từ yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc

hội và Chính phủ. Việc thực hiện trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc

hội tác động thuận chiều đến hiệu quả hoạt động của Nhà nước, là căn cứ

quan trọng để đánh giá hoạt động của Quốc hội, Chính phủ nói riêng và của

hệ thống BMNN nói chung. Vì vậy, quan điểm hoàn thiện pháp luật để

19

nâng cao trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội trước hết xuất phát từ

yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Chính phủ.

4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ

trƣớc Quốc hội

4.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức

Thứ nhất: Nhận thức về quyền làm chủ của Nhân dân trong việc giám

sát, kiểm soát quyền lực nhà nước. Cần xuất phải từ bản chất quyền làm chủ

của Nhân dân đối với sự tồn tại của Quốc hội và Chính phủ. Đây là nhận

thức cần được thay đổi để giải mã khi xem xét, đánh giá tính hiệu quả trong

hoạt động của Quốc hội và Chính phủ và giải pháp bảo đảm chế độ trách

nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội.

Thứ hai: Nhận thức về nội dung, hình thức trách nhiệm của Chính phủ

trước Quốc hội. Nhận thức đầy đủ về trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan

thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội. Đồng thời,

cần nhận thức về thời điểm thực hiện trách nhiệm của Chính phủ trước

Quốc hội diễn ra trong suốt quá trình hoạt động của Chính phủ. Như vậy sẽ

tránh được tình trạng gần đến kỳ họp Quốc hội, gần đến khi Quốc hội giám

sát, Chính phủ mới tập trung làm tốt một vụ việc, chỉ tiêu cụ thể để có thành

tích báo cáo tại kỳ họp Quốc hội.

Thứ ba: Cần nhận thức về hoạt động của Quốc hội và Chính phủ. Giá

trị lớn nhất của Quốc hội là tạo một diễn đàn để các ĐBQH thực hiện chức

năng đại diện, nói lên tiếng nói, nguyện vọng của cử tri, qua đó thực hiện

được QLNN mà Nhân dân giao phó. Chính phủ là chủ thể trung tâm, là chủ

thể thực hiện, phát hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách và có trách

nhiệm báo cáo, trình Quốc hội xem xét, quyết định. Quyền này của Chính

phủ không chỉ ngang hàng như các chủ thể khác được Hiến pháp quy định

20

mà được bảo đảm kèm theo những quyền khác như quyền hướng dẫn thi

hành luật, quyền báo cáo, giải trình tình hình thực hiện…

Thứ tư: Nhận thức về quyền hành pháp. Hiện nay, chưa có sự thống

nhất trong cách hiểu về quyền hành pháp và chủ thể thực hiện quyền hành

pháp. Tuy nhiên, khi xác định trách nhiệm của Chính phủ thực hiện quyền

hành pháp tức là có phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với những chính sách

quốc gia do Chính phủ trình.

Thứ năm: Thay đổi nhận thức về tính công khai, minh bạch trong các

hoạt động của Quốc hội và Chính phủ. Mỗi chủ thể tham gia trong mối

quan hệ trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội cần thống nhất từ nhận

thức tới hành động về sự đồng hành tất yếu giữa “đồng thuận” và “phản

biện” trong tiếp nhận thông tin từ dư luận.

4.2.2. Nhóm giải pháp về thể chế

Thứ nhất: Sửa đổi bổ sung quy định về hoạt động giám sát tối cao của

Quốc hội là hoạt động của nhà nước được thực hiện tại bất kỳ thời điểm nào

của quá trình thực hiện nhiệm vụ của các chủ thể chịu sự giám sát của Quốc

hội (trong đó có Chính phủ).

Thứ hai: Văn bản pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc

hội cần bổ sung tiêu chí phân biệt cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm các

thành viên Chính phủ để tránh trường hợp sau khi có sai phạm nhưng các

thành viên Chính phủ vẫn không phải chấp hành một hình thức trách nhiệm

bất lợi nào do Quốc hội đặt ra. Thứ ba: Sửa đổi, bổ sung quy định về lấy

phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm. Trong đó, Quốc hội chỉ tiến hành lấy

phiếu đối với các thành viên ngoài Quốc hội để bảo đảm tính khách quan.

Ngoài ra, trong một thời điểm, không nhất thiết phải lấy phiếu tín nhiệm đối

với tất cả những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Đồng

thời, không quy định về số lần lấy phiếu và thời điểm lấy phiếu. Cần sửa

đổi theo hướng mở, Quốc hội có quyền lấy phiếu tín nhiệm vào bất kỳ thời

21

điểm nào trong nhiệm kỳ và có quyền lấy phiếu nhiều lần trong một nhiệm

kỳ.

Thứ tư, Sửa đổi, bổ sung quy định về chất vấn và trả lời chất vấn.

Trong đó chú trọng đến việc xác định khái niệm chất vấn, ban hành quy

trình thủ tục tại phiên chất vấn và miễn trừ trách nhiệm của ĐBQH trong

hoạt động chất vấn để bảo đảm sự có tự do để thực hiện chức năng đại diện

cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân và cử tri.

Thứ năm: Sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban

Thường vụ Quốc hội trong việc miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn đề

nghị miễn nhiệm, cách chức thành viên Chính phủ trong thời gian Quốc

hội không họp.

Thứ sáu: Sửa đổi và quy định chi tiết về việc thành lập Ủy ban lâm

thời của Quốc hội. Hướng dẫn về cách thức đề nghị thành lập Ủy ban lâm

thời khi có từ 1/3 ĐBQH yêu cầu, bổ sung Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ

quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cũng là các chủ thể có quyền đề

nghị thành lập Ủy ban lâm thời; xác định tiêu chí làm căn cứ đề nghị thành

lập Ủy ban lâm thời.

Thứ bảy: Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm hiệu quả hoạt động của

ĐBQH. Muốn Chính phủ có trách nhiệm trước Quốc hội, cần có cơ chế

ràng buộc trách nhiệm của các ĐBQH và những biện pháp bảo đảm để

ĐBQH hoạt động có trách nhiệm, hiệu quả vì Quốc hội không “vô can”

trong việc Chính phủ chưa/không tròn trách nhiệm trước Quốc hội. Muốn

vậy, trước hết phải tăng số lượng ĐBQH chuyên trách và giảm tỷ lệ ĐBQH

trong khối cơ quan hành pháp; Ban hành Nghị quyết về cử tri bãi nhiệm

ĐBQH; Sửa đổi quy định về khoán thư ký cho ĐBQH để bảo đảm quyền tự

do, tự quyết, tự chịu trách nhiệm trước Nhân dân của ĐBQH.

22

KẾT LUẬN CHƢƠNG 4 Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội phải gắn với sự thay đổi nhận thức về hoạt động của Quốc hội và Chính phủ. Các giải pháp sửa đổi, hoàn thiện pháp luật phải phù hợp với nguyên tắc tổ chức QLNN và phù hợp với yêu cầu tất yếu để nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hai cơ quan Chính phủ và Quốc hội.

Một là, cần nhận thức về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội trong tổ chức QLNN Việt Nam. Trong đó Chính phủ có trách nhiệm là chủ thể chính trong hoạt động xây dựng, trình dự án luật, các chính sách quan trọng của đất nước để Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, Quốc hội cần thiết tạo lập một diễn đàn dân chủ và làm tốt công tác giám sát tối cao để kiểm soát quyền của Chính phủ.

Hai là, khi xác định Chính phủ là chủ thể duy nhất được quy định là cơ quan hành pháp thì đồng nghĩa với việc Chính phủ hoàn toàn chịu trách nhiệm về các chính sách của đất nước.

Ba là, để nâng cao trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội thì cần hướng tới các giải pháp hoàn thiện pháp luật như hoạt động trả lời chất vấn, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiểu tín nhiệm, hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Quốc hội khi xử lý kỷ luật đối với các thành viên Chính phủ.

Bốn là, muốn Chính phủ có trách nhiệm trước Quốc hội, bản thân mỗi ĐBQH cần tự nâng cao trách nhiệm đối với cử tri, đồng thời các cơ sở bảo đảm hoạt động của ĐBQH phải phù hợp với bản chất hoạt động của Quốc hội, tôn trọng quyền tự chủ, tự quyết của ĐBQH.

KẾT LUẬN CHUNG Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội cũng phản ánh kỹ thuật tổ chức QLNN của mỗi quốc gia, là phương diện để thể hiện mối quan hệ của Chính phủ và Quốc hội, xuất phát từ nền tảng là lý thuyết phân quyền, phối hợp và kiểm soát. Kế thừa kết quả các công trình khoa học trước đó, trong quá trình nghiên cứu, NCS đưa ra các kết luận sau:

- Trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội đồng hành với việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhân dân trong tổ chức QLNN. Khi đó,

23

trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội là biểu hiện để Nhân dân thực hiện quyền làm chủ QLNN. Để Chính phủ có trách nhiệm trước Quốc hội, yêu cầu đặt ra không phải từ riêng phía Chính phủ mà là nhiệm vụ của cả hai phía. Trong đó, cần nhận thức đó là yêu cầu tự thân của cả Quốc hội và Chính phủ phải làm tốt trách nhiệm để nhận được sự tín nhiệm của Nhân dân, từ đó sẽ duy trì sự ổn định tổ chức bộ máy của Quốc hội, Chính phủ.

- Quá trình áp dụng pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội bị chi phối bởi nhiều yếu tố như văn hóa, nhận thức và các yếu tố chính trị, xã hội của quốc gia. Những yếu tố này có thể là động lực hoặc là cản trở trong quá trình xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội.

- Trên thực tế, việc thực thi pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội chưa có sự chuyển biến tích cực. Điều đó xuất phát từ việc chưa có sự thay đổi, chuyển biến nhận thức đầy đủ, toàn diện và nhất quán về trách nhiệm của Chính phủ, Quốc hội; chưa có sự rành mạch về trách nhiệm của Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan khác trong hệ thống chính trị trước một hiện tượng, sự việc tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.

- Luận án đề xuất các nhóm giải pháp xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật về trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN. Tính quyền lực Nhân dân được xuất phát từ nguyên lý, mọi hoạt động của cơ quan nhà nước đều phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân thông qua cơ quan đại diện của Nhân dân. Bên cạnh những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ thì Quốc hội, ĐBQH cần có các giải pháp tự hoàn thiện cơ chế hoạt động, đề cao vai trò, trách nhiệm của mình.

24

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

ĐÃ CÔNG BỐ

1. Hoạt động báo cáo, giải trình tại Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc

hội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 09 (385), tháng 5/2019.

2. Một số vấn đề về cơ cấu tổ chức của Thường trực Hội đồng Dân tộc, các

Ủy ban của Quốc hội, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 13 (389),

tháng 7/2019.

3. Chế định trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội qua các bản Hiến

pháp Việt Nam, Tạp chí Tổ chức Nhà nước số 4/2020.

4. Một số vướng mắc khi áp dụng xử lý kỷ luật đối với người giữ chức vụ

do Hội đồng nhân dân bầu, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19 (419),

tháng 10/2020.

5. Hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động tổng kết nhiệm kỳ của

Hội đồng nhân dân, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 01 (425), tháng

01/2021.

25