
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của ngưi chết sang cho nhng ngưi
còn sống. Để giải quyết và hạn chế nhng tranh chấp phát sinh trong quá trình
dịch chuyển tài sản của ngưi chết sang cho nhng ngưi còn sống thì mỗi quốc
gia đều có nhng quy định pháp luật về thừa kế để điều chỉnh vấn đề này.
Ở Việt Nam, pháp luật thừa kế được hình thành từ rất sớm và ngày càng
được xây dựng, hoàn thiện, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử phát triển của
đất nước. Theo pháp luật Việt nam hiện hành, quyền thừa kế là một trong nhng
quyền cơ bản của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, được Hiến pháp
năm 2013 ghi nhận “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật
bảo hộ”1; các quy định pháp luật về thừa kế hiện nay được quy định một cách
khá đy đủ tại Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015). Đây là là kết quả của
quá trình pháp điển hóa nhng quy định pháp luật về thừa kế để hoàn thiện các
quy định này, bảo vệ quyền lợi của nhng ngưi thừa kế một cách hiệu quả
nhất. Theo đó, thừa kế có hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo
pháp luật. Thừa kế thế vị là một trưng hợp phát sinh từ thừa kế theo pháp luật,
phát sinh trong trưng hợp con, cháu của ngưi thừa kế thế vào vị trí của ngưi
thừa kế để hưởng di sản do ngưi chết để lại.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay với cuộc cách mạng công nghiệp
4.0, số lượng và giá trị tài sản của cá nhân ngày càng lớn và đa dạng về hình
thức thì cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp về thừa kế di sản do ngưi chết để
lại, trong đó có các v án liên quan đến thừa kế thế vị. Tuy nhiên, trong thực
tiễn giải quyết các v án liên quan đến thừa kế thế vị của Toà án nhân dân các
cấp thì việc giải quyết các v án này hiện vẫn gặp nhiều khó khăn và không phải
v án nào Tòa án cũng có thể giải quyết được "thấu tình đạt lý". Sở dĩ còn tồn
tại nhng vấn đề này là do vẫn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập về cả lý luận và
1 Khoản 2 Điều 32 Hiến pháp 2013