BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM -------------------------

Nguyễn Sinh Phúc

NGHỆ THUẬT TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO

Ở TỈNH YÊN BÁI

Ngành: Lý luận và lịch sử mỹ thuật

Mã số: 9210101

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội -2022

Công trình được hoàn thành tại:

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Văn Doanh

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ cấp viện trước Hội đồng đánh giá cấp viện

Họp tại: Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam

Số 32 phố Hào Nam, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội

Vào hồi giờ ngày tháng năm 20

Có thể tìm luận án tại:

-Thư viện Quốc gia Việt Nam;

- Thư viện viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.

1 MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Tranh Thờ và tranh Tết là các thể loại của dòng tranh dân gian đã

có từ lâu đời, là giá trị của văn hóa tinh thần, được lưu truyền qua

nhiều thế hệ. Tranh Thờ gắn bó với đời sống tâm linh của nhân dân,

cho thấy hệ tư tưởng, tín ngưỡng, quan niệm về vũ trụ, nhân sinh, gắn

liền với hình tượng những vị thần linh, thường được sử dụng để thờ

cúng.

Người Dao ở ở miền núi phía Bắc nói chung và ở Yên Bái nói

riêng còn lưu giữ được những bộ tranh thờ độc đáo và có những giá

trị văn hóa nghệ thuật sâu sắc. Về các lĩnh vực lịch sử và văn hóa của

người Dao, đã có nhiều công trình nghiên cứu. Thế nhưng, chưa có

công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ dưới góc

độ nghệ thuật học. Đây chính là lý do để nghiên cứu sinh lựa chọn đề

tài Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái làm đề tài nghiên

cứu.

Với mong muốn phác dựng một bức tranh tổng thể về tranh thờ

của người Dao tại tỉnh Yên Bái, nhận diện các yếu tố nghệ thuật trong

các bức tranh và đặc biệt là phát hiện, tìm được những nét đặc trưng

về nghệ thuật tạo hình trong diễn đạt biểu hiện, từ đó tìm ra sự tương

đồng khác biệt giữa tranh thờ của người Dao với tranh thờ với tranh

thờ trong các dòng tranh dân gianvà tranh thờ tại các địa phương khác,

để nghệ thuật tranh thờ của người Dao được lưu giữ bảo tồn và phát

triển.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống về nghệ thuật tranh thờ

của người Dao ở tỉnh Yên Bái, để qua đó thấy được thấy được tiến

2 trình lưu truyền các bộ tranh tại địa phương; thấy được cách thức sử

dụng ngôn ngữ tạo hình được biểu đạt ở mỗi bức tranh; thấy được

những giá trị nghệ thuật, sự tương đồng hay khác biệt, giữa tranh thờ

miền núi và các dòng tranh thờ miền xuôi, giữa tranh thờ của các tộc

anh em miền núi phía Bắc với tranh thờ của người ở Dao Yên Bái.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Điều tra tìm hiểu một cách hệ thống về những bộ tranh thờ truyền

thống hiện còn và những bộ tranh thờ mới cùng các “tác giả” của

những bộ tranh mới này. Tìm hiểu về sự lưu truyền và sáng tác các bộ

tranh thờ cũ và mới tại địa phương.

Tìm hiểu, nhận diện nghệ thuật, làm rõ về đặc trưng nghệ thuật

tạo hình trong bộ tranh thờ, từ đó thấy được giá trị lịch sử, văn hóa

nghệ thuật trong tranh thờ của người Dao ở Yên Bái. Xác định giá trị

biểu đạt các vị thần trong các bộ tranh thờ của người Dao ở Yên Bái.

Tìm ra sự tương đồng khác biệt giữa tranh thờ của người Dao

trong tương quan với tranh thờ các dân tộc thiểu số khác ở miền núi

phía Bắc, cũng như của tranh thờ trong các dòng tranh dân gian tiêu

biểu của người Việt, để có những giải pháp cho việc gìn giữ, bảo tồn

và phát triển di sản tranh thờ của người Dao nói chung và người Dao

ở Yên Bái nói riêng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Các bộ tranh thờ (cả cũ và mới) trong các hoạt động tín ngưỡng

của người Dao ở Yên Bái.

Nội dung biểu hiện và đặc trưng nghệ thuật trong tạo hình tranh

thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái. Từ đó tìm ra sự khác biệt (đặc trưng

riêng) của nghệ thuật tranh thờ của người Dao trong tương quan với

tranh thò ở một số dòng tranh dân gian tiêu biểu của người Việt.

3

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian

Tất cả các vùng đất và khu vực địa lý trong phạm vi tỉnh Yên Bái,

nơi có người Dao sinh sống, bao gồm các huyện:Văn Chấn, Lục Yên,

Yên Bình, Văn Yên. Ngoài ra có mở rộng đối sánh một số địa phương

có tranh thờ của người Dao như Lào Cai, Tuyên Quang… và một số

bảo tàng có lưu giữ và trưng bày tranh thờ của người Dao.

- Về thời gian

Thời gian đầu TK XX của những bộ tranh thờ truyền thống hiện còn.

Thời gian từ năm 1995 đến nay của những bộ tranh thờ mới.

4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu

4.1. Câu hỏi nghiên cứu

1. Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở Yên Bái được phác dựng

một cách hệ thống như thế nào? 2. Nghệ thuật tranh thờ của người Dao

được biểu hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình cụ thể trên từng bức

tranh là gì? 3. Những đặc trưng nghệ thuật được rút ra từ nghiên cứu

tranh thờ của người Dao ở Yên Bái? Nghệ thuật tranh thờ của người

Dao ở tỉnh Yên Bái hiện nay có những thay đổi, biến đổi gì so với các

bộ tranh thờ của người Dao được lưu truyền dân gian qua nhiều thế

hệ? Có những tương đồng khác biệt gì so với tranh thờ của các dòng

tranh dân gian miền xuôi, so với tranh thờ của người Dao ở các địa

phương khác ?

4.2. Giả thuyết nghiên cứu

4.2.1. Giả thuyết 1

Tìm hiểu và giải đáp một cách có hệ thống về thự tế lưu truyền

sử dụng, cấu trúc, cách xếp đặt trưng bày, tên gọi các vị thần và chức

4 năng của từng vị thần trong bộ tranh thờ của người Dao, việc vẽ tranh

thờ mới hiện nay, qua đó phác dựng một cách tổng thể về tranh thờ của

người Dao ở Yên Bái nói riêng, và tranh thờ của người Dao nói chung.

4.2.2. Giả thuyết 2

Các họa công vẽ tranh thờ đã dùng ngôn ngữ nghệ thuật hội họa

dân gian để thiết lập một cách chặt chẽ những hình ảnh của các nhân

vật thần linh trong Đạo Giáo với ngôn ngữ tạo hình đặc trưng và các

mô típ trang trí, theo các quy tắc, qui phạm, tiêu chuẩn. tạo lên nét đặc

trưng trong việc tổ chức không gian, sắp xếp bố cục, đường nét, màu

sắc

4.2.3. Giả thuyết 3

Nghệ thuật tranh thờ của người Dao Là sự kết hợp giữa nghệ

thuật tạo hình các thần linh, với những quan niệm về tín ngưỡng thần

tiên trong Đạo Giáo, truyền thuyết của tộc người Dao và tín ngưỡng

dân gian bản địa, từ đó tạo nên nghệ thuật tranh thờ của người Dao với

những nét đặc trưng, riêng biệt. Qua đó mang lại những giá trị lịch sử,

văn hóa nghệ thuật của một dòng tranh dân gian miền núi.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp nghiên cứu nghệ thuật học

- Phương pháp khảo sát tài liệu, phân tích, tổng hợp

- Phương pháp nghiên cứu điều tra điền dã

- Phương pháp tiếp cận liên ngành

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp nghiên cứu quan sát tham dự

- Phương pháp thống kê phân loại

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

6.1. Luận án phác dựng một bức tranh tổng quan về hệ thống

tranh thờ người Dao ở Yên Bái từ những khía cạnh nguồn gốc, quá

5 trình lưu truyền và sử dụng, đến hình tượng nghệ thuật của các thần

linh.qua đó đóng góp những kiến thức về lý luận về chuyên môn cho

công việc bảo tồn và phát huy giá trị của những bộ tranh thờ của người

Dao.

6.2. Luận án nhận diện yếu tố tạo hình trong tranh thờ, tìm ra

những yếu tố đặc trưng nghệ thuật trong tranh thờ của người Dao ở

Yên Bái, sự kết hợp chặt chẽ giữa các biểu tượng nghệ thuật và các

yếu tố tâm linh, tôn giáo với ngôn ngữ tạo hình đặc trưng trong việc

sắp xếp bố cục, tổ chức không gian trên mặt phẳng. Ngoài ra, qua

những đối chiếu và so sánh, luận án góp phần làm sáng tỏ thêm những

sự tương đồng và khác biệt của các bộ tranh thờ của người Dao tại

Yên Bái với các thể loại tranh thờ trong các dòng tranh dân gian khác

ở miền xuôi cũng như ở miền núi, trong dòng chảy của tranh thờ Đạo

giáo.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần mở đầu (10 trang), kết luận (04 trang), tài liệu tham

khảo (07 trang) và phụ lục (81trang). Nội dung luận án gồm 3 chương.

Chương I: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái

quát về tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái (45 trang).

Chương II: Nhận diện nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh

Yên Bái (53 trang).

Chương III: Đặc trưng nghệ thuật và một số bàn luận trong nghệ thuật

tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái (53 trang).

6 Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ KHÁI QUÁT VỀ TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO

Ở TỈNH YÊN BÁI

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài

Năm 2000, nhân kỷ niệm một trăm năm, Viện Viễn Đông Bác

Cổ Pháp tại Hà Nội đã cho in tập sách Nhìn lại một thế kỷ nghiên cứu

khoa học. Và một trong những thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh

vực này là công trình Tranh dân gian của người Việt Namcủa Maurice

Durand.

Năm 2015, Nxb Dân tộc đã xuất bản cuốn sách Nghiên cứu hội

họa tranh thờ dân gian dân tộc Dao, chủ biênPhụng Hằng Cao.

Theo trích dẫn của cuốn sách, năm 1981, học giả Jacques

Lemoine học giả người Pháp là nổi bật nhất với cuốn sách Tranh nghi

lễ dân tộc Dao được xuất bản vào năm 1981.

Năm 2015, Cuốn sách How to make the universe right. Art of

Shaman from Vietnam and Southern China (tạm dịch là Thực hiện

quyền năng vũ trụ như thế nào. Nghệ thuật của các thầy Shaman ở

Việt Nam và Nam Trung Quốc) xuất bản năm 2015 tại California, Hoa

Kỳ.

Năm 2017, cũngtác giả Nguyễn Tri Ân (Trian Nguyen), đại học

Batet Hoa Kỳ có bài viết “Tôn giáo, tín ngường và văn hóa của dân

tộc Dao nhìn từ góc độ tranh thờ”đăng trên tạp chí Xưa và Nay, số 490

(tháng 12/ 2017) và số 491 (tháng 1/2018).

Những nghiên cứu của các học giả nước ngoài cũng như bài viết

của tác giả Nguyễn Tri Ân chưa đề cập cụ thể đến ngôn ngữ tạo hình,

7 những biểu hiện của nghệ thuật hội họa trên tranh, đây là khoảng trống

để NCS tiếp tục khám phá nghiên cứu tranh thờ.

1.1.2. Các nghiên cứu của tác giả Việt Nam

1.1.2.1. Các nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam và người Dao ở

Yên Bái

Văn hóa học đã có nhiều công trình nghiên cứu về người Dao ở

Việt Nam. Đáng chú ý là: Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông

Trung; Nguyễn Khắc Tụng; Trần Hữu Sơn, Trần Thùy Dương ; Phạm

Quang Hoan, Hùng Đình Quý; Ngô Đức Thịnh; Trương Hữu Tuấn;

Đặng Nghiêm Vạn; Diệp Đình Hoa; Phạm Văn Dương; Đỗ Quang Tụ

- Nguyễn Liễn.

Nghiên cứu cụ thể về phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian,

còn thấy các công trình khác như: “Tín ngưỡng tôn giáo của người

Dao ở Việt Nam” Sự phát triển văn hóa xã hội của người Dao: Hiện

tại và tương lai; Vài nét sơ lược về hai lễ cúng tổ tiên của người Dao

đỏ; Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam; Tập tục của người Dao và tính

giáo dục của nó trong sự phát triển văn hóa xã hội của người

Dao:Hiện tại và tương lai; Lễ cấp sắc và bản sắc văn hóa Dao; Tập

tục chu kỳ đời người của các tộc người ngôn ngữ Mông-Dao ở Việt

Nam; Lễ cưới của người Dao Tuyển, Lễ cấp sắc của người Dao ở Lô

gang Lạng Sơn.

1.1.2.2. Các nghiên cứu về tranh thờ trong các dòng tranh dân

gian và tranh thờ của các dân tộc miền núi

Năm 1984, Trong cuốn Văn hóa việt nam nhìn từ Mỹ thuật, tập

II trong phần VII Tranh dân gian, và cuốn sách Tranh dân gian Việt

Nam (1984), cùng của Chu Quang Trứ, trong phần viết về nội dung,

và chủ đề của tranh dân gian, tác giả đã đề cập đến và phân tích mảng

tranh thờ cúng.

8

Năm 1999, cuốn sách Đồ họa cổ Việt nam, (Nxb Mỹ thuật của

Phan Cẩm Thượng và Lê quốc Việt (1999).Cuốn sách Đồ họa cổ Việt

Nam giúp cho NCS có thêm thông tin về tranh thờ trong dòng tranh dân

gian, trong đó, có liệt kê hệ thần trong thần điện Đạo Giáo.

Năm 2001, cuốn sách Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống

Việt nam (2011) tập 5, Nxb Khoa học xã hội, trong phần thứ tư: Nghề

làm tranh dân gian, tác giả Cung Khắc Lược có bài viết ngắn về “tranh

dân gian Việt Bắc”.

1.1.2.3. Các nghiên cứu về tranh thờ của người Dao

Năm 2001, cuốn Tranh thờ Đạo giáo ở Bắc Việt Nam (2001) của

Phan Ngọc Khuê, có nội dung phong phú về văn hoá, tín ngưỡng,

những triết lý về vũ trụ nhân sinh trong Đạo giáo, Phật Giáo, triết lý

trong tranh thờ của người Dao,

Năm 2009, cuốn Tranh thờ Việt Nam (2009). Cuốn sách chủ yếu

giới thiệu các bức tranh trong bộ sưu tập tranh thờ của Phạm Đức Sỹ.

Năm 2010, có luận văn thạc sỹ ngành Văn hóa học tại Trường

đại học Văn hóa Hà Nội của Vũ Hương Giang Tranh thờ người Dao -

Qua bộ sưu tập tại bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.Luận văn tiếp cận

và khai thác tranh thờ từ góc nhìn Văn hóa học.

Năm 2017, cuốn sách Tập tục đời người văn hóa tập tục của

người nông dân Việt Nam TK XIX-XX, tác giả dẫn cuốn sách Đạo giáo

Thiên tôn Địa tiên Cát Thần đồ thuyết, và những thông tin chi tiết về

hệ thần Đạo Giáo một cách hệ thống và chi tiết.

Mặc dù các công trình khoa học chưa đi sâu nghiên cứu về ngôn

ngữ tạo hình tranh thờ của người Dao nói chung và của người Dao ở

Yên Bái nói riêng, nhưng các công trình trên rất quan trọng và có ý

nghĩa lớn đối với tác giả trong quá trình đi sâu tìm hiểu về nghệ thuật

tranh thờ của người Dao ở Yên Bái.

9

1.2. Cơ sở lý luận

1.2.1. Các khái niệm

- Nghệ thuật: Nếu lấy một nghĩa rộng về nghệ thuật, thì những tác

phẩm nghệ thuật đã tồn tại từ thuở khai sinh loài người: từ nghệ thuật thời

tiền sử cho đến nghệ thuật đương đại. Nghĩa đầu tiên và rộng nhất về nghệ

thuật là nghĩa gần nhất với nghĩa của thuật ngữ tiếng La - tinh cũ mà có

thể dịch nôm na là "kỹ năng" hay "sự khéo léo".

- Nghệ thuật tạo hình: Theo Từ điển Tiếng Việt, tạo hình là “Tạo

ra các hình thể bằng đường nét, hình khối, màu sắc”, theo Từ điển

Bách khoa toàn thư, tạo hình là “Thủ pháp sáng tạo nghệ thuật bằng

ngôn ngữ hình khối, màu sắc, chất cảm, không gian, bố cục”. Như vậy,

có thể hiểu nghệ thuật tạo hình nói chung là nghệ thuật sử dụng một

số phương tiện và chất liệu, tạo nên những hình thức trên mặt phẳng

và trong không gian.

- Quy tắc (canon): (tiếng Hy Lạp, có nghĩa là quy tắc, tiêu chuẩn),

trong nghệ thuật tạo hình, là một tổng hợp những nguyên tắc đã được

thiết lập vững chắc để quy định những tiêu chí về bố cục và màu sắc,

về hệ thống tỷ lệ hoặc là cách thức thể hiện ảnh tượng của một loại

hình tượng nào đấy cho một tác phẩm nghệ thuật.

- Tranh dân gian: Là thuật ngữ của thời đại chúng ta chỉ loại

tranh của nhân dân. Tranh dân gian là thể loại tranh có từ lâu đời, với

nội dung và hình thức độc đáo đã trở thành một loại hình nghệ thuật

được phổ biến trong nhân dân lao động.

- Tranh thờ cúng: Là một thể loại của dòng tranh dân gian. Tất

cả các dòng tranh dân gian Việt Nam đều dành một tỷ lệ trong những

tranh được sản xuất cho tranh thờ. Tranh thờ cúng được dùng trong

nhiều điện, phủ, chùa với tính chấttrừ tà ma, yểm quỷ. Đề tài là các vị

thần, là biểu hiện hy vọng mang sự thịnh vượng cho chủ nhà.

10

1.2.2. Các cơ sở lý thuyết áp dụng trong nghiên cứu

1.2.2.1. Lý thuyết nhân học nghệ thuật: Trong cuốn sách Nhân

học nghệ thuật của Robert Laydon Laydon: chủ yếu nghiên cứu nghệ

thuật của xã hội mô hình nhỏ, tức là nghệ thuật nguyên thủy và nghệ

thuật thổ dân.

1.2.2.2. Lý thuyết ảnh tượng học

Theo Bách khoa từ điển nghệ thuật phổ thông, Iconography (ảnh

tượng học, tranh tượng học) là một trong những lý thuyết và phương

pháp nghiên cứu lịch sử mỹ thuật có nguồn gốc từ những truyền thống

rất xa xưa. Dần dần, theo thời gian, iconography đã trở thành một lý

thuyết và phương pháp nghiên cứu lịch sử mỹ thuật hữu hiệu và phổ

biến trên thế giới.

Phương pháp Iconography là một trong những phương pháp quan

trọng nhất được các nhà nghiên cứu phương Tây sử dụng để nghiên

cứu lịch sử nhiều nền nghệ thuật cổ phương Đông.

1.3. Khái quát về tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái

1.3.1. Khái quát về người Dao và người Dao ở tỉnh Yên Bái

Các nhà dân tộc học ở Việt Nam và Trung Quốc đều khẳng định

người Dao có nguồn gốc từ phía nam Trung Quốc. Khi sang Việt nam,

trung du miền núi phía Bắc là địa bàn đến đầu tiên của tộc người này

và đến nay vẫn là vùng cư trú tập trung của người Dao ở Việt nam.

1.3.2. Tranh thờ trong đời sống tín ngưỡng của người Dao ở

Yên Bái

Tranh thờ được cất giữ như báu vật linh thiêng trong từng gia

đình người Dao, các bức tranh thờ được gia chủ cuốn gọn, gói trong

bọc vải, treo ở góc bàn thờ, hằng năm chỉ mở treo vào các dịp có tổ

chức lễ cúng quan trọng trong gia đình dòng họ, như lễ cấp sắc. Lễ

cúng giải hạn và lễ cúng đám tang khi có người chết

11

1.3.3. Các bộ tranh thờ của người Dao ở Yên Bái

1.3.3.1. Về các bộ tranh thờ

Qua nghiên cứu điều tra trên thực địa, NCS nhận thấy tranh thờ

của người Dao ở Yên Bái có hai bộ: bộ Tiểu Đường và bộ Đại Đường.

Bộ tranh Tiểu đường:Bộ Tiểu Đường có ba bức tranh khổ lớn

(KT 43cm x 110cm): Tổng đàn, Hải Phan, Thái Úy; 04 bức tranh khổ

nhỏ (KT 20cm x 39cm) là: Thuyền quan, Táo quân, Tứ trực Công tào

a,b; bốn bức tranh mặt nạ thần (KT 19cm x 22cm) và một tranh dài

(tranh quyển) với KT 20cm x 210cm.

Bộ tranh Đại đường: Bộ tranh Đại: Bộ tranh Đại Đường, có 13

bức tranh khổ lớn (KT 43cm x 110cm): Ngọc Thanh, Thượng Thanh,

Thái Thanh, Ngọc Hoàng, Tinh Chủ, Thái Úy, Thiên Phủ-Địa Phủ,

Dương Phủ-Thủy Phủ, Đại Hải Phan, Tiểu Hải Phan, Trương Thiên

Sư, Lý Thiên Sư, Thập Điện Diêm Vương, Triệu Nguyên Soái, Đặng

Nguyên Soái; 04 bức tranh khổ nhỏ (KT 20cm x 39cm) là: Thuyền

quan, Táo quân, Tứ trực Công tào a,b; bốn bức tranh mặt nạ thần (KT

19cm x22cm) và một tranh dài (tranh quyển) với KT 20cm x 210cm.

1.3.3.2. Về nguyên tắc treo cácbức tranh thờ

- Nguyên tắc treo các bức tranh trong bộ Tiểu Đường

Trong bộ tranh Tiểu Đường, ba bức tranh Tổng đàn, Hải Phan,

Thái Úy được treo theo quy tắc sau: Tranh Tổng Đàn đặt ở giữa, bên

phải người nhìn là tranh Thái Úy, bên trái là tranh tiểu Hải Phan

Bộ tranh Đại Đường: Gồm13 bức tranh lớn: Ngọc Thanh,

Thượng Thanh,Thái Thanh, Ngọc Hoàng, Tinh Chủ, Thái Úy, Thiên

Phủ-Địa Phủ, Dương Phủ-Thủy Phủ, Đại Hải Phan,Tiểu Hải Phan,

TrươngThiên Sư, Lý Thiên Sư, Thập Điện Diêm Vương, Triệu Nuyên

Soái, Đặng Nguyên Soái,

- Nguyên tắc treo các bức tranh trong bộ Đại Đường

12

Vị trí chủ trung tâm số (1) Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn,

bên phải là số (2) Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, và bên trái là

số (3) Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn, bên phải là số (4) Ngọc Hoàng,

bên trái là số (5) Tinh chủ, bên phải là số (6) Trương thiên sư, bên trái

là số (7) Lý thiên sư, bên phải là số (8) Đại Hải Phan, bên trái là số (9)

Thập Điện Diêm Vương, bên phải là số (10) Thiên Phủ-Địa Phủ, bên

trái là số (11) Dương Phủ-Thủy Phủ, bên phải là số (12) Triệu Nguyên

Soái, bên trái là số (13) Đặng Nguyên Soái.

- Nguyên tắc treo các bức tranh khi hai bộ tranh gộp lại

Hai bộ tranh Tiểu Đường và Đại Đường gộp lại tổng 17 tranh.

Khi treo tranh vẫn tuân theo quy luật chính vị song đối như trình bầy

ở trên.

1.3.4. Các bước vẽ tranh thờ của người Dao ở Yên Bái hiện nay

1.3.4.1. Công việc chuẩn bị vẽ tranh

- Chuẩn bị giấy vẽ

- Chuẩn bị màu vẽ

- Chuẩn bị bút vẽ

1.3.4.2. Làm giấy (chuẩn bị giấy vẽ)

1.3.4.3. Can nét (Làm xương)

1.3.4.4. Vẽ màu các mảng lớn, nhỏ và chi tiết

1.3.4.5. Tỉa nét hoàn thiện

1.3.4.6. Điểm nhãn cho tranh (vào quả mắt)

Tiểu kết

Thông qua, tổng quan nghiên cứu tài liệu, các phương pháp nghiên

cứu được lựa chọn áp dụng, từ hệ thống các lý thuyết, NCS đã phác

dựng một bức tranh tổng quát về tranh thờ của người Dao ở Yên Bái:

vê nguồn gốc, quá trình lưu giữ và sử dụng trong dân gian, khái quát

về bộ tranh thờ của người Dao ở Yên Bái, tên gọi hai bộ tranh được

13 lưu truyền sử dụng, tên gọi cụ thể của từng bức tranh, phân loại bộ

tranh, thống kê số lượng, cách thức trưng bầy,quá trình tiếp nối trao

truyền vẽ tranh thờ mới trong đời sống trong đời sống tín ngưỡnghiện

nay.

Tất cả những nội dung trên sẽ là kiến thức nền tảng, là cơ sở để

NCS nghiên cứu các nội dung về nghệ thuật tạo hình trong tranh thờ

của người Dao ở Yên Bái.

Chương 2

NHẬN DIỆN NGHỆ THUẬT

TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở TỈNH YÊN BÁI

2.1. Tạo hình ở các bức tranh khổ lớn, một vị thần chủ

2.1.1. Nhóm các bức tranh có bố cục một vị thần chủ tối cao

2.1.1.1. Ba vị Tam Thanh

2.1.1.2. Ngọc Hoàng Đại Đế và Tinh Chủ

5 vị thần linh tối cao đều được bố cục giống nhau dưới dạng một

vị thần chủ. Tranh vẽ theo lối trục cuốn dọc, gồm có nhân vật thần chủ

chinh choán toàn bộ bề mặt bức tranh, nhân vật phụ ở phía dưới chỉ

chiếm 1/3 bề mặt, dùng thủ pháp phóng to nhân vật chính, thu nhỏ

nhân vật phụ mà không cần so sánh về tương quan tỷ lệ các nhân vật.

lấy trục dọc của bức tranh làm trục chính để đặt thần chủ ở vị trí trung

tâm. Phía trên cùng của mỗi bức tranh, đều có hình mô típ trang trí

điển hình là 3 vòng tròn hình xoáy ốc xếp dàn ngang. Mô tuýp trang

trí được sử dụng trên mỗi bức tranh là hình ảnh đầu con rồng là con

vật thiêng cao quý bậc nhất để trang trí trên tay áo, thân áo của 5 vị

thần tối cao. Ngoài ra, còn có các họa tiết vân mây, nước cách điệu

được vẽ đan xen trên áo.

Mầu sắc trong tranh 5 vị thần tối cao được vẽ theo lối dùng mầu

ngũ nguyên sắc của hội họa cổ Trung Hoa,

14

2.1.1.3. Nhóm các bức tranh dạng thức bố cục một vị thần chủ,

cặp tranh đối xứng

Thuộc nhóm các cặp tranh này gồm bốn cặp tranh:

1. Cặp tranh Trương Thiên Sư và Lý Thiên Sư;

2. Cặp tranh Đại Hải Phan và Tiểu Hải Phan;

3. Cặp tranh Đặng Nguyên Soái và Triệu Nguyên Soái; và bức

tranh Thái Úy.

Dạng thức bố cục một vị thần chủ, tuân thủ nguyên tắc bố cục

biểu hiện chính phụ theo lối ước lệ, chức lớn vẽ phóng to (chính) ở

phía trên, chức bé vẽ thu nhỏ (phụ) ở phía dưới. Bức tranh tạo một

không gian đồng hiện giữa các hoạt động đặc trưng của thần chủ theo

chức trách và hoạt động của con người nơi trần thế. Tạo hình chân

dung và hướng thân thể đều theo hướng nghiêng 3/4, hướng mặt vào

trung tâm nơi có bức tranh Ngọc Thanh ở chính giữa. Màu sắc đường

nét vẫn tuân thủ nguyên tắc thể hiện như ở các bức tranh vẽ vị thần tối

cao. Mô típ trang trí dùng họa tiết trang trí vân mây, sóng nước đơn

thuần, ngoài ra có sử dụng họa tiết trang trí là các hình tượng trưng

như âm dương, bát quái, các vì sao.

2.2. Tạo hình ở các bức tranh khổ lớn, nhiều vị thần chủ

2.2.1. Các bức tranh có dạng thức bố cục hai vị thần chủ, cặp

tranh đối xứng

2.2.1.1. Tranh Thiên phủ, Địa phủ

2.2.1.2. Tranh Dương phủ, Thủy phủ.

Dạng thức bố cục hai vị thần chủ là dạng thức thể hiện khác biệt

trong bộ tranh thờ của người Dao với lối bố cục vẽ đồng hiện hai vị

thần, chồng tầng, so le theo lớp dọc, tạo khối hình lớn choán toàn

mặt tranh, tịnh tiến về phía trước. Màu sắc,đường nét đều được vẽ

theo quy luật việc của sử dụng ngũ nguyên sắc, nét vẽ công bút bao

15 quanh nhân vật, vẽ màu mảng bẹt tỉa nét theo lối trang trí, mô tuýp

trang trí vẫn được sử dụng là các họa tiết hoa văn mây nước được vẽ

tô điểm trên trang phục thần chủ, phía trên bức tranh vẫn được tạo hình

thống nhất ba vòng tròn xoáy ốc

2.2.2. Các bức tranh nhiều vị thần, có bố cục chồng tầng lớp dọc

(tranh trục)

2.2.2.1. Bức tranh Tổng Đàn

2.2.2.2. Bức tranh Tổ Tông

2.2.2.3. Bức tranh Thập Điện Diêm Vương

Tranh được vẽ theo lối tranh trục cuốn dọc.Trong tranh, các vị

thần được vẽchồng tầng, lớp dọc theo các hàng thứ bậc cao thấp. Trong

mỗi hàng, các vị thần xếp dàn ngang, vị thần chủ chính ở mỗi hàng

được vẽ to hơn ngồi ở chính giữa, từ đó tạo sự kết nối với nhau theo

một trục dọc nằm chính giữa tranh.

2.2.3.Các bức tranh nhiều vị thần có bố cục dàn ngang (tranh

quyển) Đại Đường Kiều

Đại Đường Kiều là một bức tranh có bố cục liên hoàn, các nhân

vật lối tiếp nhau theo chiều ngang, mỗi phần của tranh có các nhân vật

chính làm trọng tâm, Tuy vậy, các tranh ở mỗi địa phương vùng miền

có độ dài khác nhau. Lý do của hiện tượng này là do, dựa theo bản

gốc, các họa công, nghệ nhân có thể thêm bớt các chi tiết phụ, hoặc

thêm bớt và sắp đặt các thần linh cho phù hợp, nhưng vẫn tuân thủ về

ý tưởng về một đoàn rước như nhau..

2.3. Tạo hình ở các bức tranh khổ nhỏ

2.3.1. Cặp tranh Tứ Trực Công Tào

Tứ Trực Công Tào là tranh vẽ bốn vị sứ giả đặc trách về bốn đơn

vị thời gian (năm, tháng, ngày và giờ), về bốn mùa (xuân, hạ, thu và

đông) và bốn phủ (trời, đất, nước và nhân gian). Nói tóm lại, bốn vị

16 thần này quán xuyến tất cả về không gian lẫn thời gian, ghi chép tất cả

việc làm của con người, muôn thú, và cùng hợp tác với thần Thổ Địa

trong các công tác để tâu trình lên Ngọc Hoàng.

2.3.2. Tranh Cấm Trai (Táo Quân)

Táo Quân, theo cách nói thông thường dể hiểu, là vị thần trông

coi bếp núc, nấu ăn, và giữ cho khói lửa trong nhà được ấm áp.

2.3.3. Tranh Ngũ Kỳ Binh mã (Thuyền Quan)

Bộ tranh khổ nhỏ gồm 4 bức tranh làm thành hai cặp là Tứ Trực

Công Tào A-B và Cấm Trai - thuyền quan, được treo gắn kèm với hai

bộ tranh lớn. Bốn bức tranh không diễn tả chân dung thần chủ mà diễn

tả hoạt động tiêu biểu của các vị thần ứng với quy luật của tự nhiên

cũng như truyền thuyết về nguồn gốc của tộc người Dao.

2.3.4. Tranh mặt nạ thần

Tranh mặt nạ thần gồm bốn bức tranh nhỏ,mỗi bức là chân dung

một vị thần chủ,

Nhìn chung các nghệ nhân không bao giờ theo một quy cũ

nghiêm túc và rõ ràng khi vẽ mặt nạ của các vị thần. Khác với các họa

tiết và những tiêu chuẩn căn bản khi vẽ các vị thần linh trong các bộ

tranh vừa bàn ở trên, hầu hết chân dung được vẽ trên các mặt nạ thần

bằng giấy không theo một tiêu chuẩn nào cả

Tiểu kết

Nghiên cứu tranh thờ của người Dao, lấy bức tranh, ngôn ngữ tạo

hình là đối tượng nghiên cứu chính, NCS lựa chọn nhận diện ngôn ngữ

tạo hình tranh thờ của người Dao ở Yên Bái, bắt đầu từ yếu tố tổ chức

không gian bố cục của từng bức tranh thờ, qua đó mà khai thác sự biểu

hiện về các yếu tố hình, nét, màu sắc, để rồi tìm ra nhưng đặc trưng

nghệ thuật trong tranh thờ.

17

Chương 3

ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬTVÀ MỘT SỐ BÀN LUẬN TRONG

NGHỆ THUẬT TRANH THỜ CỦA NGƯỜI DAO Ở TỈNH YÊN BÁI

3.1. Đặc trưng nghệ thuật tạo hình trong tranh thờ của người

Dao

3.1.1. Tạo hình phụ thuộc quan niệm đạo giáo và tín ngưỡng

bản địa biểu hiện qua đặc trưng bố cục và không gian

Tranh được vẽ theo lối tranh trục cuốn dọc, bố cục theo nguyên

tắc chính vị, song đối. Bố cục trong phần lớn các tranh thờ của người

Dao làlấy trục dọc làm đường chế ngự toàn bộ bức tranh, từ đây hệ

thống các hình ảnh được xây dựng đối xứng chặt chẽ. Bố cục biểu hiện

của các cặp đối lập trương phản như to - nhỏ, ngắn - dài, cao - thấp,

động - tĩnh, phóng to - thu nhỏ, chính - phụ.Bố cục dàn đầy nhưng có

từng lớp hình ảnh, Không gian trong tranh là không gian đồng hiện.

3.1.2. Ngôn ngữ tạo hình kết hợp giữa các quy tắc tiêu chuẩn

qua đặc trưng đặc trưng về tạo hình các nhân vật, đường nét và màu

sắc

3.1.2.1. Biểu hiện qua đặc trưng về tạo hình nhân vật

Tạo hình các thần linh luôn theo quy phạm chung của nguyên tắc

tạo hình thần phật, không đi vào miêu tả chi tiết của từng vị, tập trung

khái quát điển hình theo chức vị:

3.1.2.2. Biểu hiện qua đặc trưng về đường nét

Hệ thống nét trong tranh thờ được dùng chủ đạo là nét bao ngoài,

sử dụng công năng cơ bản nhất của đường nét bao ngoài nhằm xác

định giới hạn của hình ảnh các vị thần chủ.Nét mảnh dài liên tục làm

cho tính ngưng tụ của hình chủ các vị thần thêm củng cố và hiển hiện,

nét bao dài giúp tách các thần chủ chính với quân thần, hầu cận. Ngoài

ra, trong tranh có sử dụng những nét mảnh, ngắn, loại đường nét này

18 được dùng làm công việc chia cắt, phân giải các bộ phận của hình thể

các vị thần linh, để biểu hiện nhân vật và khối chất của nó.

3.1.2.3. Biểu hiện qua đặc trưng Đặc trưng về màu sắc

Màu sắc trong tranh thờ của người Dao được vẽ theo lối sử dụng

màu “ngũ nguyên sắc” của hội họa trung hoa cổ là hồng, hoàng, lam,

bạch, hắc. Sử dụng các màu nguyên chất, và các biến thể của từng màu

có vận dụng yếu tố đậm nhạt của màu để diễn tả, không bị ảnh hưởng

bởi ánh sáng.

Các mảng màu trong tranh đều là mảng bẹt, không vờn đậm nhạt,

để gợi khối trên cấu trúc cơ thể nhân vật và vật thể, nhưng do sự phối

sắc và độ loang thấm trên độ trung gian của giấy nền, vẫn làm cho màu

sắc rên tranh có độ sâu thẳm huyền bí. Vẽ màu theo mảng bẹt làm cho

tranh thờ mang tính trang trí cao, đây là một biểu hiện của tranh phương

đông nói chung và tranh thờ Đạo giáo nói riêng.

3.1.3. Kết hợp tri thức dân gian và phương tiện hiện đại trong

kỹ thuật thể hiện qua đặc trưng Mô tuýp trang trí và lối vẽ

Tranh thờ của người Dao sử dụng một tổ hợp hình ảnh con vật

linh thiêng, biểu tượng tôn giáo, hoa lá sóng nước, vân mây, các hình

hình học có tính tượng trưng như: âm dương, bát quái, các vì sao...

được dùng như những họa tiết trang trí trên bề mặt các bức tranh. các

họa tiết đều được khái quát, đơn giản, cách điệu đặc trưng, từ đó

chuyển hóa xếp đặt trên bề mặt theo cấu trúc hình thể con người.

Môtuýp trang trí trong tranh thờ là tổ hợp những hình ảnh của tự

nhiên, vốn huyền bí, nhưng lại chi phối trực tiếp đến đời sống con

người như mây, nước, cỏ cây hoa lá, chim muông, linh vật.

- Lối vẽ:

19

Tranh thờ của người Dao, với lối vẽ tỉ mỉ chính xác, mang đậm

tính trang trí, tô mảng bẹt, không vờn khối trên nhân vật đồ vật, khoanh

bao, tỉa nét trên bề mặt, thiên về khái quát, gợi chứ không tả.

3.2. Một số bàn luận về nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở

tỉnh Yên Bái

3.2.1. Giá trị về lịch sử, văn hóa và nghệ thuật trong tranh thờ

của người Dao ở tỉnh Yên Bái

Tính dân gian được biểu hiện rõ nét trong bộ tranh thờ qua lối bố

cục, tổ chức không gian đồng hiện và ước lệ.Con người và cảnh vật

xuất hiện trên bức tranh, khi được phóng to, lúc bị thu nhỏ không theo

quy luật khoa học xa gần thấu thị, mà xuất phát từ mong muốn, ý tưởng

mà đưa vào theo lối ước lệ. Tạo hình nhân vật thần linh là một điển

hình được vẽ mang đậm tính dân gian tương đối dân gian.

3.2.2. Những thay đổi của tranh thờ vẽ mới với tranh thờ truyền

thống

3.2.2.1. Thay đổi về màu sắc

Màu sắc trên tranh cổ có độ thẳm sâu nhất định. Khi được đặt lên

trên nền giấy mộc màu nâu truyền thống, màu sắc đồng loạt đều bị dìm

đi một hoặc nhiều độ.

Màu sắc trong tranh thờ mới kém nhiều về độ sâu, các màu nguyên

chất đặt cạnh nhau luôn tươi mới, tương phản đối chọi mạnh.

3.2.2.2. Thay đổi về hình

Trong quá trình thực tế nghiên cứu các bộ tranh thờ của người

Dao ở Yên Bái và các địa phương khác NCS nhận thấy về tổng quan

không có sự thay đổi về số lượng bộ tranh, các bức tranh trong từng

bộ tranh thờ, không có sự thay đổi về tên gọi các vị thần chủ. Nhưng,

trên từng bộ tranh, do được in can từ những bản gốc khác nhau đã cho

20 thấy có những thay đổi về hình, về một số chi tiết, động tác, liên quan

đến các vị thần chủ.

3.2.2.3. Thay đổi về các chi tiết

Như đã trình bày, thực chất của quá trình vẽ tranh thờ mới là quá

trình sao chép các bức tranh từ một số bản gốc (bản mẫu tranh thờ cổ

được lưu truyền). Việc in can một cách máy móc, làm hình vẽ thiếu

chính xác, làm cho vẻ đẹp về hình đã bị biến đổi theo chiều hướng thô

mộc hơn và không còn giữ lại được vẻ đẹp như tranh mẫu.

3.2.3. Tranh thờ của người Dao trong tương quan với tranh thờ

trong một số dòng tranh dân gian tiêu biểu của người Việt, với tranh

thờ của người Dao ở các vùng miền khác

3.2.3.1. Với tranh thờ Đông Hồ và tranh thờ Hàng Trống

Về đề tài: Mảng tranh thờ của dòng tranh dân gian Đông Hồ chủ

yếu là các tranh phục vụ cho tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, các tranh về

các vị thần trong dân gian, gần gũi với người nông dân và các vị thần

phù hộ gần nhất trong đời sống con người, tính tôn giáo trong tranh

thờ Đông Hồ rất mờ nhạt.

Đề tài tranh thờ Hàng Trống sử dụng trong thực hành tín ngưỡng,

mảng tranh này chịu ảnh hưởng nhiều của tín ngưỡng Đạo Mẫu bản địa

Việt Nam, và có sự đan xen giữa Đạo Mẫu và Tam giáo.

Tranh thờ của người Dao thuộc thể loại tranh thờ Đạo giáo, có

nguồn gốc từ Trung Hoa, mang tính tôn giáo rõ nét, các nhân vật các vị

thần linh trong tranh có nguồn gốc xuất sứ rõ ràng, có tên tuổi, chức

năng quyền phép cụ thể, được miêu tả hình tượng cụ thể, từ đó việc vẽ

tranh phải tuân thủ những quy tắc quy phạm cổ sơ nghiêm ngặt.

Về lối vẽ: Tranh thờ của dòng tranh Đông Hồ được vẽ theo lối

dùng bản khắc để in nét, sau đó in từng bản màu khác nhau,quy trình

21

vẽ từ in bản nét, rồi in thứ tự từng bản màu một đến hoàn thiện. Tranh

thờ Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét

đen lấy hình, còn màu là thuốc nước, được vẽ tô tay bằng bút lông.

Tranh thờ của người Dao được vẽ tay, hình được in can từ bản gốc

được trao truyền, dùng bút lông vẽ từng mảng màu, màu vẽ tay tô

mảng phẳng, không có độ xốp và sót như tranh Đông Hồ. Sau đó vẽ

họa tiết trang trí lên trên từng mảng màu, viền nét bằng bút lông nhỏ

mang tính khoanh bao nhân vật, đây là đặc trưng lối vẽ theo hình thức

trang trí của tranh thờ của người Dao.

Về tạo hình

Khác với tranh thờ Đông Hồ, tranh thờ của người Dao, được thực

hiện theo các quy phạm, quy tắc của Đạo giáo, việc tạo hình các thần

linh tuy không diễn tả cá tính nhân vật, nhưng được điển hình tuân

thủ nguyên tác tạo hình đặc trưng thần chủ, các thần thánh tối cao

không có nét của người phàm mà ung dung tự tại, nếu là hung thần thì

được điển hình kỳ dị khác biệt biểu lộ hung hãn đầy tính trấn áp, tạo

sự khác biệt rõ nét với tranh thờcủa người Việt.

Về màu sắc, đường nét: Cách vẽ màu trên tranh thờ của Đông Hồ

là dùng nhiều bản gỗ để in màu, mỗi màu dùng một bản gõ khác nhau

để in trên nền giấy điệp, từ kỹ thuật in và chất liệu cho hiệu quả xốp,

và có độ sót màu sau các lượt in, tạo vẻ đẹp độc đáo. Tranh Hàng

Trống chỉ sử dụng bản khắc để in nét đen viền, sau đó dùng but lông

vẽ màu trên các mảng, hình thức thể hiện nửa in nửa vẽ.

22

3.2.3.1. Với tranh thờ của người Dao ở các vùng miền khác

Theo các tài liệu ngiên cứu, người Dao có mặt sinh sống trên hầu

hết các tỉnh miền núi phía Bắc, cụ thể người Dao ở Yên Bái, Lào Cai,

Tuyên Quang, Hà Giang...

Về số lượng tranh trong bộ tranh thờ: Việc này dễ nhận biết,

tranh thờ của người Dao ở Yên Bái và các tỉnh đều có sự tương đồng

về bộ tranh và số bức tranh, cụ thể tranh thờ của người Dao đều thống

nhất có hai bộ là bộ Đại Đường và bộ Tiểu Đường, bộ Đại Đường gồm

có 13 tờ tranh khổ lớn, 4 tờ tranh khổ nhỏ, 01 tờ tranh dài; Bộ Tiểu

Đường gồm có 4 tờ tranh khổ lớn, 4 tờ tranh khổ nhỏ và 1 tờ tranh dài.

Các bức tranh trong bộ tranh thờ đều có tên gọi thống nhất, giống nhau,

bởi đều được in can từ một vài bản gốc được trao truyền từ những thầy

tào cho học trò trong dân gian.

Về kích thước tranh: Tranh thờ của người dao ở Yên Bái và tranh

thờ ở các địa phương khác đều có chung một kích thước;

Các bức tranh khổ lớn: Dao động từ 40-43cm x 100-115cm

Các bức tranh khổ nhỏ: Dao động từ 40-43cm x 100-115cm

Bức tranh dài: Dao động từ 20-21cm x 210-230cm

Về nội dung các bức tranh: Do được in can lấy hình, nhân bản từ

một vài bản gốc được lưu truyền, nên nội dung các bức tranh thờthống

nhất, giống nhau không hề có sự thay đổi, các vị thần trong tranh vẫn

giống nhau về dáng vẻ, về tên gọi, từ đó mà nguồn gốc, xuất sứ, chức

vị quyền phép luôn thống nhất theo đúng những quy định trong cây

thần phả hệ của hệ thần Đạo giáo.

Về hình thức thể hiện: Sự khác biệt, thay đổi ở đây không nằm ở

sự sáng tạo mà ở khả năng tái hiện từ nguyên mẫu của người vẽ tranh.

23

Thay đổi về tạo hình chi tiết: Do in can từ những bản gốc khác

nhau nên giữa tranh thờ của người Dao ở Yên Bái và tranh thờ người

Dao ở Lào Cai và Hà Giang có sự khác nhau về chi tiết trên hình của

một vài vị thần trên các bức tranh. NCS sẽ đối sánh giữa các bức tranh

có sự biến đổi về hình để phân tích trình bày.

Tiểu kết

Thông qua ngôn ngữ diễn đạt biểu hiện, cho ta thấy về nội dung

cũng như hình thức biểu đạt trong tranh thờ của người Dao ở Yên Bái,

từ đó rút ra những giá trị về văn hóa nghệ thuật trong bộ tranh thờ. Từ

những đặc trưng của tranh thờ của người Dao, có thể thấy nét tương

đồng, nhưng cũng có những nét khác biệt,so với tranh thờ của các dòng

tranh dân gian miền xuôi, làm phong phú thêm diện mạo trong dòng

tranh dân gian ở các vùng miền.

KẾT LUẬN

1. Tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái, thuộc loại tranh

tôn giáo, là vật linh thiêng, được trao truyền trong dân gian, dùng để

thờ cúng, được vẽ lại từ nguyên mẫu.

2. Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái, được

nhận diện qua sắp xếp bố cục, tổ chức không gian trên mặt phẳng, tạo

hình nhân vật, đường nét, màu sắc, họa tiết và lối vẽ. Tranh thờ là sự

kết hợp chặt chẽ giữa các biểu tượng nghệ thuật, các yếu tố tâm linh

tôn giáo với ngôn ngữ tạo hình đặc trưng.

3. Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái, được

vẽ theo các quy tắc, quy phạm, nhân sinh quan, thế giới quan của tục

24

thờ Đạo giáo, từ đó tạo nên những bức tranh thờ có những đặc điểm

đặc trưng độc đáo, giá trị hội họa dân gian riêng biệt đặc sắc. Việc tiếp

cận về tạo hình của bộ tranh, không những mang lại những giá trị về

thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật mà còn cho ta thấy được những giá trị lịch

sử, văn hóa, những điều ẩn tàng trong tác phẩm.

4. Nghệ thuật tranh thờ của người Dao ở tỉnh Yên Bái, có sự

tương đồng khác biệt với tranh thờ các vùng miền ở miền núi phía

Bắc, với tranh thờ trong các dòng tranh dân gian tiêu biểu của người

Việt. Tranh thờ của người Dao, có nguồn gốc từ tranh thờ Đạo giáo và

tín ngưỡng dân gian bản địa, sự khác biệt qua nội dung, chủ đề tư

tưởng, hình thức diễn đạt biểu hiện, lối vẽ, lối tạo hình nhân vật…

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Sinh Phúc (2016), “Tranh thờ của người Dao sử dụng trong

thực hành tín ngưỡng ở xã Nậm Lành, huyện Văn Chấn, tỉnh

Yên Bái”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học của nghiên

cứu sinh năm 2016, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.375-391.

2. Nguyễn Sinh Phúc (2017), “Giới thiệu về lễ cấp sắc của người Dao

đỏ ở xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái”, Kỷ yếu

Hội nghị nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh năm

2017, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.434-458.

3. Nguyễn Sinh Phúc (2018), “Giới thiệu khái quát bức tranh Tổng

Đàn trong bộ tranh thờ của người Dao ở Yên Bái”, Kỷ yếu

Hội nghị nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh năm

2018, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.503-511.

4. Nguyễn Sinh Phúc (2018), “Người vẽ tranh thờ cho người Dao vùng Tây

Bắc”, Tạp chí Văn hoa Nghệ thuật, số 409, tr.98-101.

5. Nguyễn Sinh Phúc (2019), “Giải mã giá trị văn hóa trong tranh thờ

cho người Dao ở Yên Bái”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số

415, tr.54-55.