Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu – Phần 2
lượt xem 8
download
Các xét nghiệm cận lâm sàng chẩn đoán bệnh của hệ thống thân-tiết niệu. Biểu hiện lâm sàng của nhiều bệnh thuộc hệ thống thân-tiết niệu thường nghèo nàn và không đặc hiệu. Các xét nghiệm cận lâm sàng giúp ích rất nhiều cho chẩn đoán, trong nhiều trường hợp các xét nghiệm có giá trị chẩn đoán xác định. Các xét nghiệm chẩn đoán các bệnh thuộc hệ thống thân- tiết niệu có rất nhiều. Trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ trình bày các xét nghiêm thông thường được sử dụng trong lâm sàng. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu – Phần 2
- Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu – Phần 2 2. Các xét nghiệm cận lâm sàng chẩn đoán bệnh của hệ thống thân-tiết niệu. Biểu hiện lâm sàng của nhiều bệnh thuộc hệ thống thân-tiết niệu thường nghèo nàn và không đặc hiệu. Các xét nghiệm cận lâm sàng giúp ích rất nhiều cho chẩn đoán, trong nhiều trường hợp các xét nghiệm có giá trị chẩn đoán xác định. Các xét nghiệm chẩn đoán các bệnh thuộc hệ thống thân- tiết niệu có rất nhiều. Trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ trình bày các xét nghiêm thông thường được sử dụng trong lâm sàng. 2.1. Phân tích thành phần sinh hoá của máu: 2.1.1. Urê :
- - Urê là một nitơ phi protein trong máu, có phân tử lượng 60,1; là sản phẩm của chuyển hoá đạm và được đào thải chủ yếu qua thân. Nồng độ urê máu bình thường là 1,7- 8,3 mmol/l (10- 50mg/l). Khi có suy thân (mức lọc cầu thân
- - Creatinin cũng là một nitơ phi protein trong máu, là sản phẩm thoái biến của creatin; creatinin không độc, có nồng độ ổn định trong máu và được đào thải qua thân. Nồng độ bình thường trong máu của creatinin là 44-106àmol/l (0,5-1,5mg/dl). - Nồng độ creatinin trong máu không phụ thuộc vào chế độ ăn và các thay đổi sinh lý khác mà chỉ phụ thuộc vào khối lượng cơ của cơ thể (khối lượng cơ của một cá thể rất ít thay đổi từ ngày này qua ngày khác). Khi có suy thân thì creatinin trong máu tăng. Mức độ tăng creatinin trong máu tương ứng với mức độ nặng của suy thân. Vì vậy, nồng độ creatinin trong máu phản ánh chức năng thân tốt h ơn nồng độ urê máu. 2.1.3. Protein: - Bình thường, nồng độ protein toàn phần trong huyết thanh là 60-80g/l; trong đó albumin 45- 55g/l, globulin 25-35g/l , tỷ lệ albumin/globulin (A/G) là 1,3-1,8. - Trong các bệnh thân mạn tính thì protein trong máu giảm do: mất qua nước tiểu; rối loạn tổng hợp protein; chế độ ăn hạn chế protein. Đặc biệt l à trong hội chứng thân hư, protein máu giảm thấp
- 2.1.4. Lipit: Trong các bệnh cầu thân thường thấy lipit máu tăng, đặc biệt là trong hội chứng thân hư thì lipit máu tăng rất cao. 2.1.5. Điện giải: + Natri: trong các bệnh thân thì nồng độ natri trong máu thường giảm, đặc biệt trong các bệnh ống-kẽ thân mạn tính. + Kali: khi có đái ít, nhất là khi có vô niệu thì kali máu có thể tăng. Các yếu tố làm tăng nhanh nồng độ kali máu là: nhiễm toan, chảy máu tiêu hoá, các tình trạng huỷ hoại tế bào nhiều (như có ổ mủ trong cơ thể), chế độ ăn nhiều kali... Khi kali máu tăng cao trên 6,5mmol/l thì có thể gây ngừng tim và là một trong những nguyên nhân gây tử vong ở bệnh nhân vô niệu. 2.2. Phân tích nước tiểu: 2.2.1. Tính chất vật lý của nước tiểu: + Thể tích nước tiểu: - Đái nhiều (đa niệu): khi số lượng nước tiểu >2000ml/24giờ. - Đái ít (thiểu niệu): khi số lượng nước tiểu 100-500ml/24giờ.
- - Vô niệu: khi số lượng nước tiểu
- + Tỉ trọng và độ thẩm thấu nước tiểu: - Tỉ trọng nước tiểu là tỉ số giữa trọng lượng của một thể tích nước tiểu trên trọng lượng của cùng một thể tích nước cất. Như vậy, tỉ trọng nước tiểu phụ thuộc vào trọng lượng của các chất hoà tan trong nước tiểu. Tỉ trọng nước tiểu phản ánh khả năng cô đặc nước tiểu của thân. Bình thường, nước tiểu có tỉ trọng 1,015-1,025. Nước tiểu loãng tối đa có tỉ trọng 1,003; nước tiểu được cô đặc tối đa có tỉ trọng 1,030. - Độ thẩm thấu nước tiểu là đại lượng phản ánh số cấu tử chất tan có trong nước tiểu, các cấu tử này là các phân tử, nguyên tử, các ion. Độ thẩm thấu nước tiểu không phụ thuộc vào trọng lượng của các chất hoà tan trong nước tiểu, do đó nó phản ánh khả năng cô đặc nước tiểu của thân tốt hơn là tỉ trọng nước tiểu. Bình thường, nước tiểu có độ thẩm thấu từ 400-800mOsm/kg H2O. Nước tiểu loãng nhất có độ thẩm thấu 40-50mOsm/kg H2O, nước tiểu được cô đặc tối đa có độ thẩm thấu 1200mOsm/kg H2O. Tỉ trọng nước tiểu và độ thẩm thấu nước tiểu giảm là biểu hiện của giảm khả năng cô đặc nước tiểu của thân, thường gặp trong các bệnh của ống-kẽ thân như: viêm thân-bể thân mạn, viêm thân kẽ mạn, thân đa nang, nang tuỷ thân, giai đoạn đái trở lại của suy thân cấp, sau ghép thân, suy thân mạn.
- 2.2.2. Phân tích các thành phần sinh hoá nước tiểu: Phân tích các thành phần sinh hoá nước tiểu để phát hiện các thành phần bình thường vẫn có trong nước tiểu, nhưng trong bệnh lý của hệ thống thân-tiết niệu thì các nồng độ này bị thay đổi. Hoặc các thành phần bình thường không có trong nước tiểu, khi có bệnh lý lại xuất hiện trong nước tiểu. + Protein: - ở người bình thường, chỉ có một lượng rất nhỏ protein trong máu được lọc qua cầu thân, nhưng được các tế bào ống thân tái hấp thu hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn. Chỉ có
- muốn phát hiện phải xét nghiệm bằng ph ương pháp miễn dịch phóng xạ (RIA). Microalbumin niệu là thông số được sử dụng để chẩn đoán sớm các tổn thương thân (chẳng hạn trong bệnh tăng huyết áp, trong bệnh đái tháo đường). . Nếu lượng protein >300mg/24giờ thì các xét nghiệm sinh hoá thông thường cho kết quả dương tính, là biểu hiện của tổn thương thân đã rõ. - Một số trường hợp nước tiểu có protein nhưng không có tổn thương thân thì cần phân biệt: . Protein niệu tư thế đứng: có thể gặp ở tuổi dưới 20, protein niệu xuất hiện khi đứng lâu nhưng khi cho bệnh nhân nằm nghỉ thì protein niệu lại âm tính, khi đứng lâu > 1giờ protein niệu lại dương tính; không kèm theo hồng cầu niệu và các triệu chứng khác của bệnh thân. . Protein niệu Bence-Jone: gặp trong bệnh đa u tuỷ xương, ung thư. Loại protein này còn được gọi là protein nhiệt tan: khi đun nóng đến 60oC thì nước tiểu đục do protein kết tủa nhưng khi đun sôi thì protein lại tan làm nước tiểu trong, để nguội dần thì nước tiểu đục trở lại. Bản chất của protein nhiệt tan là các chuỗi nhẹ lamda và kappa của gama globulin do các tổ chức bệnh lý tạo ra và được lọc qua cầu thân.
- . Protein niệu do bệnh lý một số cơ quan khác như: suy tim ứ huyết có thiểu niệu, chấn thương sọ não, chảy máu màng não. Protein niệu trong các bệnh lý trên thường chỉ xuất hiện tạm thời trong thời gian bị bệnh. - Protein niệu ở người có thai lần đầu: Khoảng 3 tháng cuối của thời kỳ thai nghén thấy có protein niệu, ph ù, tăng huyết áp; đây là biểu hiện của nhiễm độc thai nghén. Nếu nặng thì sản phụ có thể bị sản giật, thai chết lưu. Sau đẻ vài tuần, các triệu chứng mất đi và protein niệu trở lại âm tính. Nếu protein niệu vẫn tồn tại kéo dài sau đẻ thì có khả năng bệnh nhân đã có bệnh thân tiềm tàng từ trước. - Protein do bệnh thân: . Lượng protein trong nước tiểu ít (
- . Lượng protein niệu trung bình (2-3g/24giờ), thường gặp trong các bệnh cầu thân cấp hoặc mạn. Protein niệu trong các bệnh cầu thân có tỉ lệ albumin/globulin tương tự trong huyết thanh (1,2- 1,5). . Protein niệu nhiều (>3,5g/24giờ) là biểu hiện của hội chứng thân hư. Thành phần protein niệu trong hội chứng thân hư phần lớn là albumin (khoảng 80% lượng protein); lượng globulin ít. + Các thành phần sinh hoá khác trong nước tiểu như urê, creatinin, điện giải..., ít được sử dụng trong lâm sàng. 2.2.3. Biến đổi các thành phần tế bào trong nước tiểu: + Hồng cầu niệu: - Bình thường, trong nước tiểu có 0-1 hồng cầu/vi trường hoặc 3 hồng cầu/ml nước tiểu hoặc
- . 1-2 hồng cầu/vi trường là (+). . 3 hồng cầu/vi trường là (++). . 4-5 hồng cầu/vi trường là (+++). . 6-7 hồng cầu/vi trường là (++++). - Đái ra máu đại thể: khi hồng cầu dày đặc vi trường, hay >5000 hồng cầu/phút; nước tiểu có màu đỏ nhạt hoặc đỏ. - Thay đổi hình dáng và thể tích của hồng cầu trong n ước tiểu rất có giá trị để chẩn đoán phân biệt bệnh của cầu thân và bệnh của đường niệu. Nếu hồng cầu bị biến dạng méo mó, thể tích co nhỏ thì chứng tỏ hồng cầu trong nước tiểu có nguồn gốc từ cầu thân, do bệnh lý cầu thân gây nên. Nếu hồng cầu giữ nguyên hình thể như bình thường là hồng cầu có nguồn gốc từ đ ường niệu (bể thân, niệu quản, bàng quang, niệu đạo), do bệnh lý của đường niệu gây nên. + Bạch cầu niệu: - Bình thường, trong nước tiểu có 0-1 bạch cầu/vi trường hoặc 3 bạch cầu/ml hoặc < 2000 bạch cầu/phút. - Bạch cầu niệu tăng khi có nhiễm khuẩn:
- . 3-5 bạch cầu/vi trường là (+). . 6-10 bạch cầu/vi trường là (++). . 11-20 bạch cầu/vi trường là (+++). . > 20 bạch cầu/vi trường là (++++). Khi có >10 bạch cầu/vi trường, hoặc >5000 bạch cầu/phút là chắc chắn có nhiễm khuẩn. Nếu có 3-10 bạch cầu/vi trường hay 2000-5000 bạch cầu/phút thì nghi ngờ có nhiễm khuẩn. Đái ra mủ: nếu bạch cầu dày đặc vi trường, có bạch cầu đa nhân thoái hoá (tế bào mủ), nước tiểu đục. + Xét nghiệm cặn Addis: - Để biết chính xác có đái ra hồng cầu hay bạch cầu không và xác định mức độ nặng của đái ra hồng cầu và bạch cầu thì phải làm xét nghiệm cặn Addis. - Cách làm như sau: Lấy nước tiểu trong 3 giờ, đo số lượng nước tiểu rồi tính ra số ml/phút (lấy số lượng nước tiểu trong 3 giờ chia cho 180 phút). Lấy 10ml nước tiểu trong mẫu nước tiểu 3 giờ, ly tâm 3000
- vòng/phút trong 10 phút. Hút bỏ 9ml phía trên, khuấy đều 1ml còn lại rồi dàn tiêu bản đếm số lượng hồng cầu, bạch cầu. Số lượng này đem chia cho 10 rồi nhân với số mililít nước tiểu/phút để được số lượng hồng cầu và số lượng bạch cầu/phút. - Nhận định kết quả: . Bình thường, nước tiểu có 1000 hồng cầu/phút là có đái ra máu; nếu >5000 hồng cầu/phút là có đái ra máu đại thể, nước tiểu có màu đỏ. + Vi khuẩn trong nước tiểu: Để tìm vi khuẩn trong nước tiểu cần phải cấy nước tiểu tươi (nước tiểu ngay sau khi đi tiểu). Có nhiều cách lấy nước tiểu để nuôi cấy vi khuẩn: - Chọc kim qua da phía trên xương mu khi bàng quang đầy nước tiểu để lấy nước tiểu. Phương
- pháp này đảm bảo vô khuẩn, nhưng là phương pháp xâm nhập dễ gây nhiễm khuẩn khoang tế bào trước bàng quang, nên hầu như không được áp dụng trong lâm sàng. - Đặt ống thông bàng quang qua niệu đạo để lấy nước tiểu. Phương pháp này không đảm bảo vô khuẩn tuyệt đối vì có thể đẩy vi khuẩn từ niệu đạo vào bàng quang. Ngoài ra, đặt ống thông dễ gây nhiễm khuẩn ngược dòng nên cũng ít được sử dụng trong lâm sàng. - Cấy nước tiểu giữa dòng: đây là phương pháp thường được ứng dụng trong lâm sàng. Cách tiến hành như sau: Tối hôm trước, bệnh nhân phải vệ sinh sạch vùng sinh dục-tiết niệu bằng xà phòng và nước sạch. Sáng hôm sau, tr ước khi lấy nước tiểu lại phải vệ sinh một lần nữa, sau đó sát khuẩn lỗ niệu đạo bằng thuốc đỏ. Cho bệnh nhân đi tiểu, loại bỏ phần đầu của bãi nước tiểu, dùng ống nghiệm vô khuẩn hứng lấy phần nước tiểu giữa bãi, đậy ống nghiệm bằng nút bông vô khuẩn; gửi lên phòng xét nghiệm để nuôi cấy. Nhận định kết quả như sau: . Không mọc vi khuẩn: không có nhiễm khuẩn nước tiểu.
- . Nếu số lượng vi khuẩn 100 000 vi khuẩn/1 ml nước tiểu: có nhiễm khuẩn nước tiểu. 2.2.4. Trụ hình và tinh thể trong nước tiểu: - Trụ hình trong nước tiểu: Trụ hình là các cấu trúc hình trụ thấy trong nước tiểu. Bản chất của trụ l à mucoprotein, là một loại protein do tế bào ống thân bị tổn thương tiết ra (gọi là protein Tam-Horsfall) và protein từ huyết tương được cầu thân để lọt ra nước tiểu. Trong điều kiện được cô đặc và pH nước tiểu axít, chúng bị đông đặc và đúc khuôn trong ống lượn xa rồi bong ra trôi theo nước tiểu. Trụ niệu là biểu hiện tổn thương thực thể ở thân, hoặc ở cầu thân hoặc ở ống thân. Có hai loại trụ: trụ không có tế bào và trụ có tế bào. Trụ có tế bào là các trụ có chứa xác các tế bào (tế bào biểu
- mô ống thân, tế bào bạch cầu, tế bào hồng cầu...). Thể loại trụ có giá trị gợi ý cho chẩn đoán bệnh, còn số lượng trụ không có giá trị nói lên mức độ nặng hay nhẹ của bệnh. Người ta phân ra các loại trụ sau: . Trụ trong hay trụ hyalin: không có tế bào. . Trụ mỡ: chứa các giọt mỡ; hay gặp trong hội chứng thân hư. . Trụ hạt: chứa xác các tế bào biểu mô ống thân; hay gặp trong viêm cầu thân mạn. Trụ hạt màu nâu bẩn gặp trong suy thân cấp. . Trụ hồng cầu: chứa các hồng cầu từ cầu thân xuống; hay gặp trong vi êm cầu thân cấp. . Trụ bạch cầu: chứa xác các tế bào bạch cầu; hay gặp trong viêm thân-bể thân cấp hoặc mạn. Kích thước của trụ cũng có ý nghĩa trong chẩn đoán: nếu >2/3 số lượng trụ có kích thước to (đường kính của trụ > 2 lần đường kính của một bạch cầu đa nhân) thì rất có giá trị để chẩn đoán suy thân mạn. - Các tinh thể trong nước tiểu: tuỳ thuộc thành phần các chất hoà tan trong nước tiểu và pH nước
- tiểu có thể gặp: . Tinh thể phosphat canxi. . Tinh thể oxalat canxi. . Tinh thể urat. Nếu một loại tinh thể có mặt với số lượng nhiều trong nước tiểu kết hợp với những điều kiện nhất định (nh ư pH nước tiểu kiềm hoặc axít; nhiễm khuẩn đ ường niệu...) chúng có thể dễ tạo sỏi. Chẳng hạn, sỏi urat dễ hình thành trong điều kiện pH nước tiểu toan; sỏi phosphat dễ hình thành trong điều kiện pH nước tiểu kiềm; sỏi truvit dễ hình thành trong điều kiện nhiễm khuẩn đường niệu. Ngoài ra, việc hình thành sỏi còn phụ thuộc vào tỉ lệ giữa các thành phần có trong nước tiểu. 2.3. Các phương pháp thăm dò chức năng thân: Thân có nhiều chức năng, do đó có rất nhiều nghiệm pháp thăm dò chức năng thân. Trong bài này, chúng tôi chỉ trình bày một số nghiệm pháp thông thường được sử dụng trong lâm sàng. 2.3.1. Thăm dò chức năng lọc máu của cầu thân: Để thăm dò chức năng lọc máu của cầu thân, người ta đo mức lọc cầu thân. Mức lọc cầu thân là số mililít dịch lọc (nước tiểu đầu) được cầu thân lọc trong 1 phút. Trong thực tế, không thể đo trực tiếp mức lọc cầu thân được nên người ta đo gián
- tiếp nó qua hệ số thanh thải của một số chất. Hệ số thanh thải của một chất l à số mililít huyết tương (thực tế là thể tích ảo) khi đi qua thân trong 1 phút, được cầu thân lọc sạch chất đó. Các chất thoả mạn các điều kiện sau đây th ì có hệ số thanh thải đúng bằng mức lọc cầu thân, và có thể dùng để xác định mức lọc cầu thân: . Không bị chuyển hoá trong cơ thể. . Được lọc dễ dàng qua cầu thân. . Không bị ống thân tái hấp thu hay bài tiết. Inulin là chất lý tưởng nhất để đo mức lọc cầu thân. Ngoài ra, có thể dùng maniton, natri thiosulphat. Nhưng kỹ thuật đo hệ số thanh thải các chất này khá phức tạp nên ít được sử dụng trong lâm sàng. Trong lâm sàng, người ta thường dùng phương pháp đo hệ số thanh thải creatinin nội sinh. + Cách đo hệ số thanh thải creatinin nội sinh: - Lấy nước tiểu trong 24giờ, phải lấy thật chính xác, sau đó tính ra thể tích nước tiểu/phút (Vml/ph) bằng cách chia thể tích nước tiểu lấy được cho 1440phút.
- - Lấy 5ml nước tiểu của mẫu nước tiểu trong 24giờ, đưa lên phòng xét nghiệm để định lượng nồng độ creatinin. - Lấy 2ml máu sau khi kết thúc lấy nước tiểu trong 24giờ, đưa lên phòng xét nghiệm để định lượng nồng độ creatinin. - Tính hệ số thanh thải creatinin theo công thức: Ucre x V(ml/ph) 1,73 Ccre = ----------------------------- x -------- Pcre S Trong đó: Ccre: hệ số thanh thải creatinin nội sinh (ml/ph). Ucre: nồng độ creatinin trong n ước tiểu (đơn vị mmol/l cần đổi ra àmol/l để cùng đơn vị với creatinin máu). Pcre: nồng độ creatinin trong máu (àmol/l). V(ml/ph): thể tích nước tiểu/phút (ml/ph). 1,73: là diện tích da trên cơ thể của một người châu âu chuẩn (chưa có thông số trên người Việt Nam).
- S: diện tích da của cơ thể bệnh nhân (m2). Tính diện tích da của cơ thể bệnh nhân có thể sử dụng hai cách sau: . Sử dụng bảng Dubois: đối chiếu chiều cao, cân nặng của bệnh nhân sẽ cho kết quả diện tích da. . Tính theo công thức của Haycock: S = cân nặng0,94(kg) x chiều cao0,4(cm) x 0,024 Bình thường hệ số thanh thải creatinin nội sinh có giá trị trung b ình là 120ml/ph. Khi hệ số thanh thải creatinin nội sinh
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 1)
5 p | 249 | 46
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 2)
5 p | 146 | 37
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 3)
5 p | 189 | 32
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 4)
5 p | 125 | 24
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 13)
5 p | 182 | 22
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 8)
5 p | 155 | 21
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 11)
5 p | 101 | 20
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 14)
5 p | 105 | 19
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 12)
5 p | 122 | 19
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 6)
4 p | 118 | 19
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 7)
5 p | 102 | 18
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 5)
5 p | 125 | 17
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 10)
6 p | 123 | 16
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 15)
4 p | 90 | 13
-
Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 9)
5 p | 118 | 13
-
TRIỆU CHỨNG HỌC BỆNH CỦA HỆ THỐNG THÂN-TIẾT NIỆU (PHẦN 2)
12 p | 90 | 3
-
Triệu chứng học Ngoại khoa: Phần 2
205 p | 34 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn