intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 9

Chia sẻ: Dqwdqwdqwd Qwdqwdqwdqwd | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

97
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Do kỉ luật thiếu chặt chẽ, nghiêm minh, bọn phản động đã trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, chúng bắt Sùng Mí Chảng nộp cho Pháp. Chàng trai anh dũng của cao nguyên Đồng Văn hi sinh mới có 28 tuổi đời. Năm 1905 đồng bào Nùng ở Hoàng Su Phì lại vùng dậy đấu tranh giết chết sĩ quan Pháp, khiến lực lượng địch ở đó phải kinh hoàng, tìm cách đối phó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 9

  1. không thành, chúng treo thưởng: “Ai bắt được Sùng Mi Chảng thi thấp nhất cũng được chức bang tá". Do kỉ luật thiếu chặt chẽ, nghiêm minh, bọn phản động đã trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, chúng bắt Sùng Mí Chảng nộp cho Pháp. Chàng trai anh dũng của cao nguyên Đồng Văn hi sinh mới có 28 tuổi đời. Năm 1905 đồng bào Nùng ở Hoàng Su Phì lại vùng dậy đấu tranh giết chết sĩ quan Pháp, khiến lực lượng địch ở đó phải kinh hoàng, tìm cách đối phó. 1 Trong những năm 1911-1912 Vàng Chỉn Pang đã kêu gọi đồng bào Mèo (H’mông) ở Đường Thượng - Yên Minh khởi nghĩa. Khoảng thời gian từ 1930-1940 ở Hà Giang liên tục nổ ra những cuộc đấu tranh chống bắt phu, sưu cao, thuế nặng cúp tiền lương tiêu biểu ở các huyện Bắc Quang, Hoàng Su Phì, Vị Xuyên... Các cuộc đấu tranh ở giai đoạn này tuy nổ ra liên tục, ở nhiều nơi đã có sự phối hợp đoàn kết đấu tranh giữa các dân tộc, song nhìn chung lực lượng còn mỏng, thiếu kinh nghiệm tổ chức đấu tranh, chưa có đường lối rõ ràng đúng đắn, cho nên các cuộc khởi nghĩa đó đều bị kẻ thù dập tắt nhanh chóng. Vậy nhưng đó là bằng chứng về lòng dũng cảm và ý chí quật cường, không chịu khuất phục của đồng bào các dân 137
  2. tộc ở Hà Giang. Đây là một trong những nhân tố quan trọng để sau này Đảng ta phát huy, thúc đẩy sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi hoàn toàn. - Phân tích âm mưu thâm độc trong các chinh sách cảnh của thực dân pháp ở Hà Giang? ? - Hậu quả của những chính sách đó đối với đời sống của các tầng lớp nhân dân ở Hà Giang ? - Đánh giá phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Hà Giang? Bài 3: PHONG TRÀO VIỆT MINH Ở CAO BẰNG 1. Sự ra đời và phát triền của các tổ chức Việt Minh ở Cao Bằng. Ngày 8-2-1941 đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc trở về Pắc Bó (Cao Bàng) để chỉ đạo phong trào cách mạng ở Việt Nam. Tại đây Người đã mở lớp đào tạo cán bộ, chỉ đạo việc thực hiện thí điểm chương trình Việt Minh ở các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình. Chương trình Việt Minh được quần chúng hoan nghênh, các tổ chức quần chúng nhanh chóng được thành lập, ngày càng thu hút đông đảo hội viên. Sau 3 tháng thí điểm việc xây dựng các tổ chức quần chúng ở Châu Hoà An, Hà Quảng và Nghiên Bình đã kết nạp được hơn 2.000 hội viên thuộc nhiều dân tộc khác nhau: Tày, Nùng, Kinh, Dao, H'mông. Các tổ chức quần 138
  3. chúng hoạt động sôi nổi ở nhiều nơi, tiêu biểu là các tổng xã: Tĩnh Oa, Nhượng Yên, Cao Bằng (Châu Hoà An), Nời Sác, Trưởng Hà, Hoà Mục, Sóc Hà, Yên Lũng (châu Hà Quảng) Gia Bằng, Kỳ Chỉ (Nguyên Bình) v.v...( 1 ). Sự phát triển của phong trào cách mạng ở Cao Bằng là cơ sở thực tiễn để Đảng ta khẳng định chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII tháng 5 - 1941 (tại Khuổi Nậm, Pắc Bó, Cao Bằng). Sau Hội nghị Trung ương VIII, phong trào Việt Minh ở Cao Bằng phát triển mạnh. Từ cuối năm 1942 đến đầu năm 1943 phong trào lan rộng khắp các châu của tỉnh Cao Bằng (Trùng Khánh, Hạ Lang, Thạch An, Quảng Uyên, Bảo Lạc v.v...). Đến giữa năm 1943 các tổ chức Việt Minh được xây dựng ở các vùng đồng bằng dân tộc ít người (Dao, H'mông) và khai thông đường liên lạc sang các tỉnh lân cận. Ủy ban Việt Minh các cấp được thành lập đã chỉ đạo quần chúng đấu tranh, tạo tiền đề mọi mặt, chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương. 2. Phong trào Việt Minh từ 1941 - 1945 Từ đầu năm 1941 một số đồng chí cán bộ ưu tú của Đảng như: Vũ Anh, Phùng Chí Kiên, Phạm văn Đồng, Võ Nguyên Giáp v.v... lên Cao Bằng hoạt động, đã chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương khắc phục khó khăn sau những ngày tháng bị địch khủng bố. Cao Bằng được 1 (1) Theo lịch sử đảng bộ tinh Cao Bằng. Tập 1 (sơ thảo). Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng. 1982 139
  4. chọn làm nơi thí điểm xây dựng căn cứ địa cách mạng, đặc biệt là việc xây dựng các tổ chức quần chúng của mặt trận Việt Minh. Các đồng chí cán bộ Trung ương đã gấp rút tổ chức nhưng lớp huấn luyện cán bộ ở Hoà An, Nguyên Bình, Ngân Sơn v.v.. Tại Pắc Bó, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã biên soạn nhiêu tài liệu quan trọng, sáng lập ra tờ báo Việt Nam độc lập, tiến hành đào tạo cán bộ, giác ngộ quần chúng. Báo “việt Nam độc lập" ra số đầu ngày 1-8-1941, phát hành mỗi tháng 3 kì, mỗi kì 400 số. Tài liệu chủ yếu được tuyên truyền lúc đó là "Việt Minh ngũ tự kinh". Đó là chương trình, điều lệ Việt Minh được biên soạn dưới dạng văn vần. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã dịch tài liệu này ra tiếng Tày, Dao và tiếng H'mông. Ban Việt Minh các châu lần lượt ra đời đã chỉ đạo tổ chức đoàn thể, củng cố đoàn kết, xây dựng mặt trận Việt Minh. Cuối năm 1942 Đại hội đại biểu Việt Minh tỉnh Cao Bằng được triệu tập ở Lam Sơn (Hoà An). Hội nghị nhấn mạnh việc cần thiết phải phát triển cơ sở Việt Minh ở vùng đồng bào Dao, H'mông. Đến năm 1943 phong trào Việt Minh đã phát triển rộng khắp các châu và các vùng cao hẻo lánh, thêm nhiều châu, xã hoàn toàn ra đời. Phong trào Việt Minh đã lôi kéo cả một bộ phận binh lính người Việt trong quân đội Pháp ngả theo cách mạng. 140
  5. Cùng với việc phát triển các tổ chức quần chúng, phong trào học tập văn hoá được đẩy mạnh ở nhiều nơi, tiêu biểu là các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình. Ở Ngân Giao (Nà Sác - Hà Quảng) đã tổ chức lớp học tập trung thu hút hơn 100 học viên đủ các lứa tuổi tham gia. Lớp được chia thành nhiều ca, vừa học văn hoá, vừa nghiên cứu tài liệu tuyên truyền cách mạng, điều lệ, chính sách của mặt trận Việt Minh. Đầu năm 1943. Đại hội “Mần non văn hoá” được triệu tập ở xã Trường Hà (Hà Quảng) có hơn 1000 học viên tham dự Cùng với việc xây dựng, củng cố lực lượng chính trị là việc xây dựng lực lượng vũ trang. Các đội tự vệ chiến đấu đã ra đời làm nhiệm vụ liên lạc, bảo vệ cán bộ và các cơ sở cách mạng của mặt trận Việt Minh. Đây là lực lượng chủ yếu tham gia chống sự khủng bố của địch sau này. Thực hiện chủ trương “Nam tiến” của Trung ương Đảng. tháng 11-1943 Tỉnh uỷ Cao Bằng đã tổ chức 19 ban xung phong “nam tiến" nối liền căn cứ địa Cao Bằng với căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai. Hè năm 1943 Trung ương Đảng triển khai kế hoạch “Nam tiến". Tuyến thứ nhất do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ Kim Mã (Nguyên Bình) vượt Ngân Sơn, gặp đội cứu quốc quân ở Nghĩa Tá (Chợ Đồn - Bắc Cạn) tháng 11/1943. Tuyến thứ hai theo hướng Đông Nam, qua Thạch An 141
  6. xuống Tràng Định, Bình Gia (Lạng Sơn) nối liền căn cứ đa Cao Bằng và căn cứ đa Bắc Sơn - Võ Nhai. Tuyến thứ ba do đồng chí Phạm Văn Đồng chỉ huy tiến theo hướng Tây Bắc, qua Bảo Lạc đến Bắc Mê (Hà Giang) xuống Nà Hang (Tuyên Quang). Hoảng sợ trước phong trào Việt Minh ở Cao Bằng, thực dân Pháp một mặt tìm cách lôi kéo, mua chuộc những phần tử xấu, mặt khác tăng cường hệ thống đồn bốt, tiến hành vây ráp, khủng bố dã man ở nhiều nơi. Sau những đợt khủng bố liên tiếp, kéo dài, nhiều cơ sở của ta bị lộ, địch bắt và giết nhiều cán bộ Việt Minh, làng bản bị tàn phá, có nơi bị đốt sạch, phá sạch". Địch tiến hành khủng bố từ cuối 1943 trên qui mô lớn. Tháng 11/1943 chúng lùng sực ở Chợ Rã bắt giết 14 cán bộ của ta. Tháng 12-1943 Pháp càn quét các xã Trung Hoà, Thượng Ân, Cốc Đán (Ngân Sơn) bắt nhiều hội viên trung kiên và 13 gia đình có người tham gia hoạt động cách mạng. Đầu năm 1944, lịch khủng bố ở Hoà An, bắt 53 người, giết 3 cán bộ bêu đầu ở cổng chợ Cao Bình, Nước Hai. Ở Hà Quảng địch bắt 20 cán bộ, giết 2 chiến sĩ bêu đầu ở cui Sóc Giang, Tại Nguyên Bình, hơn 100 hội viên bị bắt trong đó cốm người bị giết hát. Ở Bảo Lạc 10 chiến sĩ của ta trên đường "Tây tiến” bị tàn sát ở Nà Phùng (xã Li Bôn)( 1 )... (1). Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Cao Bằng ? Tr. 122 -123. 142
  7. Trước tình hình đó, cuối năm 1943 tỉnh uỷ đã triệu tập hội nghị ở Ngườm Sưa (Hoà An) quyết định thành lập các tổ chức Việt Minh trung kiên, lập "Ban xung phong chống khủng bô củng cố lực lượng tự vệ, thành lập nơi vũ trang tập trung. Ngay sau đó, lực lượng "xung phong chống khủng bồ đã tiến hành diệt trừ hơn 100 tên tay sai phản động và bọn chỉ điểm, khiến quân địch khiếp sợ. Từ giữa năm 1944 nhất là sau khi có lời kêu gọi "Sắm vũ khí, đuổi thù chung" của Trung ương Đảng (8/1944), không khí cách mạng ở Cao Bằng trở nên sôi sục chuẩn bị tiến tới một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Giữa lúc đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, đã kịp thời đình hoãn cuộc khởi nghĩa vì thời cơ cách mạng chưa chín muồi. Ngày 9.3.1945 Nhật đảo chính Pháp tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc ở Đông Dương. Căn cứ vào Bản chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của Trung ương Đảng, Ban thường vụ liên tỉnh Cao-bắc-lạng đã triệu tập hội nghị Lam Sơn (Hoà An) ra nghị quyết chỉ đạo cách mạng trong tình hình mới. Thực hiện chỉ thị đó. Các cơ sở Đảng, các tổ chức Việt Minh đã phát động quần chúng nổi dậy khởi nghĩa từng phần giành thắng lợi ở nhiều nơi. Chưa đầy 1 tháng sau ngày Nhật đảo chính Pháp, các châu Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Bình, Ngân Sơn, Chợ Rã, Thạch An, Quảng Uyên, Trùng Khánh và một phần của 143
  8. Bảo Lạc đã giành chính quyền. Ban Việt Minh các châu, tổng, xã thực hiện chức năng chính quyền cách mạng nhân dân tuyên bố trừng trị bọn phản động tay sai, khoan hồng những người lầm đường về với cách mạng, trước vũ khí của địch trang bị cho ta, củng cố khối đoàn kết trong các tổ chức quần chúng. Trong những ngày tổng khởi nghĩa, các tổ chức, quần chúng của mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng đã biểu tình thị uy có lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ xung kích, mở đường làm tan rã chính quyền địch, giành chính quyền ngày 22/8/1945 hoàn thành cuộc cách mạng tháng Tám trong toàn tỉnh. 3. Ý nghĩa của phong trào Việt Minh ở Cao Bằng. Phong trào Việt Minh ở Cao Bằng xuất hiện sớm nhất trong cả nước. Từ thực tiễn của việc xây dựng thí điểm căn cứ địa Cao Bằng, phát triển và củng cố các tổ chức cách mạng của quần chúng, Đảng ta đã khẳng định chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh tại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (5/1941). Phong trào Việt Minh ở Cao Bằng đã tạo dựng hệ thống tổ chức quần chúng chặt chẽ và rộng lớn, xây dựng lực lượng chính trị hùng hậu, củng cố căn cứ địa Cao Bằng trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng Việt Nam. Từ Cao Bằng, phong trào Việt Nam phát triển mạnh sang các vùng lân cận và nhanh chóng toả ảnh hưởng trong phạm vi rộng lớn khắp cả nước. Trên cơ sở lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang cách mạng đã ra đời. Sự kết hợp chặt chẽ của lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang đã tạo ra sức mạnh tổng hợp, giành 144
  9. thắng lợi từng bước qua khởi nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa giành thắng lợi cuối cùng khi thời cơ cách mạng chín muồi. Phong trào Việt Minh ở Cao Bằng đã để lại những bài học quí báu cho cách mạng Việt Nam trong quá trình đấu tranh chống kẻ thù xâm lược. Đó là việc xây dựng các tổ chức quần chúng của mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố mở rộng căn cứ địa cách mạng, tổ chức quần chúng đấu tranh phù hợp với tình hình thực tiên đặt ra v.v..? Với những lẽ đó, Cao Bằng xứng đáng là nơi đầu nguồn của cách mạng cả nước. - Vì sao phong trào Việt Minh ở Cao Bằng xuất hiện sớm nhất trong cả nước ? - Vì sao Phong trao Việt Minh ở Cao Bằng ? được coi là điển hình ? - Phân tích ý nghĩa của Phong trào Viết Minh ở Cao Bằng ? Bài 4: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM Ở TUYÊN QUANG 1. Tình hình ở Tuyên quang trước cuộc khởi nghĩa. Bước sang năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 có nhiều chuyển biến có lợi cho lực lượng hoà bình dân chủ, đặc biệt là đối với cách mạng các nước thuộc địa. 145
  10. Tuyên Quang cũng nằm trong sự chuyển biến mau lẹ của tình hình toàn quốc, song có nét độc đáo riêng. Đầu năm 1945, địa bàn hoạt động cách mạng được mở rộng ở hầu hết các địa phương của tỉnh Tuyên Quang. Phong trào cách mạng phát triển mạnh ở các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá, thanh thế của Việt Minh ngày càng sâu rộng trong đồng bào các dân tộc. Ngày 9-3-1945 phát xít Nhật làm cuộc đảo chính hất cẳng để quốc Pháp để độc chiếm thị trường Đông Dương. Ngay đêm đó Ban Thường vụ Trung ương đảng đã họp hội nghị mở rộng và sau đó ra chỉ thị lịch sử: "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” Tại Tuyên Quang, quân Pháp bỏ chạy trước lúc quân Nhật tiến vào thị xã, chính quyền tay sai của Pháp ở các địa phương tán loạn, hoang mang, không khí cách mạng trong quần chúng càng thêm sôi sục. Thời cơ cách mạng đã đến, thời điểm giành chính quyền cho các địa phương ở khu vực Tuyên Quang đang độ chín muồi. 2. Khởi nghĩa giành chính quyền ở Tuyên Quang. Ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp phân khu uỷ phân khu Nguyễn Huệ đã triệu tập cuộc họp cán bộ tại Khuổi Kẹn (xã Minh Thanh - huyện Sơn Dương hiện nay) do đồng chí Song Hào chủ trì. Sau khi phân tích tình hình cuộc họp đã thống nhất nhận định: Nhật, Pháp bắn nhau chứng tỏ cả hai kẻ thù của dân tộc đều bị suy yếu. Đó là thời cơ thuận lợi để phát động nhân dân khởi nghĩa giành chính 146
  11. quyền. Ban chỉ huy đã chọn Thanh La (tức Minh Thanh) làm nơi thử nghiệm, "bắt mạch" sự phản ứng của kẻ thù. Ngay đêm đó, quân khởi nghĩa đã tập trung lực lượng kẻo vào tước vú khí của lĩnh dõng ở Tổng Thanh La, bọn Tổng Lí, Kỳ hào run sợ đem giấy tờ, triện đồng, súng đạn nộp cho quân cách mạng. Ngay hôm sau (11-3-1945) quân khởi nghĩa tổ chức mít tinh ở đình Thanh La kêu gọi nhân dân ủng hộ cách mạng đoàn kết vùng dậy khởi nghĩa giành chính quyền. Đoàn người dự mít tinh đã biến thành đoàn biểu tình kẻo về huyện lỵ Sơn Dương. Ngày 15-3 lực lượng địch ở đồn Đăng Châu (huyện lị Sơn Dương) ngoan cố chống cự bị lực lượng ta tiêu diệt, huyện lỵ Sơn Dương được giải phóng, châu Tự Do ra đời. Một hộ phận lực lượng tiếp đó tiến lên giải phóng huyện lỵ Chiêm Hoá (28-3-1945) thành lập châu Khánh Thiện, giải phóng huyện ly Nà Hang (4/1945), châu Xuân Trường được thành lập. Đến giữa tháng 5/1945 ta giải phóng một số xã thuộc huyện Yên Sơn và sau đó giải phóng huyện lỵ Hàm Yên (15/5/1945). Cho đến tháng 6/1945 chính quyền cách mạng được thành lập ở hầu hết các nơi (trừ thì xã Tuyên Quang). Vùng giải phóng được mở rộng nối liền các huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hoá, Na Hang sang các vùng Đại Từ, Định Hoá (Thái Nguyên) Chợ Đồn (Bắc Cạn). Đó là cơ sở 147
  12. thuận lợi để khu giải phóng Việt Bắc được thành lập ngày 4/6/1945 và Tân Trào được chọn làm thủ đô của khu giải phóng. Đây là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sau này. Tại nơi đây đã diễn ra hội nghị toàn quốc của Đảng (13/8/1945) và Đại hội quốc dân (16- 17/8/1945) quyết định việc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đêm 16/8/1945 ủy ban khởi nghĩa tỉnh Tuyên Quang được thành lập thông qua kế hoạch giải phóng thị xã. Ngày 17/8/1945 lực lượng giải phóng thị xã bao gồm lực lượng vũ trang địa phương, đội tự vệ mỏ than vả các xã lân cận đã nhanh chóng chiếm các vị trí quan trọng như: trại bảo an binh, sở kiểm lâm, bưu điện, ngân hàng... Quần chúng nhân dân đổ ra đường phố cùng lực lượng vũ trang bao vây, uy hiếp trại lính Nhật. Lực lượng địch ngoan cố chống cự song đến ngày 24/8/1945 buộc phải đầu hàng. Thị xã Tuyên Quang được hoàn toàn giải phóng, ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời được thành lập, đồng chí Nguyễn Công Bình được cử làm Chủ tịch. 3. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của cách mạng tháng Tám ở Tuyên Quang. Cuộc cách mạng tháng Tám ở Tuyên Quang nhanh chóng giành thắng lợi bởi những nguyên nhân cơ bản sau: Tình hình trong nước và địa phương có những thuận lợi cơ bản, cơ quan Trung ương đóng tại địa phương nên kịp thời chỉ thị cho Đảng bộ địa phương lãnh đạo nhân dân tiến 148
  13. hành khởi nghĩa từng phần đúng thời cơ. - Đảng bộ cơ sở chủ động, sáng tạo trong lãnh đạo phong trào cách mạng ở địa phương. Phong trào cách mạng đã phát triển mạnh ở các huyện, xã quần chúng cách mạng ở tư thế sẵn sàng vùng dậy đấu tranh. - Chính quyền địch ở địa phương khủng hoảng, suy yếu. Thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Tuyên Quang là mốc lịch sử quan trọng, mở ra thời kì mới cho nhân dân các dân tộc trong tỉnh cùng với cả nước bước vào kỉ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi đó đã chấm dứt thời kì đen tối, khổ đau của đồng bào, các dân tộc dưới ách thống trị của đế quốc, phát xít và chính quyền phong kiến tay sai, đưa nhân dân từ địa vị nô lệ lên làm chủ quê hương, có điều kiện để cống hiến sức mình xây dựng, bảo vệ thành quả vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Thắng lợi đó còn mở ra một thời kì phát triển toàn diện, mọi mặt của địa phương trong những giai đoạn sau này. - So sánh khởi nghĩa từng phần ở Tuyên Quang với những địa phương khác ? ? - Phân tích nguyên nhân thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám ở Tuyên Quang. Bài 5: BẮC THÁI KHÁNG CHIẾN CHỐNG 149
  14. THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945 - 1954) 1. Tích cực xây dựng lực lượng, chuẩn bị kháng chiến. Thực hiện chỉ thị "Kháng chiến, kiến quốc" của Ban chấp hành Trung ương Đảng (25/11/1945), Tỉnh uỷ Bắc Cạn, Thái Nguyên (Bắc Thái) đã chỉ đạo việc thực hiện những nhiệm vụ cấp bách sau ngày cách mạng tháng Tám thành công. Chỉ trong một thời gian ngắn, các địa phương đã kiện toàn bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân các cấp, diệt giặc dốt, giặc đói v.v... Cuối năm 1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hô Chủ Tịch (20/12/1946) và bản chỉ thị 'Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (22/12/1946), Bắc Thái tích cực xây dựng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Nhiệm vụ cấp thiết lúc này là xây dựng lực lượng vũ trang. Toàn tỉnh dấy lên phong trào luyện tập dân quân tự vệ. Đầu năm 1947 Tỉnh đội dân quân được thành lập để chỉ đạo việc xây dựng, phát triển lực lượng dân quân, du kích ở địa phương. Đến tháng 4/1947 các huyện thuộc Bắc Cạn (phía Bắc của tỉnh) đã thành lập được 17 đại đội dân quân, du kích. Có nơi đã xây dựng được lực lượng vũ trang thoát li sản xuất. Các huyện phía Nam đã tập hợp được gần 300 chiến sĩ. Cùng với việc phát triển lực lượng dân quân du kích, 150
  15. Thái Nguyên đã xây dựng một trung đoàn bộ đội chủ lực (trung đoàn 72). Tất cả các lực lượng vũ trang đang tích cực luyện tập, luôn ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Song song với việc xây dựng lực lượng là việc thực hiện “tiêu thổ kháng chiến". Cuối năm 1946 đến đầu năm 1947 các Ban phá hoại của tỉnh và các cơ sở đã chỉ đạo nhân dân tiến hành phá những công trình kiên cố trong các thị trấn, thị xã (nhà ở, cầu cống, đường giao thông v.v...) Lúc này công tác tản cư đang đặt ra những yêu cầu cấp thiết. Ủy ban tản cư, di cư được thành lập để chỉ đạo công việc này. Khẩu hiệu "tản cư là yêu nước" xuất hiện ở nhiều nơi. Với tinh thần "lá lành đùm lá rách" nhân dân ở Bắc Thái không chỉ gắng sức giúp nhau di cư mà còn tạo điều kiện để trợ giúp đồng bào ở các tỉnh bạn tản cư đến tỉnh nhà. Ủy ban tản cư, di cư Bắc Thái đã tố chức bố trí nơi ăn ở làm việc cho 63.000 dân các tỉnh khác tản cư đến. Trợ giúp 5 triệu đồng cứu tế hơn 10.000 người và tổ chức xây dựng nơi sản xuất, ổn định đời sống cho đồng bào tản cư( 1 ). Tỉnh đã chỉ đạo đồng bào địa phương nhanh chóng thu hoạch mùa màng, cất giấu lương thực, thực phẩm vào nơi an toàn, thực hiện "vườn không nhà trống". Đồng bào địa phương còn tích cực vận chuyển kho tàng, thiết bị máy móc, vật tư của Trung ương và địa phương sơ tán vào nơi (l) Theo: Lịch sử Đang bộ tỉnh Bắc. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng tỉnh Bắc Thái, tập 1. Xuất bản 1980 151
  16. bí mật, đặc biệt góp phần xây dựng An toàn khu (ATK) Trung ương ở một số vùng. 2. Quân, dân Bắc Cạn, Thái Nguyên chiến đấu bảo vệ quê hương. a) Góp phần phá tan kế hoạch tấn công việt Bắc của thực dân Pháp (thu đông 1947). Cuối năm 1947, thực dân pháp mở cuộc tấn công lên Việt Bắc, nhằm tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến, nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh. Ngày 7, 8/10/1947, địch nhảy dù xuống Bắc Cạn, Chợ Mới v.v... Những toán quân dù vừa tiếp đất đã bị lực lượng vũ trang Bắc Cạn tiến đánh. Sau đó, lực lượng du kích địa phương đã lợi dụng địa hình hiểm trở trên các tuyến giao thông, phục kích đánh địch, tiêu hao sinh lực của chúng, chặn đứng các cuộc hành quân càn quét, lùng sục các kho tàng, cơ sở kháng chiến của ta. Ngày 9.10 du kích xã Yên Định và Chợ Mới đã đánh tan cuộc lùng phá của địch bảo vệ kho tàng, công xưởng của ta, tiêu diệt hàng chục tên địch. Cùng thời gian này du kích Cao Kỳ (Bạch Thông) dùng địa lôi phá 3 xe quân sự tiêu diệt hơn 50 tên địch. Du kích Bắc Cạn, Phủ Thông, Chợ Rã liên tục quấy rối địch trên đường quốc lộ 3. Sau những thất bại đó, địch phải rút khỏi chợ Đồn, ý đồ hợp quân của địch ở Chiêm Hoá bị thất bại, một gọng kìm bao vây Việt Bắc bị bẻ gãy. 152
  17. Từ cuối tháng 11 đến tháng 12/1947 địch cho quân chiếm nhiều nơi thuộc các huyện: Phú Bình, Phổ Yên, Đồng Hỷ, Đại Từ, Võ Nhai, Phú Lương, Định Hoá. Ta chủ động chặn đánh địch ở nhiều nơi tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch. Ngày 26/11/1947 quân và dân Đại Từ, Võ Nhai chặn đánh lực lượng lính dù của địch. Ở Võ Nhai ta diệt 10 tên địch nhưng do lực lượng quá chênh lệch cuộc chiến diễn ra không cân sức, nhiều đồng chí của ta bị hy sinh, bộ phận lực lượng còn lại phải tim đường rút lui". Ngày 28/11/1947, lực lượng vũ trang Định Hoá chặn đánh địch ở đèo Kim, diệt gần 100 tên, phá tan kế hoạch tiến sang Sơn Dương (Tuyên Quang) của địch buộc chúng Phải rút về Phú Minh (Đại Từ). Tại đây chúng lại bị ta truy kích, chặn đánh. thêm 12 tên bỏ mạng, hàng chục tên khác bị thương. Hai ngày sau (30/11/1947) bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương tấn công thị xã Bắc Cạn, thị trấn Phủ Thông diệt hơn 50 tên địch. Sau những thất bại liên tiếp, đầu tháng 12/1947, địch phải rút khỏi một số vị trí chiến lược quan trọng (Định Hoá 6-12) (Võ Nhai 7-12). Đến cuối tháng 12/1947 thị xã Thái Nguyên và một số huyện phía Nam được giải phóng, quân và dân Bắc Cạn, Thái Nguyên đã góp phần tích cực vào thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. b) Giải phóng quê hương. 153
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2