TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 3
lượt xem 22
download
Những thông tin như vậy rất bổ ích cho các nhóm sưu tầm biết trước để chủ động kế hoạch, tâm thế, phương pháp xâm nhập thực tế. Tình hình nghiên cứu lịch sử địa phương, những tư liệu đã được sưu tầm, nơi lưu giữ, những người am hiểu lịch sử địa phương, các nhân mối lịch sử, hoàn cảnh của họ trong quá khứ và hiện tại, dự đoán những địa chỉ có thể lưu giữ tài liệu....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 3
- kinh tế, các điểm địa hình, thành phần dân tộc, phong tục tập quán địa phương, điều kiện phương tiện giao thông giữa các địa điểm mà đoàn sẽ tới nghiên cứu, tình hình an ninh, đời sống vật chất tinh thân của cư dân ở những khu vực đó. Những thông tin như vậy rất bổ ích cho các nhóm sưu tầm biết trước để chủ động kế hoạch, tâm thế, phương pháp xâm nhập thực tế. Tình hình nghiên cứu lịch sử địa phương, những tư liệu đã được sưu tầm, nơi lưu giữ, những người am hiểu lịch sử địa phương, các nhân mối lịch sử, hoàn cảnh của họ trong quá khứ và hiện tại, dự đoán những địa chỉ có thể lưu giữ tài liệu v.v... Nắm được những vấn để đó, nhóm nghiên cứu sẽ có hướng tìm các đầu mối tài liệu và nhân mối lịch sử. Dễ cho công việc tiếp sau ở địa phương thuận lợi, đoàn cần chủ động để xuất những vấn để cần tìm hiểu để báo cáo viên chuẩn bị và để cập đúng trọng tâm. Nếu có điều kiện, nên mời các đồng chí cán bộ cơ sở, và một vài nhân mối chủ chốt cùng gặp gỡ trao đổi trong buổi họp mặt đầu tiên giữa đoàn và chính quyền địa phương. Họ là lực lượng quan trọng sở tại giúp đoàn nhiều công việc cần thiết, như động viên nhân dân giúp đỡ đoàn nhiều mặt, chỉ dẫn đoàn nghiên cứu nhanh chóng tiếp cận địa điểm và đối tượng sưu tầm tư liệu. Học sinh cần chú ý lăng nghe, ghi chép khi dự buổi họp mặt đầu tiên song rất quan trọng này. b. Tổ chức sưu tầm tài liệu: 35
- Tại địa phương, ban chỉ đạo đoàn sẽ phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức chi đạo những nhóm sưu tầm theo dự kiến xuống các cơ sở để thực hiện nhiệm vụ đã phân công. Tuỳ theo nội dung nghiên cứu, đặc điểm tình hình địa phương, điều kiện của đoàn để phân công các nhóm sưu tầm theo từng mảng vấn để hoặc sưu tầm toàn diện nội dung ở các khu vực địa lý. Theo kinh nghiệm tổ chức nghiên cứu ở vùng núi, trung du việc chia nhóm phụ trách các khu vực địa lý, hành chính (đầu làng, cuối làng, thôn. xóm, xã v.v...) sẽ thuận lợi hơn. Các thành viên của nhóm, đặc biệt là nhóm trưởng phải nắm vững kế hoạch của nhóm và toàn đoàn, liên hệ chặt chẽ với ban chỉ đạo để kịp thời báo cáo tinh hình hoạt động của nhóm. Đối với những đợt công tác dài ngày (2-4 tuần) thường phải định rõ thời gian cụ thể (4-5 ngày), các nhóm trưởng phải báo cáo công việc của nhóm trước ban chỉ đạo để bộ phận biên soạn kịp thời tập hợp tư liệu, xử lý và hình thành để cương biên soạn hoặc chuẩn bị nội dung cho hội nghị toạ đàm đồng thời cũng nhận nhiệm vụ cần tiếp tục thực hiện ở thời gian sau đó. Để tiện cho việc theo dõi khối lượng và chất lượng tư liệu sưu tầm, các nhóm trưởng phải có kế hoạch tập hợp hệ thống tư liệu của nhóm, nghiên cứu kỹ trước khi báo cáo với ban chỉ đạo. Công việc này đòi hỏi nhóm trưởng phải tích cực, chủ động, khẩn trương và tinh thần trách nhiệm cao. Kết quả nghiên cứu của đoàn phụ thuộc trước hết vào hiệu quả hoạt động của các nhóm, vì thế phải xác định công 36
- việc của các nhóm hết sức mệt nhọc và phức tạp. Muốn hoạt động của nhóm có kết quả, trưởng ban và các thành viên cần chú ý mấy điểm sau đây: - Liên hệ chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn, các tổ chức quần chúng ở địa phương và các trường học nếu có thể. Chính các cơ quan, tổ chức đó (bảo tàng địa phương, khu di tích, và văn hoá, phòng truyền thống...) vừa là nơi lưu giữ tài liệu, vừa có những cán bộ am hiểu về tình hình địa phương, họ có thể gợi ý hoặc hướng dẫn cho công tác nghiên cứu của nhóm gặp nhiều thuận lợi. Nhóm có thể thông qua các em học sinh như những "hoa tiêu" dẫn đường, cầu nối ngắn nhất giữa các địa bàn và các nhân mối lịch sử ở các cơ sở. - Có thể tham gia lao động sản xuất cùng đồng bào địa phương, các hoạt động của các tổ chức quần chúng (đoàn thanh niên, hội phụ nữ) như các buổi phát thanh tuyên truyền, hội diễn văn nghệ, kỷ niệm ngày lễ, tham gia lễ hội v.v... để hoà mình, thông cảm và hiểu rõ thực tế địa phương, từ đó có điều kiện để gợi hỏi tư liệu - Để tiết kiệm thời gian và giúp các nhân mối có điều kiên suy nghĩ, tái hiện, nhóm nên chủ động nêu trước những câu hỏi ghi trên giấy để họ nghiên cứu trả lời. Sau đó ta tập hợp xem xét, nếu vấn để gì chưa rõ sẽ tiếp tục hỏi thêm để xác minh. c. Chuẩn bị đề cương và viết sơ thảo. Khi đã có một khối lượng tài liệu cần thiết, ban biên tập 37
- phải nhanh chóng chuẩn bị để cương biên soạn, thông qua cấp lãnh đạo ở địa phương, sử lý tư liệu để biên tập bản thảo. để cương biên soạn khác với để cương sưu tầm (do ban chỉ đạo soạn để giúp học sinh khai thác tư liệu) ở chỗ, nó chi tiết cụ thể, được cấu tạo thành chương mục, là "bộ xương" của một cuốn sử. để cương biên soạn se được bổ sung nhiều vấn để và cung có thể lược bỏ thậm chí không có những nội dung đã nêu trong để cương sưu tầm. Có hiện tượng đó là do kết quả sưu tầm tư liệu ở địa phương. Cách xây dựng để cương biên soạn (trình bày sau) ở đây chỉ xin lưu ý đôi điều về bản sơ thảo ở địa phương. Trên cơ sở các nội dung thu được do các thành viên của nhóm thực hiện, người phụ trách (chủ biên) sửa lại và chấp bút thành một công trình hoàn chỉnh. - Bản sơ thảo được biên soạn xong cần trao đổi trong nhóm trước khi báo cáo các cấp lãnh đạo, quản lý chuyên môn ở địa phương và trưng cầu ý kiến của những người am hiểu về lịch sử. Nếu có hội nghị toạ đàm tổng kết cần thông qua trước tập thể bản sơ thảo này. Sau khi tiếp thu nhưng ý kiến đóng góp, ban biên tập sẽ sửa chữa bổ sung hoàn chỉnh bản thảo, sau đó trình các cơ quan có trách nhiệm duyệt. Bản thảo như vậy có thể sử dụng vào việc tuyên truyền giáo dục quần chúng ở địa phương hoặc sử dụng trong việc dạy - học lịch sử địa phương ở nhà trường. Tất nhiên bản thảo vẫn cần phải được tiếp tục bổ sung và có thể để xuất một số yêu cầu qua việc khảo cứu ở địa phương. Chằng hạn kiến nghị các cơ 38
- quan chuyên môn có thẩm quyên trùng tu, bảo vệ hay xếp hạng di tích lịch sử v.v... II. SƯU TẦM VÀ XỬ LÝ TƯ LIỆU LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC 1. Vị trí, ý nghĩa của việc sưu tầm tư liệu: Công việc đầu tiên của nghiên cứu lịch sử địa phương là sưu tầm tư liệu. Mặc dù đây là công việc bước đầu song lại có ý nghĩa quyết định đến kết quả của cả quá trình nghiên cứu. Tất cả mọi công trình nghiên cứu lịch sử nói chung, lịch sử địa phương nói riêng, trước hết phải dựa vào khối lượng và chất lượng của các loại tài liệu đã được sưu tầm. Một công trình nghiên cứu lịch sử muốn đảm bảo tính chính xác khách quan, khoa học và giá trị tư tưởng phải dựa vào nhiều nguồn tài liệu khác nhau Khác với các khoa học tự nhiên, khoa học lịch sử nghiên cứu tất cả những gì đã xảy ra trong đời sống con người, kể từ khi con người mới xuất hiện. Có những sự kiện, hiện tượng hầu như không để lại dấu vết mà văn phải tìm cách khắc phục một cách chính xác như chính nó đã từng tồn tại. Không thể làm được việc đó nếu không có căn cứ xác đáng từ nhiều nguồn tài liệu. Mặc dù không thể dùng tài liệu để tái tạo quá khứ lịch sử theo phương pháp "thí nghiệm song có thể dựa vào các phương pháp bộ môn mà chủ yếu là phương pháp lịch sử và logic. để dựng lại "bức tranh lịch sử" một cách sống 39
- động. Tư liệu lịch sử phản ánh màu sắc, nội dung thậm chí tiếng nói của bức tranh hiện thực quá khứ. Tư liệu lịch sử là những căn cứ để thực hiện việc so sánh, đối chiếu, phân tích, khái quát tổng hợp tạo nên nội dung lịch sử, là cơ sở để tạo những biểu tượng, hình thành những khái niệm trong nhận thức lịch sử. Tư liệu lịch sử của địa phương chẳng những là những tư liệu khoa học để hiểu rõ sự phát triển của lịch sử ở các địa phương, mà còn là những căn cứ cụ thể chi tiết để xem xét đánh giá một cách toàn diện những sự kiện, hiện tượng, biến cố trong lịch sử dân tộc, tránh được những quan niệm phiến diện, chủ quan trong nghiên cứu lịch sử. Các tác giả kinh điển của chủ nghĩa Mác lênin luôn nêu ra những mẫu mực về sử dụng tổng hợp các nguồn tài liệu để nghiên cứu một vấn để cụ thể của khoa học: "Muốn trở thành cơ sở thực sự, cần phải xét không chút ngoại lệ toàn bộ các sự kiện có liên quan tới vấn để nghiên cứu, chứ không phải lấy những sự kiện cá biệt. Nếu không người ta sẽ hoài nghi có lý rằng, những sự kiện ấy được sưu tầm một cách tuỳ tiện, thay mối quan hệ khách quan bằng chủ nghĩa nghĩa chủ quan ( 1 ). Dựa vào nguyên tắc đó, Lênin đã sử dụng tới 500 tài liệu khác nhau từ nhiều nguồn (kể cả tài liệu của đối phương, đặc biệt là các tài liệu ở địa phương mà Người đã thu thập được trong thời gian bị lưu đày) để hoàn thành tác phẩm nổi tiếng của mình: "Sự phát triển của chủ nghĩa tư (1) Lênin. Toàn tập. Tập XXIII: NXB Tiến bộ. Mátxcơva 1973: tr.267, bản tiếng Việt. 40
- bản ở Nga". Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng sử dụng những tài liệu cụ thể từ nhiều nguồn ở các địa phương của các nước thuộc địa để trình bày một cách khái quát đầy tính thuyết phục khoa học và ý nghĩa giáo dục ở tác phẩm: "Bản án chế độ thực dân Pháp"( 1 ). Như vậy, công tác sưu tầm tư liệu giữ vị trí hết sức quan trọng trong nghiên cứu lịch sử của địa phương. Tuy nhiên đây là công việc phức tạp đòi hỏi phải tiến hành thận trọng, tỷ mỉ, lâu dài không được phép thoả mãn. Chỉ như vậy, tư liệu lịch sử mới được bổ sung, hoàn thiện phục vụ tốt cho việc biên soạn và dạy học lịch sử địa phương ở nhà trường. 2) Các nguồn tài liệu trong nghiên cứu lịch sử của địa phương: Trong nghiên cứu lịch sử của địa phương, người ta thường dựa vào những nguồn tài liệu (sử liệu) chủ yếu sau đây: - Tài liệu thành văn (Sử liệu viết) - Tài liệu hiện vật. - Tài liệu truyền miệng. - Tài liệu dân tộc học. - Tài liệu ngôn ngữ học. (2) Xem Phan Ngọc Liên: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác sử học. Nxb Giáo dục. Ha Nội, 1985. 41
- Một số nhà nghiên cứu của Liên Xô trước đây cũng nêu ra những nguồn sử liệu cơ bản đó song theo cách sắp xếp thứ tự khác. Chẳng hạn, Tikhôminốp đã giới thiệu như sau: a. Tài liệu hiện vật (chủ yếu là di vật khảo cổ) b. Tài liệu về dân tộc học. c. Tài liệu về ngôn ngữ (trong đó địa danh lịch sử có vị trí quan trọng). d. Tài liệu truyền miệng (bao gồm văn học dân gian, các câu chuyện lịch sử). đ. Tài liệu thành văn (các bán viết tay, in, khắc, gồm: biên niên sử, văn bia, hồi kí, luật pháp, văn kiện, báo cáo)( 1 ). Vấn đề phân loại tài liệu thuộc phạm vi của "Sử liệu học" vì vậy ở đây, chúng tôi chỉ giới thiệu các nguồn tài liệu chủ yếu (đã nêu trên) cần khai thác, sưu tầm trong nghiên cứu lịch sử của địa phương. a. Tài liệu thành văn (sử liệu viết): Đây là nguồn tài liệu hết sức phong phú đa dạng và giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong các nguồn tư liệu lịch sử địa phương. Nguồn tài liệu này giúp chúng ta nghiên cứu hoàn cảnh lịch sử cụ thể phản ánh những nội dung lịch sử khá toàn diện trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, tư tưởng tôn giáo, quân sự v.v... ở các địa phương. Để (3) Xem: Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Nguyễn Phan Quang: Công tác ngoại khóa môn sử ở TPT cấp II. III NXBGD, Hà Nội 1968. 42
- tiện theo dõi tính đa dạng của nguồn sử liệu này, chúng ta phân biệt một số tài liệu ở hai thời kỳ trước và sau cách mạng tháng Tám. Trước cách mạng tháng Tám 1945, nguồn sử liệu viết có những loại sau: - Địa phương chí: để cập tới nhiều vấn để ở địa phương cụ thể như đặc điểm địa lý, sự kiện, hiện tượng lịch sử, phong tục tập quán truyền thống (đời sống tinh thần) và hoàn cảnh kinh tế của nhân dân địa phương. Những nội dung đó có thể được trình bày trong một xã hoặc một thôn. Loại tài liệu này để cập tới nhưng vấn để cụ thể ở địa phương mà chính sử chưa hoặc chỉ để cập tới một cách sơ lược. - Các bài văn bia, các bài minh trên chuông, khánh: Các bia, chuông, khánh là những tài liệu hiện vật, giúp cho người nghiên cứu tìm hiểu hình dáng, kích thước, chất liệu xây dựng chế tác, đường nét kiến trúc, cấu tạo bài trí hoa văn, phong cách nghệ thuật, giá trị văn hoá v.v... Nội dung được phản ánh qua chữ viết, khắc đúc trên đó được coi là tài liệu, thành văn. Loại tài liệu này rất quý vì nó phản ánh chân thực lịch sử ở địa phương, nhiều khi có giá trị đối với lịch sử dân tộc. Nhận dân ta trước đây có thói quen ghi, tạc trên bia những sự kiện đáng nhớ có thể liên quan tới gia đình, dòng họ, hoặc một nhân vật lịch sử để cho con cháu đời sau được biết, tôn thờ, ghi nhớ. Vì vậy có 2 loại bia khác nhau: bia "hậu" và bia "sự kiện". 43
- Bài minh chuông hiện nay rất ít, chỉ có ở một số chùa lớn. Nội dung các bài minh thường để cập tới hoạt động văn hoá, tín ngưỡng hoặc các địa danh, và một số vấn để về kinh tế xã hội ở địa phương. - Gia phả, thần phả. Gia phả là tài liệu ghi chép về gốc tích, các nhánh, chi của dòng họ qua các thế hệ, nó được coi như là cuốn tiểu sử của dòng họ. Nội dung của gia phả các dòng họ khác nhau, có những gia phả chỉ ghi lại gốc tích họ mạc, vị trí mồ mả, ngày giờ chập v.v... nhưng có những gia phả ghi khá chi tiết về đặc điểm của dòng họ ở mỗi thế hệ. Chẳng hạn ghi lại những nhân vật thi cử đỗ đạt, làm quan, tạo nên vinh hiển, niềm tự hào cho dòng họ, mang tính răn dạy nêu gương cho hậu thế, ghi lại hoàn cảnh lịch sử, điều kiện xã hội ảnh hưởng tới việc an cư hay di cư, về nề nếp, truyền thống của dòng họ với phong tục tập quán địa phương v.v... Dựa vào gia phả ta có thể hiểu thêm hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm cư dân, thành phần dân tộc, đời sông vật chất văn hoá tinh thần v.v... của dòng họ, hoặc các dòng họ ở địa phương. Thần phả thường ghi lại sự tích các vị thần mà nhân dân địa phương tôn thờ, cũng có khi là những nhân vật có thật trong lịch sử. Tuy nhiên thần phả mang nhiều yếu tố mê tín, dị đoan, vì vậy đối với loại tài liệu này phải xử lý thận trọng. - Các cuốn sổ tay, nhật ký, hồi ký, truyền đơn... Những 44
- cuốn sổ tay, nhật ký thường được gia đình, bè bạn hoặc bản thân những người tham gia hoạt động trước đây (hiện còn sống) cất giữ. Loại tài liệu này sẽ giúp chúng ta nắm được sự kiện trong những hoàn cảnh cụ thề cả về thời gian và vị trí không gian. Quan trọng hơn là những cuốn hồi ký của những người đã có quá trình hoạt động, công tác lâu năm, hồi tưởng lại quá khứ lịch sử Những người thật, việc thật ở nhiều địa phương khác nhau, ở những mảng công việc khác nhau, giúp ta nghiên cứu khá toàn diện về những giai đoạn lịch sử ở các địa phương. Tuy nhiên khi sử dụng loại tài liệu này cung cần phải có kiểm tra xử lý loại bỏ những suy nghĩ, phản ánh mang tính chất chủ quan, cá nhân, hoặc sự nhầm lẫn khi tái hiện lại quá khứ. Một số truyền đơn, báo chí thuộc các thời kỳ trước đây (có thể in thạch, rônêô hoặc viết tay) phản ánh những chủ trương, đường lối của Đảng hoặc cấp bộ Đảng ở địa phương, để cập tới các cuộc đấu tranh, mít tinh, biểu tình, bãi thị, bãi khoá v.v... cũng được lưu ý trong quá trình sưu tầm tư liệu. Những loại tài liệu nói trên thường hay được lưu giữ trong các kho lưu trữ của Tỉnh uỷ, ủy ban các cấp, Ban tuyên giáo, Phòng văn hoá thông tin hoặc là các Bảo tàng, Nhà truyền thống ở địa phương. Ngoài nhưng loại tài liệu nói trên, chúng ta còn có thể khai thác những loại đinh bạ để tìm hiểu nhân lực lao động 45
- ở địa phương, địa bạ để tìm hiểu tinh hình ruộng đất, các loại văn bản của chính quyền, Đảng bộ địa phương. Trong chừng mực chúng ta còn có thể khai thác được những nội dung lịch sử từ các bài văn thơ, xướng tạo của các nhà nho, các hài văn tế, sắc phong, các văn bản tự vay nợ, khế ước mua bán ruộng đất v.v... Những loại tài liệu này còn lại một còn lại rất ít trong một số gia đình có chức sắc ở địa phương, hoặc có người học hành đỗ đạt, đi du học. Nguồn tài liệu thành văn sau Cách mạng tháng Tám phong phú và đa dạng hơn nhiều thời kỳ trước. Có những loại tài liệu phản ánh toàn diện mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội v.v... của địa phương. Có những loại đi sâu phản ánh một mặt, một khía cạnh nào đó dưới dạng các chuyên khảo, chẳng hạn nghiên cứu về một trận đánh, một cuộc khởi nghĩa, một sự kiện, một hiện tượng lịch sử, một nhân vật lịch sử v.v... Đặc biệt là những công trình nghiên cứu Lịch sử địa phương dù chưa đầy đủ và toàn diện, song là những cơ sở quý báu, những gợi ý quan trọng để giáo viên có hướng sưu tầm thêm tài liệu ở nhiều nguồn khác nhau và biên soạn các bài giảng. Thời gian gần đây nhiều địa phương rất chú ý công việc động viên khuyến khích những cán bộ cách mạng lão thành viết và công bố những tập hồi ký, động viên nhân dân khai thác những hiện vật, tài liệu lịch sử ở các địa phương, củng cố công tác bảo quản lưu trữ tư liệu, đặc biệt là những tư liệu gốc. (Văn bản, biên bản cuộc họp, nghị quyết hội nghị, đại hội v.v...). Tất nhiên sau khi sưu tầm tài liệu từ những 46
- cuốn hồi ký, các bản báo cáo tổng kết, phương hướng công tác v.v... cần thận trọng hơn bởi vì có những số liệu báo cáo nhiều khi chưa sát với thực tế. Các loại giấy khen, bằng khen, huân, huy chương, giấy chứng nhận phong tặng, truy tặng v.v... cũng phân nào phản ánh được công lao, thành tích, bước phát triển của đơn vị, cá nhân mỗi địa phương. Như vậy, nguồn tài liệu thành văn rất phong phú, đa dạng về thể loại, song cũng chính vì thế mà việc sưu tầm không kém phần phức tạp, nó cần được kết hợp chặt chẽ với nhiều nguồn tài liệu khác để bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. b. Tài liệu hiện vật (sử liệu vật chất) Tài liệu hiện vật bao gồm những di vật khảo cổ, các công trình kiến trúc, nghệ thuật (đình, chùa, miếu, tượng v.v...) những di tích, hiện vật lịch sử (công cụ lao động, vu khí đấu tranh...). Có những di tích tự nhiên liên quan tới sự kiện lịch sử (cây đa Tân Trào, cây đa Hồng Thái, hang Pác bó), có những công trình kiến trúc liên quan tới sự kiện (đình Tân Trào...) Cần lưu ý những hiện vật khảo cổ bởi vì bản thân nó là những bằng chứng khách quan chân thực của lịch sử. Tài liệu hiện vật là nhưng cứ liệu cụ thể để chúng ta hình dung điều kiện, tình trạng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần của con ngời ở các thời kì lịch sử. Đây cũng là những cơ sở giúp cho người nghiên cứu đối chiếu kết hợp với các loại tài liệu khác trong việc sưu tâm và xử lí tư liệu. 47
- Những tài liệu hiện vật có thể được sưu tầm lưu giữ trong các nhà truyền thống, bảo tàng, kho lưu trữ, khu di tích, hoặc được nhân dân bảo quản, và cũng còn nhiều tài liệu chưa được thu thập. Trung nghiên cứu lịch sử địa phương cần xác định những địa điềm có khả năng ẩn chứa tài liệu này để có biện pháp, kế hoạch khai quật, sưu tầm. c. Tài liệu truyền miệng. Tài liệu truyền miệng bao gồm những câu chuyện lịch sử, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, những điệu dân ca, hò, vè, truyện kê của các cụ già, những người từng tham gia hoạt động cách mạng v.v... Văn nghệ dân gian có giá trị lớn trong nghiên cứu lịch sử vì nó gắn liền với cuộc sống của con người, nó phản ảnh hoàn cảnh lịch sử mỗi thời kì, nó miêu tả cuộc sống lao động dựng xây, cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, nó phản ánh tập tục, thói quen, tình cảm, ước vọng, thế giới quan của con người đương thời. Chính vì vậy, A.M Goócki đã viết: "Không thể hiển được Lịch sử thực sự của nhân dân lao động nếu không biết văn nghệ dân gian. Từ thời thượng cổ văn học dân gian luôn theo sát lịch sử"(1 ). Về ý nghĩa của loại tài liệu này, cố Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn đã viết: "Văn nghệ dân gian có tác dụng cực kỳ quan trọng trong việc bổ sung, đính chính, sàng lọc những kiến thức của chúng ta về lịch sử dân tộc (2). Tài liệu đó giúp chúng ta có thể dần khôi phục lại bộ mặt chân thật (1). Xem Phạm Văn Đồng: Nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương. Báo Nhân dân số 5494 - ngày 29/4/1969. 48
- của cả một thời kì lịch sử mà chúng ta chưa biết hoặc không dám nhắc đến nó vì cho nó là hoang đường, truyền thuyết"(3). Như vậy tài liệu truyền miệng thực chất là nền văn học dân gian, tuy vậy cần lưu ý phân biệt không phải bất cứ tài liệu truyền miệng nào cũng đều là văn nghệ dân gian. Trong khi sưu tâm tài liệu dân gian cần lưu ý loại bỏ yếu tố hoang đường, màu sắc thần linh huyền bí để "bóc lõi" tài liệu giữ lại giá trị chân thực của lịch sử. 1 d. Tài liệu dân tộc học. Tài liệu dân tộc học nghiên cứu đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán các dân tộc, miêu tả cuộc sống vật chất tinh thần của cư dân các địa phương. Khai thác tài liệu dân tộc học kết hợp với các nguồn tài liệu khác, chúng ta có thể hiểu sâu sắc, tường tận những hiện tượng lịch sử ở các vùng miền. Nghiên cứu lịch sử địa phương, đặc biệt là khu vực miền núi, cần triệt để khai thác tài liệu này. Có những hiện tượng lịch sử địa phương gắn chặt với phong tục, tập quán của dân tộc, nếu biết khai thác, chúng ta sẽ khắc phục được những khoảng trống và dấu ấn mờ nhạt của nguồn tài liệu ít ỏi. Tài liệu dân tộc học là cơ sở đáng tin cậy để chúng ta tái tạo quá khứ lịch sử theo phương pháp mô hình hoá. Hiểu về tập tục địa phương còn tạo cho chúng ta nhưng điều kiện thuận lợi để thâm nhập thực (1), (2) Nguyễn Khánh Toàn: Phải triệt để khai thác vốn văn nghệ dân gian giàu có của dân tộc Tạp chí Văn học số 1.1967. tr.35.36 49
- tế, làm tốt công tác dân vận phục vụ việc khai thác tài liệu địa phương. F.Ăngghen đã thực hiện phương pháp mô hình hoá (hồi cổ) một cách mẫu mực khi ông dựng lại quá khứ lịch sử không phải trên cơ sở tài liệu mà là những di sản của tài liệu dân tộc học. Dựa vào kết quả nghiên cứu của L. Moóc gan về cách tổ chức xã hội của thị tộc da đỏ I-rô-qua, Ăngghen đã miêu tả các hình thức hôn nhân và gia đình nguyên thuỷ trong tác phẩm nổi tiếng: "Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước"(3). 1 d. Tài liệu ngôn ngữ học. Tài liệu ngôn ngữ học có liên quan tới việc nghiên cứu lịch sử địa phương thường gặp ở 2 loại chủ yếu sau: Địa danh học: Địa danh là tên gọi của ít vùng đất nhất định, như Nađêđin đã nói: “Địa danh là ngôn ngữ của quả đất, mà quả đài là quyển sách ghi lại lịch sử loài người bằng các tên gọi địa lí”(4). Địa danh giúp chúng ta giải quyết các vấn để về nguồn gốc sự phát triển của xóm làng, nghề nghiệp của nhân dân. Có địa danh liên quan tới một di tích lịch sử, một địa điểm (3) Xem: N.N.Maxlốp: Phương pháp Mácxit-lêninnit nghiên cứu lịch sử Đảng.NXB sách giáo khoa Mác - Lê nin Hà Nội 1984 tr114. (4) Xem Phan Ngọc Liên - Trần Văn Trị) Nguyễn Phan Quang: Công tác ngoại khoá.... sách đã dẫn tr59. 50
- khảo cổ (Tân Trào, ải Chi Lăng, Bác Sơn...) có địa danh liên quan tới đặc điểm địa lý (Nậm cắt) và cũng có địa danh liên quan tới nghề nghiệp sản xuất của nhân dân trước đây. Phương ngôn là tiếng nói của cư dân địa phương trong tiếng nói chung của dân tộc song có những sắc thái riêng do lịch sử tạo nên, chẳng hạn: Cũng là tiếng Việt song sắc thái của ngôn ngữ biểu đạt qua giọng nói ở Hà Nội khác với Nghệ An, Huế, thành phố Hô Chí Minh, hoặc âm tiết của ngôn ngữ cũng khác nhau rất đặc trưng ở ngay cả các xã, thôn, làng trong một khu vực. Dựa vào phương ngôn người ta có thể hiện được thành phần của cư dân địa phương, nguồn gốc của những nhóm người từ nơi khác tới địa phương, những ảnh hưởng qua lại của từng nhóm cư dân trong thột cộng đồng nhất định. Phương ngôn còn cho ta biết sự gần gũi về nguồn gốc của một số dân tộc ở khu vực miền núi, những sắc thái chung, riêng trong thói quen, phong tục của các dân tộc ở địa bàn cư trú. 3. Phương pháp sưu tầm tư liệu. Công việc trước tiên của sưu tầm tư liệu là nghiên cứu kỹ để cương sưu tầm để xác định vị trí không gian và thời gian liên quan tới chủ để nghiên cứu. Nếu để tài nghiên cứu, biên soạn thông sử, lịch sử Đảng bộ địa phương... thì không gian nghiên cứu được giới hạn trong khung giới của các đơn vị hành chính (huyện, xã, thành phố, quận). Cũng cần lưu ý sự thay đổi ranh giới các đơn vị hành chính do sự 51
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 1
17 p | 155 | 22
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 2
17 p | 111 | 19
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 9
17 p | 96 | 13
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 5
17 p | 109 | 10
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 6
17 p | 120 | 9
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 10
9 p | 99 | 9
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 4
17 p | 87 | 8
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 7
17 p | 90 | 8
-
TS ĐỖ HỒNG THÁI NGHIÊN CỨU VÀ DẠY HỌC - LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG Ở VIỆT BẮC (TS ĐỖ HỒNG THÁI) Phần 8
17 p | 79 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn