intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ứng dụng Công nghệ Sinh học trong điều trị bỏng và liền vết thương.

Chia sẻ: Nguyen Phuonganh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

171
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong những thập niên gần đây, công nghệ sinh học đã có những bước phát triển mạnh mẽ với các ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực y học nói chung và chuyên ngành bỏng nói riêng, công nghệ sinh học đã và đang trở thành một mũi nhọn, góp phần làm tăng khả năng cứu sống các bệnh nhân bỏng nặng cũng như cải thiện một cách đáng kể chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân sau bỏng. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ứng dụng Công nghệ Sinh học trong điều trị bỏng và liền vết thương.

  1. Ứng dụng Công nghệ Sinh học trong điều trị bỏng và liền vết thương. Trong những thập niên gần đây, công nghệ sinh học đã có những bước phát triển mạnh mẽ với các ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong lĩnh vực y học nói chung và chuyên ngành bỏng nói riêng, công nghệ sinh học đã và đang trở thành một mũi nhọn,
  2. góp phần làm tăng khả năng cứu sống các bệnh nhân bỏng nặng cũng như cải thiện một cách đáng kể chất lượng cuộc sống của các bệnh nhân sau bỏng. Vài nét về ứng dụng công nghệ sinh học trong điều trị bỏng và liền vết thương trên thế giới Nghiên cứu và sản xuất các chế phẩm sinh học điều trị vết thương, vết bỏng Một trong các hướng nghiên cứu của công nghệ sinh học là tìm ra các mối liên quan giữa các yếu tố sinh học do các tế bào sản sinh ra
  3. trong các đáp ứng bệnh lý với bệnh bỏng, để từ đó tìm ra các chế phẩm có tác dụng điều trị bỏng và điều trị vết thương. Những khám phá về vai trò của các chất trung gian hóa học, các cytokins, các yếu tố phát triển (growth factors)... đã giúp cho việc điều trị sốc khi bị bỏng, điều trị nhiễm khuẩn, nhiễm độc bỏng đạt được những kết quả khả quan. Các loại thuốc tại chỗ sử dụng cho điều trị vết bỏng có chứa các yếu tố phát triển để làm tăng cường quá trình liền vết bỏng nông cũng như hạn chế sẹo do bỏng để lại đã được nhiều nước điều chế thành công. Cu Ba là một trong những nước có nền công nghệ sinh học phát triển
  4. mạnh cũng đã thành công trong việc kết hợp Silver Sulfadiazine 1% với các yếu tố phát triển để sản xuất Herbecmine - một chế phẩm có chất lượng cao trong điều trị vết bỏng nông và bỏng trung bì sâu. Bằng công nghệ phân tử, nhiều loại băng vết thương, nhiều loại thuốc có chứa các yếu tố sinh học cũng đã được sản xuất để điều trị vết thương, vết bỏng. Nhiều công ty của Anh, Mỹ, Trung Quốc đã rất thành công trong lĩnh vực này. Tập đoàn ANSON (Trung Quốc) đã đưa ra thị trường nhiều loại băng vết thương có chứa các chế phẩm sinh học dùng để điều trị các vết bỏng, vết loét đạt kết quả tốt. Hiện nay,
  5. việc nghiên cứu, sản xuất các chế phẩm bằng công nghệ sinh học phục vụ điều trị vết thương phần mềm, vết bỏng dưới dạng thuốc, băng vết thương đang là xu hướng được nhiều nước quan tâm. Nuôi cấy tế bào sừng, nguyên bào sợi và công nghệ da nhân tạo Năm 1968, lần đầu tiên Marvin Karasek đã thực hiện thành công việc nuôi và biệt hóa tế bào của da thỏ. Cho đến nay, công nghệ nuôi cấy tế bào sừng và nguyên bào sợi đã có những bước tiến dài. Một trong những người có nhiều đóng góp nhất cho kỹ thuật nuôi cấy tế
  6. bào là Green Howard (Mỹ). Năm 1978, trong quá trình nuôi cấy ông đã tìm thấy có sự liên quan giữa tế bào sừng và nguyên bào sợi. Năm 1980, ông đã thành công khi cấy 1 cm2 ở dây rốn, sau một thời gian nuôi cấy đã đạt được 3 m2 biểu bì. Với những cống hiến của mình, Green Howard được xem là ông tổ của kỹ thuật nuôi cấy tế bào sừng. Ngày nay, việc nuôi cấy tế bào sừng và nguyên bào sợi để điều trị vết thương phần mềm, vết loét, vết bỏng đã trở nên khá phổ biến ở nhiều nước phát triển. Nhiều trung tâm nuôi cấy tế bào hiện đại đã hình thành tại Anh, Mỹ, Italia, Pháp, Nga, Trung Quốc, Hàn
  7. Quốc... Cùng với thời gian, công nghệ nuôi cấy tế bào sừng và nguyên bào sợi ngày càng có nhiều tiến bộ, với tỷ lệ thành công rất cao, giá thành hạ. Thay vì nuôi cấy tế bào trong môi trường nuôi cấy ở đĩa vô khuẩn thông thường, người ta đã sử dụng các chất thay thế có nguồn gốc tự nhiên, bán tổng hợp và tổng hợp để tạo nên các khung sườn, các giá đỡ để tế bào nuôi cấy bám vào đó. Da đồng loại, dị loại, các màng Collagen, màng Silicon,... là những chất nền được sử dụng với mục đích như vậy. Nhờ việc sử dụng chất nền làm giá đỡ, nhờ sự chuẩn
  8. bị tốt nền ghép bằng việc che phủ tạm thời bởi các loại da và màng sinh học cũng như việc ứng dụng các công nghệ hiện đại như Leser Skin mà công nghệ nuôi cấy tế bào đã không ngừng được hoàn thiện. Không chỉ có các bước tiến trong công nghệ nuôi cấy, việc sử dụng các sản phẩm nuôi cấy cũng có nhiều thay đổi. Thay vì sử dụng đơn thuần các màng nguyên bào sợi, tế bào sừng nuôi cấy lên vết thương, ngày nay người ta đã kết hợp việc nuôi cấy tế bào sừng để tạo lớp biểu bì lên chất nền trung bì là lớp nguyên bào sợi nuôi cấy - đó là công nghệ da nhân tạo. Da nhân
  9. tạo còn được tạo ra do kết hợp lớp biểu bì nuôi cấy với một màng Collagen, màng Silicon hay một loại màng tổng hợp khác. Thậm chí, ngày nay đã hình thành nên ngành công nghệ mô (Tissue Enzinering) để tạo ra các mô ghép từ các tế bào nuôi cấy, từ tế bào gốc... Công nghệ nuôi cấy tế bào không chỉ được áp dụng trong điều trị vết bỏng, liền vết thương, mà còn được ứng dụng trong điều trị ung thư, nhãn khoa và ghép tạng. Công nghệ sinh học và ứng dụng trong điều trị vết thương, vết
  10. bỏng tại Việt Nam Việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu của công nghệ sinh học vào điều trị vết thương, vết bỏng đã và đang được các nhà khoa học, các thầy thuốc chuyên ngành bỏng, chuyên ngành mô phôi ở nước ta quan tâm. Viện Bỏng Quốc gia là một trung tâm bỏng hàng đầu của Việt Nam và cũng là nơi tiên phong nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học vào điều trị bỏng. Đơn giản nhất là việc tìm kiếm các loại da thay thế da tự thân, các màng sinh học thay thế da tạm thời trong điều trị vết thương, vết bỏng. Ứng dụng công nghệ sinh học để xử lý
  11. và bảo quản các loại da, các màng sinh học thay thế da là một trong những hướng ưu tiên của chuyên khoa bỏng và chấn thương. Mặc dù da tự thân là vật liệu lý tưởng nhất để che phủ vết thương, vết bỏng, nhưng trong nhiều trường hợp, da tự thân không thể đáp ứng được (do thiếu, do thể trạng bệnh nhân không cho phép lấy...). Khi đó, việc tìm kiếm các loại da, các màng sinh học thay thế da (tự thân) tạm thời đã trở thành một xu hướng tốt. Việc sử dụng các loại da động vật (da dị loại) như da lợn, da ếch... để che phủ vết thương phần mềm, vết bỏng đã được sử dụng từ rất lâu. Tuy nhiên, việc sử dụng những loại
  12. da này cũng mới chỉ dừng lại ở cách sử dụng đơn giản, đó là da tươi. Mặc dù da dị loại tươi có những ưu điểm, đặc biệt là khả năng bám dính tốt, nhưng nó cũng có những nhược điểm nhất định. Hơn nữa, việc sử dụng lại ở thế bị động, khó có thể sử dụng rộng rãi trên lâm sàng. Do đó, ban đầu công nghệ sinh học đã được áp dụng để xử lý và bảo quản các loại da dị loại, sau đó là da của các tử thi (đồng loại). Nhiều công nghệ đã được áp dụng như công nghệ xử lý và bảo quản da dị loại, đồng loại bằng kỹ thuật lạnh sâu, kỹ thuật đông khô, kỹ thuật xử lý và bảo quản trong glyxeryl ưu trương, kỹ
  13. thuật đông khô kết hợp tiệt khuẩn bằng tia gamma... Ngoài các loại da dị loại, da đồng loại, một số màng sinh học khác cũng được sử dụng để điều trị vết thương, vết bỏng như màng ối lấy từ bò, từ người, màng collagen... Bên cạnh đó, Viện Bỏng Quốc gia cũng đã có những nghiên cứu và hợp tác nghiên cứu với các nước như Anh, Nga, Sinhgapo về nuôi cấy nguyên bào sợi, tế bào sừng trong điều trị bỏng. Kỹ thuật nuôi cấy tế bào sừng trong phòng thí nghiệm cũng đã được xúc tiến trong nhiều năm qua và đã có những thành công bước đầu. Gần
  14. đây, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt Nghị định thư về hợp tác khoa học giữa Viện Bỏng Quốc gia và Viện Ngoại khoa Liên bang Nga, theo đó phía Nga sẽ chuyển giao công nghệ nuôi cấy nguyên bào sợi cho Việt Nam. Trong năm 2002, các chuyên gia của Nga đã sang làm việc tại Viện Bỏng Quốc gia và Viện cũng đã cử ba cán bộ sang Nga để học về công nghệ nuôi cấy nguyên bào sợi. Việc nuôi cấy nguyên bào sợi trung bì da người thành công sẽ nâng cao chất lượng điều trị bỏng lên một bước và tạo điều kiện để phát triển sản xuất da nhân tạo. Hiện nay, Viện Bỏng Quốc gia cũng đang xúc tiến các
  15. bước để tiếp thu công nghệ nuôi cấy tế bào sừng từ Sinhgapo. Viện cũng đã và đang hợp tác với Tập đoàn ANSON (Trung Quốc) để nghiên cứu đánh giá tác dụng của băng vết thương có các yếu tố sinh học được sản xuất bằng công nghệ phân tử trong việc điều trị bỏng. Trong Dự án cải tạo nâng cấp Viện Bỏng Quốc gia, một hệ thống labô công nghệ sinh học hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế sẽ được xây dựng. Điều đó mở ra triển vọng sẽ có bước đột phá trong nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu của công nghệ sinh học vào việc điều trị bỏng và vết thương phần mềm cũng như các ứng dụng của nó
  16. trong các chuyên ngành khác của y học hiện đại, trong đó công nghệ gen và công nghệ tế bào gốc là những ưu tiên phát triển.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1