intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm đảm bảo sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế số

Chia sẻ: ViSteveballmer ViSteveballmer | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

32
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung đánh giá việc ứng dụng CMCN 4.0 của các doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả trong việc ứng dụng CMCN 4.0 vào hoạt động.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm đảm bảo sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế số

  1. 113 ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ NHẰM ĐẢM BẢO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ SỐ ThS. Nguyễn Thị Thanh Mai, ThS. Đặng Thị Mai Trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Thái Nguyên TÓM TẮT Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang tác động mạnh mẽ, kinh tế số ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế mỗi quốc gia, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Tác động của cuộc CMCN 4.0 được dự báo là sẽ làm thay đổi mãnh mẽ, toàn diện các khía cạnh chủ yếu của nền kinh tế, đồng thời tác động trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp. Việc ứng dụng hiệu quả các thành tựu của cuộc cách mạng sẽ cắt giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Bài viết tập trung đánh giá việc ứng dụng CMCN 4.0 của các doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao tính chủ động, hiệu quả trong việc ứng dụng CMCN 4.0 vào hoạt động. Từ khóa – Tiến bộ khoa học công nghệ, doanh nghiệp Việt Nam, kinh tế số. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Các doanh nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảnh mới của quá trình công nghiệp hóa và khi cuộc cách mạng khoa học- công nghệ tiếp tục diễn ra với tốc độ nhanh chóng chưa từng thấy trên phạm vi toàn cầu, chi phối toàn bộ sự phát triển kinh tế- xã hội, các doanh nghiệp Việt Nam phải dành nhiều nỗ lực hơn nữa để đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình và hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, có hiệu quả hơn. Đó là con đường để đảm bảo sự phát triển bền vững của họ trong nền kinh tế số. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức kinh tế, xã hội và công nghệ, đòi hỏi một sự năng động và khả năng sáng tạo trong công việc. Vì vậy, làm thế nào để các doanh nghiệp nâng cao năng lực dẫn đến đổi mới, để phù hợp với yêu cầu của Cách mạng Công nghiệp 4.0 là vô cùng quan trọng. Bài viết đề xuất một số giải pháp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm đảm bảo sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế số. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Cơ sở lý luận 2.1.1. Nền kinh tế số Kinh tế số là “một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số”, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số hiện diện trên tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng,...) mà công nghệ số được áp dụng.
  2. 114 Về bản chất, đây là các mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của nền kinh tế dựa trên ứng dụng công nghệ số. Lĩnh vực công nghệ kỹ thuật số phát triển đã mở đường cho sự đổi mới và phát triển trên toàn cầu. Việc áp dụng những tiến bộ công nghệ trong nhiều năm qua đã tác động vào các ngành kinh doanh cũng như mọi khía cạnh của cuộc sống. Công nghệ số thúc đẩy nhiều ngành kinh doanh cải tiến mô hình phát triển, tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và xóa mờ đường biên giới địa lý. Những biểu hiện của công nghệ số xuất hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong đời sống xã hội, như các trang thương mại điện tử, quảng cáo trực tuyến hay các ứng dụng về ăn uống, vận chuyển, giao nhận,... cũng tích hợp công nghệ số để đáp ứng nhu cầu thuận tiện cho khách hàng. Nhưng ở tầm vĩ mô hơn, kinh tế số cũng có những đóng góp không nhỏ trong sự hội nhập của các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi công nghệ toàn cầu. Đặc trưng của kinh tế số là có thể được tập hợp trong 3 quá trình xử lý chính đan xen với nhau, bao gồm: xử lý vật liệu; xử lý năng lượng; xử lý thông tin. Trong đó, xử lý thông tin đóng vai trò quan trọng nhất, và cũng là lĩnh vực dễ số hóa nhất. Tính kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành tựu của công nghệ thông tin và Internet giúp kết nối hóa các nguồn lực, lược bỏ nhiều khâu trung gian và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu. 2.1.2. Vai trò của khoa học công nghệ với sự phát triển của các doanh nghiệpViệt Nam trong nền kinh tế số Trong các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ là một thành tố đóng vai trò rất quan trọng, xét về lý thuyết cũng như thực tiễn cho thấy khoa học - công nghệ luôn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tác động đến tổng cung và tổng cầu. Khoa học - công nghệ góp phần mở rộng khả năng phát hiện và khai thác có hiệu quả các nguồn lực, sản phẩm khoa học - công nghệ đóng góp trực tiếp vào GDP, đồng thời quyết định tăng trưởng trong dài hạn và chất lượng tăng trưởng, tạo điều kiện chuyển đổi từ chiều rộng sang chiều sâu. Khoa học - công nghệ phát triển với sự ra đời hàng loạt công nghệ mới, hiện đại như: vật liệu mới, công nghệ nano, công nghệ sinh học, điện tử, viễn thông… làm tăng các yếu tố của sản xuất - kinh doanh, tăng thu nhập, điều đó dẫn đến sự gia tăng chi tiêu cho tiêu dùng dân cư và tăng đầu tư cho cả nền kinh tế. Khoa học - công nghệ phát triển làm tăng khả năng tiếp cận của con người với tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ qua các phương tiện thông tin và dịch vụ vận chuyển. Do vậy, trong thời đại ngày nay, phần đóng góp vào tăng trưởng và phát triển kinh tế của nhiều nước từ khoa học - công nghệ là rất cao. Khoa học - công nghệ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, trong các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thì khoa học và công nghệ có vai trò
  3. 115 đặc biệt quan trọng, luôn làm thay đổi cơ cấu sản xuất, phân công lao động ngày càng sâu sắc hơn và phân chia thành các ngành nhỏ. Làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, nhiều lĩnh vực mới. Cơ cấu trong nội bộ ngành cũng thay đổi. Khi thay đổi sản xuất theo hướng tăng năng suất và hiệu quả sẽ tạo ra khả năng thay đổi cơ cấu tiêu dùng do thu nhập tăng. Tỷ trọng và vị trí GDP của công nghiệp và dịch vụ tăng dần, nông nghiệp giảm dần. Khoa học - công nghệ góp phần tăng năng suất các nhân tố tổng hợp, nhờ tác động của các yếu tố như đổi mới công nghệ, hợp lý hóa quy trình sản xuất, cung cấp dịch vụ cải tiến phương pháp quản lý, nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc của người lao động, tăng năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) làm cải thiện và nâng cao chất lượng tăng trưởng, từ đó góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Khoa học - công nghệ nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế, một quốc gia có tiềm lực khoa học - công nghệ sẽ là quốc gia có sức cạnh tranh quốc tế cao. Năng lực sáng tạo công nghệ là một trong những tiêu chí cơ bản để xếp hạng năng lực cạnh tranh của quốc gia đó. Việc ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ làm cho các yếu tố đầu vào nhất là các nhân tố tổng hợp được nâng cao và có hiệu quả hơn, quy mô sản xuất và tiêu dùng ngày càng được mở rộng, tạo ra thị trường mới, hướng về xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và khu vực. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu và động lực của doanh nghiệp là lợi nhuận. Do đó, các doanh nghiệp luôn hướng tới giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, buộc phải áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ thì sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất của người lao động, giảm chi phí, tạo lợi thế cạnh tranh không chỉ ở thị trường trong nước mà cả thị trường ngoài nước, từ đó nâng cao hay nói cách khác là tối đa hóa lợi nhuận. Khoa học - công nghệ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, khoa học - công nghệ phát triển làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới, tạo nhiều việc làm mới, nhất là tăng năng suất lao động, từ đó tăng thu nhập, nâng cao đời sống cho nhân dân. Sự phát triển của công nghệ sinh học, hóa học đã sản xuất nhiều loại thuốc mới, nhiều phương tiện chữa bệnh hiện đại đã mở ra nhiều cách thức điều trị bệnh mới, tạo điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Khoa học - công nghệ phát triển cũng góp phần tăng giao lưu xã hội làm cho đời sống tinh thần con người phong phú, tốt đẹp hơn. Công nghệ điện tử, tin học viễn thông phát triển làm rút ngắn khoảng cách địa lý giữa các quốc gia, vùng miền… Khoa học - công nghệ phát triển góp phần và tạo điều kiện cải thiện môi trường sinh thái, sản xuất và tiêu dùng của con người liên tục phát triển, vì vậy chất thải không ngừng tăng, gây tác hại cho con người và môi trường sinh thái. Phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học, hóa học các chất thải được xử lý, cải thiện và góp phần bảo vệ môi trường. Khoa học - công nghệ phát triển cũng góp phần tiết kiệm tiêu hao nguyên, nhiên liệu, làm giảm
  4. 116 chất thải, tìm kiếm nguồn năng lượng, vật liệu mới thay thế các nguồn lực truyền thống không gây ô nhiễm môi trường; khoa học - công nghệ phát hiện và dự báo các thảm họa thiên nhiên để phòng ngừa. Tuy nhiên, tác động của khoa học - công nghệ cũng gây ra những ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế như gia tăng và phân hóa giàu nghèo giữa các quốc gia, nhiều nước độc quyền trong những tiến bộ khoa học - công nghệ, thuốc chữa bệnh đặc trị… 2.2. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện theo hình thức thăm dò và khảo sát trên nền thông tin thống kê và tiếp cận thực tế một cách chọn lọc do các điều kiện thực tế khác nhau. Việc vận dụng lý thuyết về nền kinh tế số để xác định cách thức tiếp cận thực tế và phân tích tổng hợp ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm đảm bảo sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế số. Trước tiên là phương pháp tiếp cận lý thuyết, như trên đã đề cập rút ra những vấn đề chung về nền kinh tế số theo cách tiếp cận mới hiện nay. Về phương diện thu thập thông tin, do đặc điểm đây là nghiên cứu tổng quan có tính thăm dò, nên kết quả nghiên cứu chủ yếu dựa trên các thông tin đã công bố, được thu thập từ những tài liệu đã công bố như tạp chí, sách và tài liệu thống kê, báo chuyên ngành và thông tin trên mạng Internet. Yếu tố thâm nhập thực tế chỉ thực hiện theo phương pháp tiếp cận thực tế theo hình thức phỏng vấn, hỏi đáp các vấn đề liên quan đến nền kinh tế số, trên cơ sở đó với phương pháp phân tích đánh giá và tổng hợp các vấn đề về việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm đảm bảo sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế số nhằm đưa ra các đề xuất giải pháp. 3. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ SỐ 3.1. Tác động của khoa học công nghệ đến sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế số Sau hơn 30 năm mở cửa và thực hiện đổi mới kinh tế thì mô hình tăng trưởng dựa trên thâm dụng lao động và tài nguyên đã không còn tạo ra động lực phát triển ổn định và bền vững. Chính vì vậy, Chính phủ đã sớm nhận ra tiềm năng to lớn của mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó phát triển kinh tế số được xem là xu hướng tất yếu để tạo ra những động lực tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam trong bối cảnh làn sóng CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ. Trong những thập niên gần đây, Việt Nam chứng kiến sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, nhất là trên các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới… đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, góp
  5. 117 phần gia tăng hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, thay đổi công nghệ không chỉ thuần túy là việc tìm tòi, nghiên cứu. Công nghệ phát triển và được ứng dụng rộng rãi là nhờ sự duy trì và thực hiện cơ chế cho phép những sáng chế, phát minh được bảo vệ và được trả tiền một cách xứng đáng. Từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học công nghệ đã đạt 2%, đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách đầu tư phát triển khoa học công nghệ của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, còn có các nguồn đầu tư cho khoa học công nghệ từ doanh nghiệp, đầu tư nước ngoài và các quỹ về khoa học công nghệ. Trong những năm qua, các doanh nghiệp ở Việt Nam đã có sự phát triển đáng kể và có đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế. Từ năm 2000 tới 2019, bình quân hàng năm, số doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế tăng 16,14%, trong đó năm 2008 tăng cao nhất (32,07%), năm có tỷ lệ tăng cao thứ 2 là năm 2017, tăng 29,62%. Hình 1. Tăng trưởng GDP và tỷ lệ tăng số doanh nghiệp hoạt động hàng năm của Việt Nam1 Chính sự cộng hưởng trong quá trình chuyển đổi số của nhiều lĩnh vực khác nhau đã tạo ra sự bùng nổ của nhiều mô hình, giao thức kinh doanh mới, thậm chí có thể là thai nghén các phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất mới. Và thời điểm hiện tại có thể được xem là tâm điểm của quá trình hội tụ công nghệ. Trên nền tảng kinh tế chia sẻ, sự hội tụ và cộng hưởng đó sẽ càng lan toả mạnh và thúc đẩy quá trình chuyển đổi số diễn ra 1 Niên giám thống kê các năm 2005, 2010, 2015, 2018, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội Việt Nam các năm 2016, 2017, 2018 và 9 tháng đầu năm 2019
  6. 118 nhanh chóng. Bởi lẽ, nó sẽ là một xu hướng mà doanh nghiệp, công chúng và các chính phủ không thể đứng ngoài. 3.2. Những hạn chế trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm đảm bảo sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế số Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam đã có sự phát triển quan trọng, có những thành tựu to lớn, nhưng cũng có nhiều nhược điểm rất cơ bản, không chỉ hạn chế sự phát triển và việc phát huy tác động của nó, mà còn đe dọa sự phát triển của khu vực này trong những năm tới. - Trình độ công nghệ thấp, việc đổi mới công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ diễn ra một cách chậm chạp và hiệu quả ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ thấp hơn mong đợi. Một nghiên cứu của VCCI (thực hiện năm 2016 tại 10 ngành) cho thấy có tới hơn 60% số doanh nghiệp được khảo sát sử dụng các công nghệ có tuổi đời trên 6 năm; khoảng 65% doanh nghiệp sử dụng công nghệ tiếp nhận từ các nước đang phát triển2. Trong giai đoạn doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, chỉ có 4,8% trong số các sản phẩm, 4,4% trong số các công nghệ được sử dụng được coi là mới, nhưng khi kinh doanh đã đi vào hoạt động ổn định, các chỉ số này lại giảm đi, lần lượt chỉ còn dao động từ 0,5- 2,8%3. Trong khi đó, nguồn lực của doanh nghiệp dành cho nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ rất thấp so với nhu cầu cũng như so với các nước trong khu vực. Theo số liệu của Bộ Khoa học và công nghệ, chi tiêu cho nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ tương đương với 0,2- 0,3% doanh thu của họ4. Về phía cung, năng lực của các cơ sở nghiên cứu và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam hiện cũng khá hạn chế. Theo số liệu của Bộ Khoa học và công nghệ, tới 2019, cả nước có 386 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận là doanh nghiệp khoa học và công nghệ, 43 tổ chức được cấp giấy chứng nhận hoạt động công nghệ cao và hơn 2000 doanh nghiệp đạt điều kiện doanh nghiệp khoa học và công nghệ trong lĩnh vực công nghệ thông tin5. Theo số liệu khảo sát được thực hiện năm 2017, các doanh nghiệp khoa học- công nghệ tạo việc làm cho 22.738 người, nhưng chỉ tạo ra 10.349,6 tỷ đồng doanh thu từ các 2 Xem: https://viettimes.vn/chu-tich-vcci-trinh-do-cong-nghe-doanh-nghiep-viet-lac-hau-gan-60-van-su-dung- giaiphap-tuoi-doi-tren-6-nam-302265.html 3 Trần Thị Hồng Minh (2018), Phân tích các nguyên nhân các doanh nghiệp rời thị trường trong 10 tháng đầu năm 2018 và một số giải pháp. Xem https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/597/4847/phan-tich-cac-nguyen-nhancac- doanh-nghiep-roi-thi-truong--trong-10-thang-dau-nam-2018-va-mot-so-giai-phap.aspx 4 Nhật Minh (2019), Cạnh tranh nhờ khoa học và công nghệ. https://nhandan.com.vn/khoahoc- congnghe/khoahoc/item/39594702-canh-tranh-nho-khoa-hoc-va-cong-nghe.html 5 Nhật Minh (2019), Cạnh tranh nhờ khoa học và công nghệ. https://nhandan.com.vn/khoahoc- congnghe/khoahoc/item/39594702-canh-tranh-nho-khoa-hoc-va-cong-nghe.html
  7. 119 hoạt động khoa học- công nghệ; tức là tạo ra doanh thu hơn 455 triệu đồng/ người/năm. Số tiền làm lợi từ các dịch vụ khoa học- công nghệ này không được thống kê. Tuy nhiên, chính việc các doanh nghiệp ít quan tâm tiếp nhận chuyển giao tiến bộ khoa học- công nghệ và kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học chỉ được đưa vào lưu trữ là một minh chứng rõ rệt và thuyết phục nhất về sự kém hiệu quả của các hoạt động này. Theo một số nghiên cứu được thực hiện trong những năm gần đây, ở cấp độ quốc gia, chỉ có khoảng 10% số đề tài do Nhà nước cấp kinh phí chuyển giao được kết quả nghiên cứu của mình cho doanh nghiệp ứng dụng6. - Trình độ chuyên môn hóa của các doanh nghiệp thấp, sự hợp tác giữa các doanh nghiệp còn hạn chế và tính khép kín trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khiến các doanh nghiệp riêng lẻ khó có thể tận dụng nguồn lực từ ngoài và lợi dụng lợi thế từ việc hợp lý hóa tổ chức sản xuất để nhanh chóng nâng cao năng lực của mình. Cũng theo khảo sát của VCCI, có tới gần 85% doanh nghiệp tự triển khai các hoạt động nghiên cứu - phát triển để đổi mới sản phẩm, trong khi chỉ có gần 14% số doanh nghiệp tận dụng kết quả nghiên cứu từ các cơ sở bên ngoài, trong đó chỉ có khoảng gần 1% số doanh nghiệp trong mẫu khảo sát tiếp nhận kết quả nghiên cứu từ các đơn vị nghiên cứu - phát triển chuyên nghiệp. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp chuyển hướng khá nhiều từ ngành này sang ngành khác khá thường xuyên và nhanh chóng, không chuyên chú đầu tư lâu dài vào một lĩnh vực cụ thể. Tình trạng này khiến việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật - công nghệ gặp khó khăn cả về mặt kinh tế (hiệu quả thấp, thậm chí không kịp thu hồi vốn) lẫn tổ chức (khó có thể đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật - công nghệ, đào tạo, sử dụng và phát triển đội ngũ nhân lực có quy mô, trình độ và cơ cấu thích hợp, …) - Đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ còn rất thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp; chất lượng một số đề tài nghiên cứu khoa học và khả năng ứng dụng vào thực tiễn chưa cao; cơ chế cơ chế tài chính và cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ chưa phù hợp với đặc thù của lao động sáng tạo; việc nghiên cứu đề xuất đặt hàng chưa sâu sát thị trường, đặc biệt là việc nghiên cứu những vấn đề có tính đột phá để khai thác tiềm năng, thế mạnh phục vụ phát triển kinh tế - xã hội tỉnh; các cơ chế chính sách khuyến khích đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống chưa đáp ứng được yêu cầu... 6 Nguyễn Quang Tuấn (2014), Thúc đẩy chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển vào sản xuất, kinh doanh. Tạp chí Tài chính.
  8. 120 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ NHẰM ĐẢM BẢO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ SỐ Thứ nhất, nhận dạng rõ bối cảnh, điều kiện kinh doanh của mình, từ đó định vị rõ được vị thế của mình trong chuỗi giá trị và xây dựng, lựa chọn được định hướng, mục tiêu và chiến lược phát triển của mình. Nhiệm vụ này đã được nói tới trên nhiều diễn đàn, ở nhiều mức độ, dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng vẫn chưa được nhận thức đầy đủ và vẫn chưa được thực hiện một cách thực sự nghiêm túc. Với nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được ý nghĩa của việc này và đã có những bước triển khai thì chiến lược lại thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn, chưa được điều chỉnh kịp thời. Đối với nhiều doanh nghiệp, đây là việc khó và cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ của cả các cơ quan quản lý nhà nước cũng như các tổ chức, cá nhân khác. Nhà nước và các tổ chức xã hội nghề nghiệp có thể đảm nhận hỗ trợ ở một mức độ và dưới những hình thức nhất định (chứ không làm thay), nhưng sự hỗ trợ này chỉ thực sự có hiệu quả nếu bản thân các doanh nghiệp tự mình nỗ lực nâng cao nhận thức và tăng cường tri thức của mình trước (và sau đó, chỉ kêu gọi sự hỗ trợ, giúp đỡ để giải quyết một số khó khăn cụ thể). Thứ hai, tích cực tham gia thị trường tiến bộ khoa học- công nghệ, đặc biệt là thiết lập các quan hệ chặt chẽ với các cơ sở nghiên cứu, chuyển giao tiến bộ khoa học- công nghệ. Xây dựng năng lực khoa học - công nghệ nội bộ, tự nghiên cứu, thiết kế hoặc cải tiến, thích ứng hóa công nghệ mà mình cần đến đương nhiên là quan trọng, nhưng doanh nghiệp cần nhiều công nghệ, tự mình không thể đảm bảo ―tự cung cấp đầy đủ được. Hơn nữa, hiệu quả của việc tự nghiên cứu, thiết kế, tự chế tạo sẽ thấp hơn nhiều so với việc mua công nghệ từ các nguồn cung cấp chuyên nghiệp. Ngoài ra, cần kể tới cả yếu tố thời gian: các cơ sở nghiên cứu, thiết kế và chuyển giao công nghệ chuyên nghiệp có thể đưa ra và chuyển giao những giải pháp công nghệ trong thời gian ngắn hơn rất nhiều so với việc tự nghiên cứu, đặc biệt là khi việc tự nghiên cứu lại được thực hiện bởi các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nơi mà năng lực nội tại chỉ có hạn. Tuy nhiên, lợi thế về mặt thời gian và chất lượng cũng như bổ sung năng lực như nêu trên chỉ trở thành hiện thực nếu doanh nghiệp có am hiểu cần thiết về thị trường tiến bộ khoa học- công nghệ, có hoặc biết tìm và tìm được những đối tác thực sự có năng lực và thái độ nghiêm túc, trung thực trong các hoạt động chuyển giao công nghệ để xây dựng quan hệ hợp tác lâu dài và bền vững với họ. Thứ ba, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là yêu cầu đương nhiên cần thực hiện bởi bất kỳ công nghệ nào cũng cần được thích ứng hóa với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp trong suốt quá trình từ khi tiếp nhận, và sau đó, cần được khai thác và bảo trì bởi những nhân lực có năng lực, có nhận thức và thái độ, hành vi thích hợp. Khác với trường
  9. 121 hợp các doanh nghiệp lớn, nhân sự của các doanh nghiệp nhỏ và vừa có mức độ luân chuyển cao, do đó nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng cũng lớn hơn. Tuy nhiên, đây lại là khoản chi phí khá tốn kém và là khoản mục thường bị các chủ doanh nghiệp ưu tiên cắt bỏ do chúng không đem lại những lợi ích dễ nhìn thấy được. Để thực hiện giải pháp này, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cần tiếp cận từ 3 hướng: 1) tuyển dụng những nhân sự có năng lực thích hợp ngay từ đầu (với điều kiện làm việc và thù lao tương ứng), 2) tổ chức các chương trình đào tạo/ tự đào tạo cho nhân viên theo yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong ngắn hạn và dài hạn, và 3) duy trì đội ngũ nhân sự ổn định, đặc biệt là đội ngũ nhân viên kỹ thuật (và các nhóm nhân sự chủ chốt khác) Thứ tư, đẩy mạnh công tác thông tin về tiến bộ khoa học - công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ. Mục đích của giải pháp này không phải là tạo ra một hệ thống thông tin về tiến bộ khoa học - công nghệ và các vấn đề liên quan tới công dụng, hiệu quả, quá trình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật- công nghệ, mà là tạo ra, cập nhật hóa một cách thường xuyên và chuyển tải những thông tin như thế tới các chủ thể có nhu cầu sử dụng. Hệ thống này cũng cần được tổ chức sao cho các doanh nghiệp cũng như các chủ thể liên quan có thể tiếp cận một cách dễ dàng khi có nhu cầu. Muốn vậy, bên cạnh việc tạo lập hệ thống thông tin về công nghệ và ứng dụng công nghệ, cần thiết lập nhiều kênh chuyển tải thông tin sao cho các yêu cầu về tính chính xác, tính kịp thời, khả năng kiểm tra chéo, khả năng so sánh, đối chiếu thông tin, … được đảm bảo một cách chặt chẽ. Thứ năm, ổn định và tích cực mở rộng thị trường, đẩy mạnh chuyên môn hóa, tích cực tham gia các chuỗi gia công - chế biến toàn cầu. Giải pháp này một mặt giúp nâng cao tương đối quy mô của doanh nghiệp (tạo ra sản lượng hợp lý để doanh nghiệp có thể thu hồi vốn đầu tư ứng dụng tiến bộ kỹ thuật - công nghệ trong một khoảng thời gian hợp lý), vừa để doanh nghiệp chịu sức ép, lực đẩy từ phía đối tác buộc phải đầu tư, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật - công nghệ để có thể đáp ứng được yêu cầu của họ. Quan hệ với các đối tác trong chuỗi còn giúp doanh nghiệp có thêm nguồn cung cấp kinh nghiệm (thậm chí cả những hình thức hỗ trợ khác, đặc biệt là hỗ trợ về tổ chức - quản lý, về nhân sự và cả tài chính) tổ chức, quản lý và thực hiện các hoạt động liên quan tới ứng dụng tiến bộ kỹ thuật- công nghệ (tìm kiếm, đánh giá, khai thác thông tin về công nghệ, đánh giá và lựa chọn công nghệ, đàm phán, ký kết hợp đồng, tiếp nhận chuyển giao công nghệ, kiểm định công nghệ, thích ứng hóa/ cải tiến và hoàn thiện, khai thác công nghệ sau chuyển giao, …). Đây là biện pháp có tầm quan trọng hàng đầu, sau việc nâng cao nhận thức, bởi suy cho cùng, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật - công nghệ chỉ là biện pháp nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho thị trường; một khi không tìm kiếm được thị trường thì ứng dụng tiến bộ kỹ thuật -
  10. 122 công nghệ để có sản phẩm/ dịch vụ mới, tăng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm/ dịch vụ chỉ là vô ích. 5. KẾT LUẬN Ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ là một xu hướng phát triển tất yếu để các doanh nghiệp có thể nâng cao khả năng cạnh tranh và vươn lên khẳng định mình. Việc nghiên cứu, ứng dụng hiệu quả các thành tựu của cuộc CMCN 4.0 đòi hỏi sự chung tay, góp sức từ phía nhà nước với việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, hạ tầng kinh tế, đồng thời là các chính sách hỗ trợ về khoa học và công nghệ, tài chính cho các doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp cần chủ động, tích cực, sáng tạo trong việc tiếp cận và ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ tập trung vào việc thay đổi mô hình sản xuất kinh doanh, cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư vào nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ để phát triển bền vững trong nền kinh tế số. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1].https://viettimes.vn/chu-tich-vcci-trinh-do-cong-nghe-doanh-nghiep-viet-lac- hau-gan-60-van-su-dung-giaiphap-tuoi-doi-tren-6-nam-302265.html [2].https://dangkykinhdoanh.gov.vn/vn/tin-tuc/597/4847/phan-tich-cac-nguyen- nhancac-doanh-nghiep-roi-thi-truong--trong-10-thang-dau-nam-2018-va-mot-so-giai- phap.aspx [3]. Nghị quyết 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020. [4]. Nguyễn Quang Tuấn (2014), Thúc đẩy chuyển giao kết quả nghiên cứu và phát triển vào sản xuất, kinh doanh, Tạp chí Tài chính. [5]. Nhật Minh (2019), Cạnh tranh nhờ khoa học và công nghệ. https://nhandan.com.vn/khoahoc-congnghe/khoahoc/item/39594702-canh-tranh-nho- khoa-hoc-va-cong-nghe.html [6]. Tổng cục Thống kê, Báo cáo tình hình kinh tế xã hội Việt Nam các năm 2016, 2017, 2018 và 9 tháng đầu năm 2019. [7]. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm 2005, 2010, 2015, 2017, 2018. NXB Thống kê. Hà Nội. [8]. Trần Thị Hồng Minh (2018), Phân tích các nguyên nhân các doanh nghiệp rời thị trường trong 10 tháng đầu năm 2018 và một số giải pháp.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2