intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vài nét về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu lao động nghề nghiệp ở đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ đổi mới - Lê Phượng

Chia sẻ: Huynh Thi Thuy | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

93
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phân loại các nhóm xã hội lao động, nghề nghiệp, mức độ phi nông nghiệp hóa và tư nhân hóa, xu hướng chuyển đổi tiếp tục về cơ cấu xã hội lao động nghề nghiệp là những nội dung chính trong bài viết "Vài nét về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu lao động nghề nghiệp ở đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ đổi mới". Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vài nét về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu lao động nghề nghiệp ở đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ đổi mới - Lê Phượng

Xã hội học thực nghiệm Xã hội học số 4 (56), 1996 19<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Vài nét về thực trạng và xu hướng chuyển đổi<br /> cơ cấu xã hội lao động - nghề nghiệp ở<br /> đồng bằng Bắc Bộ trong thời kỳ đổi mới<br /> <br /> <br /> LÊ PHƯỢNG<br /> <br /> <br /> <br /> Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và nhất là nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã tạo ra được động lực mới ở nông<br /> thôn và tầng lớp dân cư sản xuất nông nghiệp. Sự đa dạng hóa về hình thức tổ chức sản xuất và sự phong phú về<br /> các hoạt động trên các lĩnh vực kinh tế đã làm nảy sinh những nhân tố mới cho sự phân công lao động xã hội ở<br /> nông thôn nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Gia đình đã trở lại vị trí là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp<br /> tổ chức, quản lý và sử dụng lao động. Với tư cách là đơn vị sản xuất kinh doanh tự quản, hộ gia đình phải trực<br /> tiếp tổ chức, sắp xếp, phân bố và sử dụng lao động của mình một cách có hiệu quả.<br /> Qua số liệu khảo sát xã hội ở đồng bằng Bắc Bộ những năm gần đây, chúng tôi lưu ý đến 3 khí cạnh sau<br /> đây:<br /> 1- Phân loại các nhóm xã hội lao động - nghề nghiệp ;<br /> 2- Mức độ phi nông nghiệp hóa và tư nhân hóa ;<br /> 3- Xu hướng chuyển đổi tiếp tục về cơ cấu xã hội lao động nghề nghiệp.<br /> I. Phân loại các nhóm xã hội lao động - nghề nghiệp.<br /> 1.1 Theo làng xã :<br /> Ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành 3 loại làng xã khác nhau:<br /> 1. Loại làng xã giảm mạnh hoạt động thuần nông, tăng cường lao động phi nông nghiệp, đặc biệt là tăng<br /> mạnh lao động kết hợp nghề chính với một hoặc nhiều việc làm thêm theo nhiều cách kết hợp khác nhau: tiểu<br /> thủ công nghiệp với buôn bán dịch vụ, nông nghiệp với buôn bán dịch vụ, nông nghiệp với tiểu thủ công nghiệp.<br /> Ở những làng xã này tỷ trọng nhóm hộ thuần nông giảm mạnh, nhóm hộ phi nông nghèo tăng nhanh, Song xu<br /> hướng áp đảo là tăng nhanh nhóm họ kết hợp nông nghiệp với các ngành phi nông nghiệp khác. Đây là loại làng<br /> xã nông nghiệp chỉ là nghề phụ, hoạt động chủ yếu là các ngành phi nông nghiệp. Thí dụ như xã Ninh Hiệp<br /> (huyện Gia Lâm, Hà Nội) theo số kiệu báo cáo của cán bộ xã năm 1994 nhóm hộ sản xuất kinh doanh tổng hợp<br /> lên tới 77,6% nhóm hộ phi nông nghiệp chiếm 14,28% và nhóm hộ thuần nông nghiệp giảm xuống chỉ còn<br /> 8,09%. Đặc biệt có một số nơi đã xóa bỏ được hoàn toàn nhóm hộ thuần nông chỉ còn lại 2 nhóm hộ :<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> 20 Vài nét về thực trạng và xu hướng chuyển đổi ...<br /> <br /> <br /> - Phi nông nghiệp<br /> - Kết hợp nông nghiệp với phi nông nghiệp.<br /> Thí dụ như xã Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) năm 1994 có nhóm hộ phi nông nghiệp chiếm 92%, chỉ<br /> còn 8% là nhóm kết hợp.<br /> Loại làng xã này thường là những làng xã đang chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, và mức độ phân tầng<br /> mức sống phụ thuộc vào mức độ phi nông nghiệp hóa của mỗi hộ gia đình. Hiện thời, lợi thế vượt trội kinh tế thị<br /> trường thuộc về nhóm kinh doanh tổng hợp.<br /> 2- Loại làng xã lấy nông nghiệp là chính, song đang định hướng mạnh sang sản xuất kinh doanh tổng hợp.<br /> Thí dụ xã Hải Vân (huyện Hải Hậu, Nam Hà) 1 theo số liệu điều tra xã hội học có tới 48,6% số hộ sản xuất kinh<br /> doanh tổng hợp (nhóm kết hợp) và nhóm hộ phi nông nghiệp, 38% nhóm hộ thuần nông. Qua số liệu trên cho<br /> thấy loại làng xã này đang định hướng mạnh sang nhóm kết hợp. Đó là dấu hiệu đa năng trong định hướng kinh<br /> doanh và đa phương trong quan hệ thị trường.<br /> 3- Loại làng xã vốn tay nông nghiệp là chính, tuy có dịch chuyển ít nhiều lao động sang các dạng khác song<br /> nhóm hộ thuần nông vẫn còn rất lớn, trong khi đó các nhóm hộ phi nông nghiệp và nhóm kết hợp hãy còn nhỏ<br /> bé năng lực yếu kém, hoặc chưa hình thành nhóm phi nông nghiệp. Thí dụ như xã Xuân Sơn (Đông Triều,<br /> Quảng Ninh) năm 1993 có tới 82,2% nhóm hộ thuần nông và chỉ có 17,8% nhóm kết hợp, không có nhóm phi<br /> nông nghiệp.<br /> Mức độ chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội ở các làng xã khác nhau tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó<br /> yếu tố truyền thông đóng vai trò quan trọng và địa bàn cư trú là yếu tố quyết định cho việc chuyển dịch hiện<br /> nay:<br /> - Những làng xã xung quanh các đô thị lớn, thị xã, thị trấn, thị tứ.<br /> - Những làng xã nằm dọc theo các trục đường giao thông chính.<br /> Ngoài ra cũng có những làng xã nổi lên trong cơ chế mới do yếu tố năng động vi mô song những làng xã<br /> này còn rất ít.<br /> Dễ có thể phân tích rõ ràng hơn các quy mô nói trên chúng tôi xem xét chúng dưới góc độ quy mô gia đình<br /> với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ :<br /> * Các loại hộ : Phân chia theo nhóm lao động - nghề nghiệp xã hội<br /> Có thể phân chia thành 3 nhóm :<br /> Nhóm thứ nhất : gồm những hộ đã chuyển hẳn sang sản xuất thủ công nghiệp hoặc các ngành nghề làm phi<br /> nông nghiệp (như buôn bán, dịch vụ).<br /> - Những hộ có nghề thủ công nghiệp đã tách rời khỏi nông nghiệp thường là nhóm hộ có tay nghề cao, như<br /> nghề mộc, nghề rèn, hoặc những nghề gia truyền như nghề thuốc bắc, nghề dệt vải hoặc những nghề mới phù<br /> hợp với cơ chế hiện nay như nghề xây dựng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> . Theo số liệu khảo sát nhanh của Viện Xã hội học (1994) mô hình này đang được tiếp tục nhân rộng và đem lại hiệu<br /> quả cao cho các hộ gia đình<br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Lê Phượng 21<br /> <br /> <br /> nghề may... trong đội ngũ này ở nhiều nơi được bổ xung bằng số lượng xã viên hợp tác xã ở những cơ sở bị giải<br /> thể hoặc giảm biên chế theo chỉ thị 176. Đặc điểm của nhóm hộ này là họ đã có "mầm mống" từ thời kỳ hợp tác<br /> xã, ở những làng xã có nghề, cư trú gần những khu vực đô thì hóa cao như thành phố, thị trấn, thị tứ thì nghề<br /> của họ phát triển mạnh. Thí dụ như nhóm hộ này ở xã Ninh Hiệp, Bát Tràng. Ở những khu vực này đang hình<br /> đô thị hóa “ly nông bất ly hương" và là một trong những nhân tố mới làm thay đổi bộ mặt của nông thôn truyền<br /> thống.<br /> <br /> - Bên cạnh những hộ có nghề, ở nông thôn gần đây xuất hiện nhóm hộ chuyên buôn bán dịch vụ. Nhóm này<br /> thường là những gia đình trẻ, năng động, trình độ tiếp thị cao, có năng lực kinh doanh buôn bán. Trong nhóm<br /> này cũng có sự phân hóa : một số hộ ở những vùng kinh tế hàng hóa phát triển, nhờ nắm bắt được cơ hội ( nhiều<br /> khi là vận may) giàu lên một cách nhanh chóng nhờ buôn bán. Một số hộ khác buôn bán ở quy mô vừa và nhỏ<br /> kết hợp dịch vụ như các hộ ở dọc đường quốc lộ chính. Nhóm này mới chỉ có khoảng 2% đến 8% tùy thuộc vào<br /> hoàn cảnh và vùng cư trú của từng địa phương.<br /> <br /> Một trong những đặc điểm cơ bản của mỗi nhóm phi nông nghiệp là thu nhập bấp bênh, tùy thuộc vào sự<br /> biến động của thị trường nói chung. Vì vậy nhóm hộ này vẫn mang nặng tâm lý vừa làm vừa nghe ngóng, cầm<br /> chừng. Quy mô sản xuất nhỏ. Ngoài ra việc sản xuất kinh doanh của nhóm này phụ thuộc nhiều vào các chính<br /> sách vĩ mô của nhà nước. Thí dụ như ở nhiều nơi khi nói đến thuế, thái độ của người dân chưa thật hài lòng với<br /> chính sách thuế hiện nay.<br /> <br /> Đối với số hộ phi nông nghiệp ở Quỳnh Lôi (năm 1992 - Thái Bình) thì thuế là một vật cản , chừng nào đó<br /> đã ngăn cản không cho các hộ gia đình dám đầu tư vào sản xuất, thuế làm cho các công ty trách nhiệm hữu hạn<br /> không dám thành lập.<br /> <br /> Nhóm thứ hai : Nhóm kinh doanh tổng hợp (nhóm kết hợp)<br /> <br /> Với chủ trương "ai giỏi việc gì làm việc đó", với xu hướng đa dạng hóa ngành nghề hiện nay, một bộ phận<br /> dân cư nông thôn đã chọn mô hình kinh doanh tổng hợp để giải quyết dư thừa lao động tại chỗ, nhằm làm thêm<br /> ngành nghề phi nông nghiệp để có thêm thu nhập tạo điều kiện làm giàu nhanh. Trong số các nhóm thuộc cơ cấu<br /> sản xuất ở nông thôn, nhóm có cơ cấu đa dạng và phức tạp hơn cả. Kết quả điều tra trong những năm gần đây ở<br /> đồng bằng Bắc Bộ cho thấy có rất nhiều mô hình nhỏ khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của từng<br /> vùng, từng làng, xã và từng hộ. Tại Hải Vân (năm 1990).<br /> <br /> - Có 51,2% số hộ sản xuất ruộng khoán kết hợp VAC và 1 việc làm phi nông nghiệp.<br /> <br /> - 24,39% số hộ : ruộng khoán + VAC + 2 việc làm phi nông nghiệp.<br /> <br /> - 6,82% ruộng khoán + VAC + 3 việc làm phi nông nghiệp.<br /> <br /> - 4,39% số hộ không có VAC nhưng có làm ruộng khoán + 2 việc làm phi nông nghiệp.<br /> <br /> - 0,4% số hộ không nhận ruộng khoán nhưng có làm VAC và 1 việc làm phi nông nghiệp.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> 22 Và nét về thực trạng và xu hướng chuyển đổi ...<br /> <br /> <br /> Số còn lại là nhóm hộ thuần nông (9,16%). rõ ràng tại Hải Vân nhóm kết hợp chiếm ưu thế 1<br /> <br /> Tính đa dạng của mô hình kết hợp tùy thuộc vào quy mô ruộng khoán, có hoặc không có đất vườn, đất % đất<br /> làm màu và ao, có hoặc không có chăn nuôi (lợn, gà, trâu, bê ngan, ngỗng, đặc sản...) tùy thuộc vào kiểu loại gia<br /> đình là hạt nhân hoặc mở rộng, số nhân khẩu và số lao động trong độ tuổi hoặc trên dưới độ tuổi, giới tính, trình<br /> độ học vấn, năng lực và trình độ lao động, tùy thuộc vào vốn sản xuất, có hoặc không có các phương tiện sản<br /> xuất ở trình độ thô sơ, hiện đại khác nhau... mà mỗi hộ (hoặc nhóm hộ) đã đi đến một cách tổ chức lao động và<br /> tìm các việc làm không hoàn toàn giống nhau. Như vậy mô hình kinh tế gia đình trở thành mô hình mà ở đó bắt<br /> đầu diễn ra sự cơ - cấu - lai lực lượng lao động xã hộ dưới hình thức, quy mô và tính chất khác nhau.<br /> <br /> Theo mô hình của Đa Tốn ( Gia Lâm, Hà Nội) ta thấy lực lượng lao động xã hội được cơ cấu lại dưới hình<br /> thức gia đình, chủ yếu dựa vào khai thác ruộng khoán. Từ đó được phân bố, sử dụng thích hợp trên mô hình<br /> VAC và chuyển sang các việc làm hoặc nghề phi nông nghiệp. Nhiều người cho rằng đặc trưng này phản ánh xu<br /> thế đa dạng hóa nông nghiệp vi phi nông nghiệp hóa đang diễn ra như tại Đa Tốn, và nhiều làng xã tại đồng<br /> bằng Bắc Bộ. Mặt khác trong điều kiện phát triển sản xuất hàng hóa hiện nay, xu thế đó phản ánh sự lại hậu của<br /> nền nông nghiệp hóa tại chỗ (công nghiệp nông thôn chưa phát triển), cho nên mọi việc làm (không có tính chất<br /> nghề) phi nông nghiệp ở nông thôn trong bối cảnh hiện nay chưa nhằm giải quyết lao động dư thừa và tăng thêm<br /> thu nhập ở mức độ "lấy công làm lãi" mà thôi. Tuy nhiên, có thể thấy rằng sự cơ cấu lại lực lượng lao động theo<br /> mô hình này-bước đất đã tạo ra những chênh lệch đáng kể trong thu nhập giữa các loại hộ hoặc giữa các nhóm<br /> hộ góp phần thúc đẩy, một bước (dù là chậm chạp) sự phát triển các năng lực sản xuất hàng hóa bên trong làng<br /> xã. Sự cơ cấu lại lực lượng lao động trong chính tự thân mỗi gia đình đi và đây chính là sự mày mò tìm kiếm mô<br /> hình kinh tế tối ưu phù hợp với cơ chế đổi mới hiện nay trong tình trạng các hộ gia đình chưa thể tách khỏi sản<br /> xuất nông nghiệp. Theo kết quả điều tra (Hải Vân 1990) cho thấy 51,2% số hộ có thêm 1 việc làm phần lớn đều<br /> là hộ gia đình hạt nhân (gồm vợ - chồng là lao động chính) trong đó thường 1 người làm thêm 1 việc phi nông<br /> nghiệp như chạy chợ, thợ mộc, hoặc họ làm tại chỗ hoặc họ đi làm nơi khác theo kiểu con thoi. Tại xã Tam Sơn<br /> (tiên Sơn, Hà Bắc trong những năm đổi mới) mô hình này đang được thịnh hành, đa phần các bà vợ ở nhà làm<br /> ruộng khoán, chồng đi xây dựng, làm thuê như cưa xẻ gỗ hoặc đi ra thành phố (chủ yếu là Hà Nội) kiếm việc<br /> làm tạo nên "thị trường sức lao động" tự phát cũng nằm trong mô hình này.<br /> <br /> - Số hộ có từ 2 đến 3 việc làm gồm những gia đình hạt nhân và gia đình mở rộng trong đó có từ 2-4 hoặc 3-5<br /> lao động chính, có vốn sản xuất.<br /> <br /> Theo số liệu điều tra cho thấy, hiện nay số lao động được thu hút với số lượng lơn vào 5 loại việc làm thuộc<br /> các nghề truyền thống của nông thôn Bắc Bộ. Đó là : cưa xẻ mộc, nề, chạy chợ và buôn bán dưới hình thức<br /> thương nghiệp nông thôn, Tỷ lệ hộ như sau so với mẫu điều tra ở các mô hình lao động: việc làm cưa xẻ gỗ :<br /> 28,76% (61/205) ; mộc: 18,04%<br /> <br /> <br /> <br /> 1<br /> . Theo khảo ít nhanh của Viện Xã hội học (1994) mô hình này được tiếp tục nhân rộng và đem lại hiệu quả cao cho<br /> các hộ gia đình<br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Lê Phượng 23<br /> <br /> <br /> xét dưới góc độ giới tính thì trong số 63,58% số hộ làm việc trong nghề cưa xẻ gỗ, mộc, nề đa phần là nam giới<br /> và có độ tuổi từ 20-35 còn lại 36,41% số hộ lao động chạy chợ buôn bán là phụ nữ độ tuổi trung bình 20-35.<br /> Như vậy những việc làm trên đây đã được cơ cấu lại trên cơ sở phân định vai trò theo giới tính nam nữ hoặc<br /> giữa vợ - chồng và ở một độ tuổi nhất định. Nam giới chủ yếu tham gia vào những lao động hướng ngoại, di<br /> động vùng và tìm việc làm theo thời vụ hoặc cả năm ở thị trường vùng hoặc ngoài vùng. Nữ giới (hoặc vợ) ở độ<br /> tuổi tương ứng chủ yếu lao động hướng nội, có vai trò chính trong lao động hướng nghiệp, trông nom việc nội<br /> trợ và kết hợp nghề (việc làm) phi nông nghiệp để tăng thu nhập những lúc nông nhàn là chính. Tình trạng thiếu<br /> hụt việc làm tại chỗ, và sức ép về dân số ở nông thôn đã dẫn tới các hiện tượng "điều tiết" lao động tự phát nói<br /> trên ở quy mô gia đình.<br /> <br /> Một mô hình điển hình khác đáng lưu tâm là mô hình xã Ninh Hiệp. Vào năm 1993 Ninh Hiệp (Gia Lâm,<br /> Hà Nội) được xem là một xã giàu có nhất đồng bằng Bắc Bộ, có năng lực tiếp cận thị trường nhanh nhạy, hiệu<br /> quả vào bậc nhất ở nông thôn Việt Nam hiện nay. Theo báo cáo của lãnh đạo xã Ninh Hiệp, diện tích tự nhiên<br /> của xã 550 ha, diện tích canh tác 350 ha, dân số cho đến tháng 9-1992 là 11.800 người, 4.100 lao động (3.800<br /> lao động nông nghiệp + 300 lao động phi nông nghiệp), 2.100 hộ gia đình trong đó hộ thuần nông 470 (22,4%)<br /> hộ phi nông nghiệp 300 (14,295) hộ kinh tế tổng hợp 1.330 (63,3%). các phương thức kinh doanh tổng hợp như<br /> sau :<br /> <br /> - Nông nghiệp + tiêu thủ công nghiệp : 390 hộ (29,35)<br /> <br /> - Nông nghiệp + buôn bán dịch vụ : 660 hộ ( 49,6%)<br /> <br /> - Nông nghiệp + chế biến nông sản : 280 hộ ( 13,3%)<br /> <br /> <br /> Phân tầng mức sống giữa các hộ gia đình như sau :<br /> <br /> - Hộ giàu : 450 (21,4%) thu nhập 200 triệu đồng/năm<br /> <br /> - Hộ khá : 35% thu nhập 50 triệu đồng/năm<br /> <br /> - Hộ trung bình 50% thu nhập 20 triệu đồng/năm<br /> <br /> Còn lại số hộ thu nhập 20 triệu đồng/năm thuộc diện hộ nghèo, nhóm này chủ yếu nằm trong mô hình thuần<br /> nông, nghèo do thiếu vốn, thiếu năng lực, lười và đông con. Nếu đối chiếu với tiêu chuẩn hộ nghèo thu nhập<br /> 20kg gạo/tháng thì Ninh Hiệp không còn hộ nghèo. Hiện nay chỉ còn 39 hộ thật sự khó khăn thu nhập cũng tới<br /> 80.000đồng/tháng<br /> <br /> Tại Ninh Hiệp từ năm 1986 đến năm 1995, bình quân thu nhập toàn xã đạt tới 500 triệu đồng/năm, trong đó<br /> thu nhập từ nông nghiệp chỉ chiếm 10% tổng thu nhập. Chế biến nông sản, dược liệu chiếm 40%. Nghề thủ công<br /> nghiệp từ 20-30% còn lại là nghề buôn bán dịch vụ 20-25%.<br /> <br /> Nhóm thứ ba : Đó là các hộ thuần nông nghiệp. Loại hộ này còn chiếm tỷ lệ rất cao ở hầu hết các vùng làng<br /> xã đồng bằng Bắc Bộ. Ở xã Xuân Sơn (Đông Triều, Quảng Ninh) theo số liệu điều tra xã hội học năm 1993<br /> trong số 200 hộ thì có tới 166 hộ thuần nông chiếm 82,6% các hộ trong mẫu. Ở xã Đông Dương (Đông Sơn<br /> Thái Bình - 1992) số hộ thuần nông là 48,2%. Tỷ lệ thuần nông ở Tam Sơn (Tiên Sơn - Hà Bắc 1993) lên tới<br /> 98%. So với các loại hộ nói trên, hộ thuần nông có thu nhập thấp, trì trệ và mang nặng mô hình kinh tế truyền<br /> thống tự cung tự cấp. Tỷ lệ các hộ nghèo, rất nghèo ở các xã, hợp tác xã đa phần đều rơi vào<br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> 24 Vài nét về thực trạng và xu hướng chuyển đổi ...<br /> <br /> <br /> các hộ thuần nông. Tuy nhiên trong tinh thần đổi mới của cả xã hội bản sắc của các nhóm hộ thuần nông cũng<br /> đã có sự chuyển biến, mặc dù rất chậm chạp trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cố gắng để có được nguồn<br /> thu ngày càng cao hơn. Nhiều nơi đã kết hợp thành công mô hình VAC, hoặc như ở Nam Thanh, Hải Hưng<br /> (1994) đã nổi lên phong tào nuôi trồng cây con đặc sản - với mô hình đòi hỏi phải có sự chuyên môn hóa sâu<br /> sắc, có trình độ hiểu biết về thị trường, nghề, và tỉ ước hết phải có vốn. Chính vì vậy không phải hộ thuần nông<br /> nào cũng có thể làm được, mà chỉ có một tỷ lệ rất nhỏ dám làm và họ đã làm rất thành công.<br /> <br /> II. Mức độ phi nông nghiệp hóa<br /> <br /> Theo kết quả điều tra ở các xã trong mẫu đại diện sự tăng trưởng của nghề thủ công từ năm 1981 đến năm<br /> 1989 tăng tử 27,3% lên 45,2% tại xã Xuân Sơn. Những từ năm 1989 đến năm 1993 thì nghề thủ công không<br /> những không phát triển mà còn bị giảm đi gần một nửa. Tình trạng này cũng xảy ra trương tự ở một số xã như<br /> Hà Bắc hoặc Thái Bình, ở những nơi này những nghề thủ công truyền thống như dệt vải, xe đay trong những<br /> năm hợp tác xã còn tồn tại, do không cạnh tranh nổi, thiếu thị trường tiêu thụ đã bị mai một và bị lãng quên., Số<br /> liệu thống kê cho thấy ở nước ta thủ công nghiệp nông thôn phát triển chậm, thậm chí còn giảm sút. Năm 1981<br /> có 16.181 cơ sở với 435.400 lao động, nhưng đến(năm 1987 chỉ còn 15.855 cơ sở với 381.300 lao động. Tại<br /> Xuân Sơn và một số nơi khác, trong vùng nghề phát triển mạnh nhất hiện nay là nghề buôn bán và dịch vụ. Nếu<br /> xem xét trên tổng thể thì trước năm 1980 có 14,7% tổng số hộ làm nghề phi nông nghiệp, giai đoạn năm 1981<br /> đến năm 1988 có 16,7% và năm 1988 đến 1993 có 67,6%. Rõ ràng nghị quyết 10 của Bộ chính trị là yếu tố quan<br /> trọng thúc đẩy mức độ phi nông nghiệp hóa ở nông thôn.<br /> <br /> Tại xã Đông Dương (Đông Hưng - Thái Bình) tình hình cũng xảy ra tương tự, mức độ tăng trưởng của nghề,<br /> việc làm phi nông nghiệp từ năm 1989 đến năm 1992 cao hơn hẳn các giai đoạn khác (61,4%).<br /> <br /> Nếu xem xét mức độ phi nông nghiệp hóa so với điều kiện sản xuất hàng hóa hiện nay, ở đồng bằng Bắc Bộ<br /> còn chậm, cũng tại Đông Dương mỗi năm tăng chưa tới 3%. Ngành nghề tiêu thủ công nghiệp phát triển bấp<br /> bênh. Nghề buôn bán dịch vụ ở quy mô nhỏ, mức độ tham gia đa phần còn tập trung vào lúc nông nhàn, còn có<br /> tích chất "lấp chỗ trống" tận dụng lao động dư thừa. Chính vì vậy khi xem xét các tương quan thu nhập của<br /> nhóm kinh doanh tổng hợp và các nhón khác tuy có trội hơn nhưng chưa đáng kể. Một điều đáng chú ý, trong cơ<br /> chế mới hiện nay đa phần các gia đình có làm thêm các hoạt động ngành nghề phi nông nghiệp đều tự làm lấy là<br /> chính - vai trò của nhà nước và hợp tác xã vô cùng mờ nhạt. Tại xã Xuân Sơn có 79,4% hộ cho biết tự gia đình<br /> tổ chức lấy. Trong khi đó chỉ có 17,6% do hợp tác xã tổ chức và những hộ thiếu ăn thường trông cậy vào hợp<br /> tác xã (50%). Tỷ lệ này ở xã Đông Dương cũng tương tự . Tỷ lệ gia đình tự làm lấy mà đa phần làm lấy một<br /> mình. Nói cách khác còn thiếu sự liên doanh liên kết giũa các hộ(trừ xã Ninh Hiệp) ở Xuân Sơn có 2,95, ở Đông<br /> Dương 0,7%. .Đây có lẽ là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng quy mô sản xuất hiện nay ở nông thôn còn nhỏ<br /> bé, manh mún, bấp bênh. Trong điều kiện hiện nay khi tiềm lực kinh tế của các hộ gia đình còn chưa đủ mạnh,<br /> các vốn tự có rất nhỏ nhoi thì đòi hỏi phải có sự liên kết các hộ lại với nhau. Có như vậy mới huy động được<br /> nguồn vốn, nguồn<br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Lê Phượng 25<br /> <br /> <br /> nhân lực và sự hợp tác làm ăn. Mặt khác sở dĩ chưa có sự liên kết là đa phần các hộ đang ở mức làm thêm lúc<br /> nông nhàn, số hộ khá giả làm quanh năm nghề phi nông nghiệp rất ít. Các hộ có liên kết đã ít lại tập trung chủ<br /> yếu ở nhóm nông nghiệp kiêm buôn bán dịch vụ.<br /> <br /> Một điều đáng quan tâm là tỷ lệ thu nhập từ ngành nghề ở của 3 xã đại diện còn rất bé. Thí dụ Xuân Sơn có<br /> một hộ có thu nhập từ tiểu thủ công nghiệp chiếm 3% tổng số hộ kinh doanh tổng hợp và 0,5% tổng số hộ trong<br /> mẫu đại diện. Ở xã Đông Dương số hộ có thu nhập thêm từ tiểu thủ công nghiệp là 10 hộ chiếm 6,4% tổng số hộ<br /> kết hợp và 3,3% tổng số hộ trả lời.Ngoài ra nguồn thu nhập từ buôn bán dịch vụ cũng chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng<br /> thu nhập. Thí dụ ở Xuân Sơn có một hộ thu nhập từ buôn bán dịch vụ chiếm 5%, một hộ : 8%; một hộ : 26% và<br /> tập trung chủ yếu ở làng Xuân Viên - làng nằm gần đường quốc lộ. Tại làng Cầm gần chợ có một hộ chiếm 28%<br /> và một hộ 76% tổng thu. Còn lại 3 thôn của xã Xuân Sơn không có buôn bán dịch vụ.<br /> <br /> Tại xã Đông Dương trong số 27 hộ có thu nhập từ buôn bán chiếm 9,3% tổng số người được hỏi, có 25 hộ<br /> có thu nhập từ buôn bán chiếm 1-10% tổng thu. Và chỉ có một hộ có thu nhập từ 30-70%. Ở cả ba xã những hộ<br /> buôn bán có thu nhập cao đều thuộc diện gia đình khá giả và đủ ăn. Số hộ thiếu ăn buôn bán mang tính chất<br /> hàng xén (buôn bán nhỏ) do họ không có vốn và năng lực tiếp thị kém. Hiện nay ở cả ba xã trong mẫu đại diện<br /> và một số nơi khác trong vùng đã xuất hiện một tầng lớp kinh doanh lớn : các tổng đại lý, đại lý phân bón, thuốc<br /> trừ sâu, nguyên vật liệu xây dựng, tạp phẩm... Nói chung hộ này chưa nhiều nhưng nếu có điều kiện họ có thể<br /> trở nên các công ty trách nhiệm hữu hạn. Tình hình phát triển yếu kém của ngành nghề, và quy mô buôn bán<br /> nhỏ ở nông thôn đã dẫn đến tình trạng : gọi là nhóm kinh doanh tổng hợp song thu nhập chủ yếu vẫn từ sản xuất<br /> nông nghiệp.<br /> <br /> III. Xu hướng chuyển đổi tiếp tục của các nhóm xã hội lao động nghề nghiệp.<br /> <br /> Xu hướng giảm lao động thuần nông đi liền với xu hướng tăng lao động và hộ phi nông nghiệp và hộ kinh<br /> doanh tổng hợp ở các địa phương tại đồng bằng Bắc Bộ xảy ra chậm chạp và không đều. Xu hướng áp đảo hiện<br /> nay ở nhiều nơi là mở rộng hệ thống kinh té nông nghiệp với nông nghiệp vẫn là chính : song định hướng tăng<br /> dần việc kết hợp thêm việc làm hoặc nghề phi nông nghiệp. Nhưng kể cả định hướng này vẫn còn rất nhỏ bé, đa<br /> phần ở mức “làm thêm", chỉ trừ một số làng, xã điển hình đã hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hóa cao<br /> như Ninh Hiệp, Bát Tràng.<br /> <br /> Thí dụ như Xuân Sơn xét mô hình toàn xã thì tuyệt đại đa số các nhóm nghề nghiệp đều định hướng phát<br /> triển hệ thống nông nghiệp mở rộng RK + VAC có 189 hộ chiếm 93,6% số hộ trong mẫu. Trong số đó có<br /> 99,4% số hộ thuần nông không định hướng làm thêm nghề phi nông nghiệp, chỉ có 1 hộ (0,6%) dự định làm<br /> thêm dịch vụ. 80% số hộ nông nghiệp + TTCN có định hướng thâm canh và chăn nuôi. Trong nhóm nông<br /> nghiệp kết hợp buôn bán dịch vụ chỉ có 1 hộ định hướng thâm canh + dịch vụ chiếm 3,4% tổng số hộ, còn lại<br /> định hướng phát triển hệ thống nông nghiệp mở rộng RK + VAC ( 96,6%) - cả 2 hộ nông nghiệp + cán bộ nhà<br /> nước đều dự định tiếp tục mô hình RK + VAC. Phải chăng đây chỉ là sự bế tắc hay "ngõ cụt" của các hộ gia<br /> đình nông dân nói chung. Nếu xem xét tổng thể, thì định hướng phi nông nghiệp chiếm tỷ trọng quá nhỏ : chỉ có<br /> 2 hộ (1,1%) mà lại chủ yếu làm thêm dịch<br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> 26 Vài nét về thực trạng và xu hướng chuyển đổi ...<br /> <br /> <br /> vụ + thâm canh lúa. Định hướng nông nghiệp + TTCN thì cả 4 hộ định hướng mạnh sang mô hình RK + chăn<br /> nuôi. Nếu nhìn từ góc độ "hướng phát triển kinh tế" thì trong những năm tới tỷ lệ hộ thuần nông ở Xuân Sơn<br /> không chỉ "dậm chân tại chỗ" mà có nguy cơ tăng trưởng. Đối với nhóm kinh doanh tổng hợp xu hướng đẩy<br /> mạnh kinh té nông nghiệp theo mô hình RK + VAC hoàn toàn áp đảo xu hướng tiếp tục phát triển ngành nghề +<br /> buôn bán dịch vụ.<br /> <br /> Tại xã Đông Dương tình hình cũng xảy ra tương tự : có tới 50% số hộ không có dự định phát triển sản xuất<br /> kinh doanh. Còn lại trong nhóm thuần nông có 3 hộ (4,7% có định hướng phát triển các hoạt động phi nông : 1<br /> hộ + BBDV. Trong nhóm hỗn hợp chỉ có 14 hộ (20%) có dự định làm thêm các việc phi nông nghiệp, nhưng<br /> chủ yếu vẫn là buôn bán dịch vụ. Hoàn toàn thiếu vắng các định hướng chuyển sang ngành nghề cả ở xã Đông<br /> Dương. Nếu so sánh với Xuân Sơn thì định hướng phi nông nghiệp ở xã Đông Dương tiến bộ hơn.Tỷ lệ không<br /> dự định phát triển sản xuất - kinh doanh ở Văn Môn (Yên Phong - Hà Bắc) tương đối cao, trên 40% ý kiến trả<br /> lời. Điều này chứng tỏ ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ nói chung rất nhiều hộ gia đình lúng túng, không rõ<br /> phương hướng phát triển kinh tế để tạo hiệu quả cao hơn. Số còn lại 28,7% muốn hoàn thiện hệ thống nông<br /> nghiệp mở rộng. Trong mẫu điều tra tại Hải Vân năm 1990 mức độ dự tính làm thêm ngành nghề ngoài nông<br /> nghiệp rất cao : năm 1990 : 72,55% số người được hỏi và mức độ giữ nguyên, cũng có việc làm, ngành nghề đã<br /> chọn cũng xấp xỉ 71,23% số người được hỏi. Chứng tỏ loại làng xã phi nông nghiệp hóa cao theo hướng ngành<br /> nghề đã đạt được tính ổn định tương đối của cơ cấu việc làm, ngành nghề phi nông nghiệp : đồng thời đang<br /> muốn mở mang thêm theo hướng kinh doanh tổng hợp công-nông-thương-tín. Định hướng mở mang thêm việc<br /> làm, ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn là một định hướng tiến bộ kinh tế - xã hôi, nó phù hợp nguyện<br /> vọng của đa số người lao động ở nông thôn nước ta ngày nay. Mức độ phi nông nghiệp hóa là thước đo cơ bản<br /> của tiến bộ kinh tế xã hội theo hướng chuyển sang sản xuất kinh doanh hàng hóa và cơ chế thị trường, đồng thời<br /> là thước đo quan trọng của quá trình đô thị hóa có tác dụng chế biến xã hội nông thôn nghèo nàn lạc hậu lên xã<br /> hội giàu sang, phú quý. Nhưng hiện nay mức độ phi nông nghiệp hóa ở nông thôn nước ta vẫn còn rất thấp. Đa<br /> phần các hộ gia đình nông dân, bằng cách này hay cách khác đang nỗ lực tìm lối thoát cho bản thân, nhưng<br /> dường như điều này vượt quá khả năng hiện thực của những cố gắng nỗ lực cục bộ, tự phát.<br /> <br /> Như trên đã nêu ở cả 3 xã trong mẫu đều điện tỷ lệ hộ không có định hướng kinh doanh sản xuất rất lớn, vì<br /> vậy, chúng ta xem xét lý do không có dự định phát triển để thấy rõ thêm những khó khăn, hạn chế trong chuyển<br /> đổi cơ cấu xã hội lao động nghề nghiệp.<br /> <br /> Tại xã Xuân Sơn : có 53% số hộ không dự định phát triển kinh doanh sản xuất do thiếu vốn, 25% thiếu lao<br /> động và còn lại thiếu kinh nghiệm, không có ai hướng dẫn. Đặc biệt số hộ không có dự định phát triển kinh<br /> doanh này chủ yếu tập trung ở nhóm hộ thuần nông 91,7% , chỉ có 1 hộ ở nhóm nông nghiệp + TTCN (lý do<br /> thiếu vốn)<br /> <br /> Xã Đông Dương : trong 167 ý kiến trả lời không có dự định phát triển sản xuất-kinh doanh (55,5%) thì có<br /> đến 141 ý kiến trả lời chẳng có lý do nào cả (83,8%) chứng tỏ số hộ gia đình ở đây bế tắc thật sự trong việc lựa<br /> chọn cơ cấu xã hội lao động - nghề nghiệp đưa lại<br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br /> Lê Phượng 27<br /> <br /> <br /> hiệu quả kinh tế cao hơn. Tình trạng "lực bất tòng tâm" có phần nặng nề hơn so với xã Xuân Sơn. Số còn lại các<br /> ý kiến trả lời cho biết : 1 do thiên tai, sâu bênh gây ra : 156 (51,8%), thiếu vốn : 130 (43,2%), thiếu đất canh tác:<br /> 117 (38,8%), không tiêu thụ được sản phẩm : 12 (3,99%)v.v... Trong số này có 93 (30,9%) hộ gặp 2 khó khăn,<br /> 106 (35,22%) gặp 3 khó khăn...<br /> Ở xã Văn Môn, thiếu vốn đứng đầu báng về khó khăn, trở lực phát triển sản xuất- kinh doanh : 86(28,7%)<br /> tiếp đó là thuế cao : 21 (7%), thiếu công cụ sản xuất (6,3%), giá cả không ổn định (5,7%).<br /> KẾT LUẬN<br /> Cần tiếp tục giảm mạnh hơn nữa cơ cấu xã hội thuần nông để giải phóng sức lao động và tăng năng suất lao<br /> động ở nông thôn.<br /> Đồng thời với việc giảm mạnh cơ cấu thuần nông là đẩy mạnh sản xuất theo hướng chuyên môn hóa, đa<br /> dạng hóa ngành nghề ở nông thôn.<br /> Các địa phương phải có kế hoạch cụ thể sớm tìm ra thị trường để khôi phục lại nghề thủ công truyền thống<br /> và mở ra nhiều nghề để thu hút một lực lượng thuần nông nhằm thay đổi lối cơ cấu nghề nghiệp xã hội phù hợp<br /> với nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, muốn ngành nghề ở nông thôn được phát triển đòi hỏi phải có sự<br /> hợp tác của nhiều ngành : ngân hàng, thương nghiệp, xuất nhập khẩu... Nói cách khác phải sớm tìm ra những cơ<br /> chế thích hợp để gắn bó các ngành với nhau giúp nhau để cùng nhau tiến lên về lâu về dài,chứ không phải tách<br /> rời nhau "mạnh ai nấy chạy".<br /> Quy mô sản xuất của kinh tế hộ (kể cả 2 nhóm ) như hiện nay còn quá manh mún, mang nặng tính tự cung<br /> tự cấp truyền thông. Tìm ra những hình thức hợp tác, liên doanh liên kết các hộ gia đình mới đủ vốn, đủ nhân<br /> lực để có thể mở rộng sự phân công lao động và đi vào sản xuất chuyên môn hóa. Nếu làm được như vậy thì<br /> lượng nông sản hàng hóa sẽ được phát triển mạnh.<br /> Để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển nông sản hàng hóa, đa dạng hóa ngành nghề ở<br /> nông thôn, đòi hỏi đổi mới tổ chức sản xuất và kinh doanh nông nghiệp, việc hình thành đội ngũ các nhà doanh<br /> nghiệp trẻ ở nông thôn, những người sản xuất và kinh doanh nông nghiệp đáp ứng được đòi hỏi ngày một tầng<br /> của nền sản xuất hiện đại cũng đang là vấn đề cần được đặt ra.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2