intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 _2

Chia sẻ: Lulu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

99
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hai mươi năm (1954-1975) là một đoạn đường dài đối với lịch sử đương đại cũng như với văn chương Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 _2

  1. Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975
  2. Hai mươi năm (1954-1975) là một đoạn đường dài đối với lịch sử đương đại cũng như với văn chương Việt Nam. Trên một nửa đất nước tính từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, một giai đoạn văn học với nhiều đặc điểm khác biệt so với trước và sau đó đã tồn tại và phát triển. Xét về khía cạnh lịch sử là một phần không thể tách rời của văn học dân tộc. Việc tìm hiểu, đánh giá thành tựu và khuynh hướng vận động của văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 không chỉ là nhiệm vụ của văn học sử, mà còn là công việc quan trọng đầu tiên để tiến hành mọi cuộc khảo sát, nghiên cứu, nhận định về các vấn đề có liên quan trong phạm vi bao quát của nó. Tác giả bài viết mong muốn thông qua việc giới thiệu vài nét về đội ngũ tác giả, tác phẩm văn xuôi và đời sống văn chương đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 (qua khảo sát từ những tư liệu đã có), sẽ nhận được sự chia sẻ, quan tâm từ người trong giới nghiên cứu văn học. I. Về tác giả Năm 1973, trong cuốn Văn học và tiểu thuyết của Doãn Quốc Sỹ, có bản thống kê gọi là "Đồ biểu văn xuôi Việt Nam"(1), tác giả ghi tên khoảng 50 tác giả văn xuôi ở miền Nam giai đoạn từ 1954 đến 1973 cùng với các tác phẩm tiêu biểu của họ (bao gồm tác phẩm thuộc thể "truyện" và cả các công trình khảo cứu văn hóa, lịch sử). Năm 1987, trong cuốn Hai mươi năm văn học miền Nam, 1954- 1975 (Phần tổng quan) của Võ Phiến, ở phần thống kê cuối sách, người đọc tính được 267 tác giả trong đó hơn hai phần ba là tác giả văn xuôi(2).
  3. Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá trong tác phẩm Nhìn lại một chặng đường văn học đã qua, riêng trong phần tuyển chọn tác phẩm của các cây bút có xu hướng "tiến bộ, yêu nước" ở vùng đô thị miền Nam, đã đưa ra đến 60 tác giả văn xuôi(3). Những con số nói trên dù không hoàn toàn chính xác nhưng cũng là một cơ sở để người đọc hình dung về lực lượng đông đảo những người viết văn, làm báo ở miền Nam giai đoạn trước 1975. So sánh với đội ngũ nhà văn thời tiền chiến từ 1913 đến 1945 trong cuốnNhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh cũng cho rằng số lượng các tác giả văn xuôi giai đoạn sau 1954 ở miền Nam rất lớn, lên tới 200 người(4). Ngoài đặc điểm về số lượng, đội ngũ cầm bút còn đa dạng về thành phần, nghề nghiệp và khác nhau trong quan niệm sáng tác. Nhiều nhất trong số họ là làm báo và dạy học. Từ 1954, trong số những người từ miền Bắc di cư vào Nam, có nhiều nhà văn, nhà thơ. Một số tác giả đã viết trước đó và tiếp tục sáng tác như Nhất Linh, Vũ Bằng, Vi Huyền Đắc... trong khi nhiều người bắt đầu sự nghiệp văn chương tại miền Nam như Thanh Tâm Tuyền, Lê Tất Điều, Dương Nghiễm Mậu, Duyên Anh, Doãn Dân... Hoạt động của họ trên văn đàn ở giai đoạn đầu có tác dụng kích thích, gây hào hứng cho bầu không khí sáng tác chung; làm cho đội ngũ viết văn, làm báo của miền Nam đông đúc hơn, đa dạng hơn, nhiều thành phần và phức tạp hơn. Thế hệ những nhà văn miền Nam sau thời của Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức... hồi đầu thế kỷ; và sau thời kháng chiến chín năm của Mai Văn Bộ, Lý Văn Sâm, Vũ Anh Khanh, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà... là Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Lê Vĩnh Hòa, Viễn Phương, Hà Huy Hà, Vân Trang...
  4. Còn có sự tham gia của nhiều tên tuổi khác từ miền Trung như Vũ Hạnh, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Minh Quân, Nguyễn Mộng Giác... Họ là những người đã từng tham gia kháng chiến, những người có cảm tình với kháng chiến hoặc chỉ có tình yêu văn chương và tinh thần dân tộc... Bên cạnh lực lượng sáng tác là những nhà lý luận, nghiên cứu, phê bình, khảo cứu văn hóa mà hoạt động của họ có tác động đến sự phát triển văn học như Nguyễn Hiến Lê, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung, Thanh Lãng, Lữ Phương, Đặng Tiến, Võ Phiến, Nguyễn Nhật Duật, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh... Bên cạnh những cây bút có quá trình hoạt động văn chương xuyên suốt nhiều thời kỳ là lớp nhà văn trẻ xuất hiện từ sau 1964 như Hồ Minh Dũng, Nguyễn Mộng Giác, Trần Hoài Thư, Lê Văn Thiện, Hoàng Ngọc Tuấn, Từ Kế Tường, Mường Mán, Ngụy Ngữ, Trần Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn, Nguyễn Mai, Dương Uẩn, Cung Tích Biền, Đinh Tiến Luyện, Du Tử Lê, Thế Vũ... Họ đã trẻ hóa và làm linh hoạt, nhộn nhịp các diễn đàn văn xuôi. Một hiện tượng văn học cũng được dư luận quan tâm là sự xuất hiện của một số nhà văn nữ như Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị NgH... So với những nhà văn cùng phái với họ như Bà Tùng Long, Nguyễn Thị Vinh, Ái Lan, Linh Bảo, Vân Trang, Minh Quân, Mộng Trung...; sáng tác của các cây bút nữ nói trên thực sự mới mẻ về giọng điệu, ngôn từ; đặc biệt là việc khai thác và thể hiện các yếu tố tình dục, bản năng, lối sống hiện sinh. Võ Phiến tính rằng số lượng nữ văn, thi sĩ mới chỉ chiếm "17 phần trăm" và "Nam phái chỉ kịp trông thấy một viễn tượng thua sút, chứ kỳ thực chưa nếm mùi thua sút"(5), nhưng cũng chính tỷ lệ này cho thấy sự thay đổi, phá cách trong văn chương của các nhà văn nữ được chú ý nhiều hơn so với nam văn sĩ.
  5. Trước đây, văn chương, báo chí cũng chỉ phát triển ở các đô thị lớn, nay hoàn cảnh chiến tranh càng khiến Sài Gòn thành nơi qui tụ các nhà văn, nhà thơ. Chỉ có một số ít tác giả vì việc làm, vì hoàn cảnh gia đình... mới sống ở các thành phố nhỏ hoặc một số nơi khác. Gần gũi nhau và cùng một môi trường sáng tác nên các nhà văn thuận lợi trong việc giao lưu, học hỏi lẫn nhau nhưng cũng dễ dẫn đến một hệ quả là trùng lặp về đề tài, giống nhau về giọng điệu, câu chữ... Điểm khác biệt của đội ngũ tác giả văn xuôi miền Nam giai đoạn trước 1975 không phải là ở "thế giá" thấp, là nỗi "cô đơn" vì thiếu chỗ dựa mà có thể là do ý thức hệ hoặc do môi trường hoạt động văn hóa nghệ thuật thay đổi. So với trước, sự phân hóa về tư tưởng chính trị, về nhận thức xã hội trong các nhà văn diễn ra quyết liệt hơn, thậm chí dẫn đến nhiều quan điểm cực đoan. So với trước, hoạt động sáng tạo văn hóa nghệ thuật đa dạng, sôi động hơn và sự "cạnh tranh" nhau ngang bằng, tự do, không xếp hạng khiến cho nhà văn khó có ngôi thứ và sự trọng vọng trong lòng công chúng. Dù muốn dù không, người viết cũng phải đối diện với nhu cầu cơm áo, vòng quay cơ chế thị trường, những xáo trộn về chính trị và hoàn cảnh không bình thường thời chiến tranh. Tác phẩm chính là biểu hiện cụ thể nhất tư tưởng, tài năng hay quan niệm về văn chương của họ. II. Về tác phẩm Văn xuôi giai đoạn 1954-1975 ở các vùng đô thị miền Nam vượt trội hơn so với thơ cả về số lượng lẫn chất lượng nhất là ở các thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, tạp bút... Tạ Tỵ viết hai tập Mười khuôn mặt văn
  6. nghệ hôm nay giới thiệu sự nghiệp văn nghệ và tác phẩm của 20 nghệ sĩ mà ông cho là thành đạt nhất ở miền Nam, trong đó có tới 13 tác giả văn xuôi, chiếm gần hai phần ba(6). Cho tới nay chưa có một công trình nào thống kê đầy đủ các tác phẩm văn xuôi giai đoạn này, nhưng cũng có thể hình dung sơ bộ qua một vài ước tính. Tạp chí Bách Khoa là một tạp chí nửa tháng một kỳ, nội dung là phổ biến kiến thức chung về văn hóa nghệ thuật, kinh tế, chính trị..., là tạp chí sống "thọ" nhất ở miền Nam - tới 18 năm! Cũng như những tờ báo và tạp chí khác, Bách Khoacó dành một số trang cho văn học trong đó có văn xuôi. Từ số đầu tiên ra ngày 15/01/1957 đến số cuối cùng là số 426 ra ngày 19/4/1975, ước tính có hơn 600 truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, tùy bút, tiểu luận... của nhiều tác giả, đã được in trên Bách Khoa. Trên tập san Văn do ông Nguyễn Đình Vượng chủ trương, con số trên còn tăng gấp đôi, gấp ba vì mục đích tập san này chỉ là in tuyển, giới thiệu tác phẩm văn, thơ. Một tạp chí khác hoạt động ngắn ngủi, chỉ trong vòng hơn hai năm từ 1970 đến 1972 như tờTrình Bày (Tạp chí Văn hóa - Chính trị - Xã hội) trong 42 số đã đăng khoảng gần 80 truyện ngắn, trung bình gần 2 truyện trên một số. Có thể dẫn chứng thêm, như nhà văn Bình Nguyên Lộc có khoảng 1000 truyện ngắn và nhiều tiểu thuyết, truyện dài khác(7); như học giả Nguyễn Hiến Lê tính đến năm 1975, có đúng 100 đầu sách các loại đã được xuất bản(8)... Tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1954-1975 phát triển dồi dào về số lượng, nguyên nhân chính là do tác động của báo chí và hoạt động của các nhà xuất bản. Vũ Bằng trong Bốn mươi năm nói láo tính rằng riêng tại Sài Gòn vào thời điểm tháng chạp năm 1963 có đến 44 tờ nhật báo(9). Đến tháng 4 năm 1975, con số này chắc chắn còn tăng lên. Đó là chưa kể các loại báo tuần, báo tháng, tạp chí, tập san và đủ các loại in tuyển khác. Võ Phiến cũng cho rằng Sài Gòn trước 1975 "... đã có cả nghìn nhà in, 150 nhà xuất bản. Những nhà xuất bản như Sống Mới, Khai Trí, Trường Thi, Nguyễn Đình Vượng, Trí Đăng..., những nhà phát hành như Thống Nhất,
  7. Nam Cường, Đồng Nai, Á Châu..., mức hoạt động của họ chắc chắn các đồng nghiệp thời tiền chiến không thể nào sánh nổi..."(10). Phần lớn tác phẩm trước khi in thành sách đều đã đăng trên báo, tạp chí; và hầu hết các loại báo và tạp chí đều có phần dành cho văn chương. Được nhiều người đọc nhất là loại tiểu thuyết nhiều kỳ đăng thường xuyên trên nhật báo (còn gọi là Feuilleton), thứ nữa là truyện ngắn, rồi tới tùy bút, đoản văn... Trong một lần trả lời phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh, nhà văn Bình Nguyên Lộc cho biết: "Vào năm 1957 thì tôi viết mỗi ngày11 feuilletons. Nhưng sau đó chính An Khê và Lê Xuyên dẫn đầu. An Khê có năm viết tới 12 feuilletons mỗi ngày, nhưng tôi chưa hề thấy ai vượt qua con số 12 nổi. Sự viết nhiều, viết ít, không do ta, cũng không do chủ báo. Đó là may mắn (hay rủi ro) ngẫu nhiên..."(11). Thị trường báo chí sôi động, lôi cuốn các nhà văn chuyên nghiệp và cả những người không chuyên vào cuộc. Kết quả là năng suất tăng nhanh, một người có thể cộng tác với nhiều báo, và một ngày có thể viết xong nhiều bài, thậm chí một truyện ngắn; nhưng chất lượng nghệ thuật của tác phẩm lại có thể tỷ lệ nghịch với số lượng vì nhiều nhà văn phải "chạy" cho kịp báo. Lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống và chủ yếu hướng tới hiện thực cuộc sống, tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã đáp ứng được khá linh hoạt nhu cầu của người đọc tại các vùng đô thị. Ở làng quê và các vùng nông thôn xa xôi, sách và báo chí chưa có điều kiện đến gần, nhưng nhiều người nông dân vì chiến tranh, vì mưu sinh phải từ giã ruộng đồng đến sống ở thành phố, hình thành nên một lớp độc giả mới của đô thị... Nếu Ngọc Linh, Ngọc Sơn trên Nhân Loại, Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới và nhiều nhật báo khác trung thành với loại tiểu thuyết dài tình cảm hay chuyện gay cấn, ly kỳ; thì Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ
  8. là trụ cột của tờ Sáng Tạo. Mai Thảo,Viên Linh, Võ Phiến, Vũ Bằng và một số người khác thường xuyên viết cho mục tùy bút, đoản văn trên tuần báo Khởi Hành, Văn, Thời Tập và các báo khác. Cũng như vậy, những bài nghị luận chính trị - xã hội của Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Lữ Phương, Nguyễn Nguyên, Nguyễn Trọng Văn... luôn là phần quan trọng trên các tạp chí Đối Diện, Tự Quyết, Đất nước, Tin Văn,Trình Bày... Hình thức dài ngắn của văn xuôi hầu như được thể hiện khá linh hoạt để tính chữ, tính trang. Trong các bài viết và công trình nghiên cứu, phê bình về văn xuôi, ông Cao Huy Khanh và nhiều người khác đều gọi chung các thể loại truyện ngắn, truyện dài cho tới tùy bút, đoản văn... bằng cái tên là "tiểu thuyết"(12). Loại tiểu thuyết dài (nhiều trang) có số lượng rất lớn, như Ngọc Linh có hơn 20 tiểu thuyết(13). Một số tác giả khác cũng có xấp xỉ con số này. Nhưng chất lượng nghệ thuật tác phẩm hầu như đều nghiêng về thể truyện ngắn, kể cả với những người viết nhiều thể loại như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Võ Hồng... Trong vòng một năm (từ 15/11/1958 đến 15/11/1959), trên tạp chí Bách Khoa, Nguyễn Ngu Í phụ trách mục "Phỏng vấn văn nghệ sĩ về truyện ngắn Việt và ngoại quốc được yêu thích nhất", sau khi lấy ý kiến từ 42/72 nhà văn, nghệ sĩ, nhà nghiên cứu được hỏi; đã tổng kết được rằng truyện ngắn Ba con cáo và Rừng mắm của Bình Nguyên Lộc chiếm tỷ lệ bầu chọn cao nhất. Thứ tự còn lại là của các tác giả khác, trong đó có Khái Hưng, Phạm Duy Tốn... của giai đoạn trước(14). Tuy nhiên bản thân Bình Nguyên Lộc lại "không đồng ý" với những người bầu chọn tác phẩm của ông. Nhà văn cho rằng: Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (tạp bút),Cuống rún chưa lìa (truyện ngắn), Tỳ vết tâm linh (truyện dài) mới là các tác phẩm hay của ông(15). Cũng xét riêng ở mảng truyện ngắn, ngoài thế hệ đi trước như Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Võ Hồng, Vũ Hạnh...; các thế hệ nối tiếp như Túy Hồng, Dương Nghiễm Mậu, Y Uyên, Hoàng Ngọc Tuấn... được đánh giá là những nhà văn xác lập được phong cách riêng và không bị trùng lặp với người khác.
  9. Trong hơn hai thập niên phát triển, sự thay đổi về số lượng và nội dung tác phẩm thấy rõ hơn những thay đổi về hình thức nghệ thuật. So với văn xuôi giai đoạn trước, giai đoạn này còn thiếu những đỉnh cao có sức tỏa sáng lâu dài như Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Chí Phèo của Nam Cao..., nhưng bù lại bề rộng cuộc sống lại được các nhà văn khai thác đa dạng hơn, tác phẩm đến được với nhiều loại công chúng hơn. Giới trí thức, học sinh, sinh viên có thể tìm đến các loại sách học làm người của Nguyễn Hiến Lê, sách truyện của Phan Du, Võ Hồng, Võ Phiến, Vũ Hạnh... Người bình dân miền Nam thích đọc nhật báo và các loại truyện của Ngọc Linh, Ngọc Sơn, An Khê, bà Tùng Long... Sách cho thiếu nhi từ đầu thập niên 60 phát triển rất nhanh về số lượng lẫn đề tài và hình thức thể hiện. Ngoài những tác phẩm đề cao lòng nhân ái, giá trị đạo đức con người của Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Minh Quân... còn có hàng loạt tác phẩm của tủ sách Tuổi Hoa gồm các loại Hoa xanh, Hoa đỏ, Hoa tím... in giấy khổ nhỏ, phổ biến cho đủ mọi lứa tuổi và các loại truyện tranh. Duyên Anh thành lập nhà xuất bản Tuổi Ngọc chuyên xuất bản sách cho thiếu nhi và ông cũng là tác giả của nhiều truyện dành cho độc giả tuổi từ 13, 14 trở lên, lứa tuổi bắt đầu thích khẳng định cá tính, sự tự do, hứng thú phiêu lưu và cả những kiểu yêng hùng mới lạ... Sách khảo cứu không chỉ dừng lại ở các đề tài tìm hiểu văn học, văn hóa cổ, các nhân vật lịch sử nổi tiếng... mà còn tập trung giới thiệu địa lý, lịch sử, văn hóa các địa phương. Được chú ý như các quyển Xứ trầm hương của Quách Tấn, Non nước Bình Định, Non nước Phú Yên của Nguyễn Đình Tư, Hương nước hồn quê của Toan Ánh... Như vậy, tác phẩm văn xuôi giai đoạn sau 1954 không chỉ giới hạn trong những đề tài "cổ điển" như nói về cuộc sống của người thành thị, trí
  10. thức, tình cảm lãng mạn, phiêu lưu hay nỗi nhọc nhằn, đói khổ của những người nghèo. Văn xuôi hướng đến tất cả mọi vấn đề từ cao cả đến thấp hèn, hướng đến mọi đối tượng từ người lớn đến trẻ em, từ giới trí thức đến người lao động, nhưng tập trung nhất vẫn là đề tài tình yêu với đủ mọi cung bậc, biến thái khác nhau. Nhiều khi vì mục đích thương mại, một số báo chí cổ động, khuyến khích cho những truyện, bài viết nói về tình dục hoặc các chuyện ghen tuông vớ vẩn, chủ yếu gợi sự tò mò của độc giả. Vũ Bằng là nhà văn có tên tuổi, nhưng bên cạnh những tác phẩm hay như Thương nhớ mười hai và một số tác phẩm khác, ông cũng có nhiều bài báo, truyện ngắn viết chủ yếu để đăng báo, ít có giá trị văn học. Mai Thảo và một số nhà văn khác cũng tương tự như vậy. Tóm lại, tác phẩm văn xuôi giai đoạn 1954 - 1975 ở vùng đô thị miền Nam là những sản phẩm hàng hóa, được làm ra trong một điều kiện lịch sử, môi trường văn hóa đặc biệt. Giá trị của nó tùy thuộc vào mục đích của người tiếp nhận nhưng sự vận động, biến đổi lại bị chi phối hết sức nghiệt ngã từ những yếu tố kinh tế, chính trị...
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2