intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975

Chia sẻ: Lulu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

160
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

III. Về các khuynh hướng và sự phát triển Xuất phát từ lập trường chính trị và tư tưởng, các nhà nghiên cứu như Phạm Văn Sĩ(16), Trần Trọng Đăng Đàn(17), Trần Hữu Tá(18)và một số người khác chia văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 (trong đó có văn xuôi) thành hai khuynh hướng: một là yêu nước, cách mạng; hai là phản động, suy đồi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975

  1. Vài nét về văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 III. Về các khuynh hướng và sự phát triển
  2. Xuất phát từ lập trường chính trị và tư tưởng, các nhà nghiên cứu như Phạm Văn Sĩ(16), Trần Trọng Đăng Đàn(17), Trần Hữu Tá(18)và một số người khác chia văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 (trong đó có văn xuôi) thành hai khuynh hướng: một là yêu nước, cách mạng; hai là phản động, suy đồi. Phạm Văn Sĩ cho rằng chính sách văn hóa thực dân mới đã tác động và làm cho văn chương đô thị miền Nam có những xu hướng biểu hiện như "văn chương chống Cộng, văn chương nhân vị, văn chương hiện sinh"(19). Cũng như tác giả Trần Trọng Đăng Đàn coi bộ phận văn học yêu nước, cách mạng là "một dòng trong giữa những dòng đục"(20), nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá phân tích đặc điểm của khuynh hướng văn học tích cực này là "gắn bó chặt chẽ với phong trào đấu tranh đô thị, với công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước", "xác lập được khuynh hướng tư tưởng - nghệ thuật nhất quán và sáng tạo nhiều phương thức hoạt động độc đáo, đa dạng", "tập họp được nhiều lực lượng viết khác nhau và hình thành nên những trung tâm đấu tranh lớn". Tác giả kết luận: "Nó là sự tiếp nối của truyền thống; nó khẳng định tư tưởng yêu nước, tinh thần tự cường dân tộc luôn là nguồn mạch chính của văn học Việt Nam…"(21). Khác với quan điểm trên, Võ Phiến cho rằng văn xuôi miền Nam vận động theo hai hướng: một là đi theo con đường truyền thống, hai là có xu hướng phản kháng lại. Dòng truyền thống bao gồm những tác giả không khác trước mấy về tư tưởng nghệ thuật lẫn quan điểm xã hội, nghĩa là vẫn phản ánh các vấn đề đạo đức, tình cảm, tâm lý... con người như các nhà văn của giai đoạn trước 1945. Ví dụ Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc... xếp vào khuynh hướng phong tục; Phan Du, Nguyễn Văn Xuân, Vũ Hạnh... có khuynh hướng xã hội; Nguyễn Mạnh Côn, Hồ Hữu Tường, Nhất Hạnh, Nguyễn Mộng Giác... thuộc khuynh hướng luận đề; Nhật Tiến, Lê Tất Điều, Võ Hồng, Doãn Quốc Sỹ... có khuynh hướng luân lý. Các khuynh hướng phản ứng lại truyền thống gồm có: "phản ứng trong suy tưởng: Thanh
  3. Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu...; phản ứng trong nếp sống: Nguyễn Thị Hoàng, Chu Tử, Nguyễn Đình Toàn, Trần Thị NgH, Lệ Hằng...; phản ứng trong bút pháp: Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Đông Ngạc...". Võ Phiến còn nhấn mạnh thêm rằng những phản ứng, chống đối nêu trên "... vượt ra ngoài phạm vi tiểu thuyết, phạm vi văn nghệ; sự chống đối ấy bao trùm cả nếp sống trong xã hội, cả nếp tư tưởng, cả phong cách con người, cả bút pháp các nhà văn như chúng ta đã thấy..."(22). Cách phân loại của Võ Phiến về đại thể vẫn dựa vào sự phân chia cũ của Vũ Ngọc Phan năm 1941 (Doãn Quốc Sỹ năm 1973 cũng phân tiểu thuyết thành 10 loại: phiêu lưu, phong tục, lịch sử, tâm lý, tả chân, hoạt kê...(23)), nhưng mặt khác lại chú trọng đề cao các hiện tượng mới và trào lưu văn học. Những biểu hiện phức tạp của đời sống văn hóa bao gồm cả sự thay đổi nhiều chiều trong "nếp sống", "nếp tư tưởng", của nhà văn, thái độ chống đối lại văn hóa "truyền thống" quả thực gây trở ngại cho việc hệ thống nên mô hình phát triển của văn xuôi giống như Vũ Ngọc Phan đã làm cho giai đoạn trước. Nhìn thẳng vào thực tiễn tồn tại của tác phẩm, tức là qua thị trường báo chí và sự tiếp nhận phổ biến của độc giả, còn có thể thấy văn xuôi miền Nam thể hiện qua các nhóm viết khác nhau, do các nhà văn cộng tác chung trong một tờ báo, tạp chí nào đó hay do gần gũi nhau về tư tưởng nghệ thuật, tư tưởng chính trị - xã hội... Nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh là người đầu tiên chia văn xuôi đô thị miền Nam ra thành những nhóm bút như: Nhóm Người Việt (và sau là Sáng Tạo) gồm Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền...;
  4. nhóm Quan Điểm có Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ...; nhóm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo, Duy Lam, Nhật Tiến...; nhóm Nhân Loại gồm Ngọc Linh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy...; nhóm Bách Khoa có Võ Phiến, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Phan Du... Thập niên 60 trở đi còn có thêm một số nhóm mới như Văn Nghệ, Khởi Hành, Thời Tập có Viên Linh, Dương Nghiễm Mậu, Cung Tích Biền...; nhóm Văn có Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Ngọc Tuấn, Mường Mán, Ngụy Ngữ...; nhóm Trình Bày, Đất Nước, Đối Diện... gồm Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Thế Vũ, Võ Trường Chinh, Trần Duy Phiên, Huỳnh Ngọc Sơn...; nhóm Tuổi Ngọc có Duyên Anh, Từ Kế Tường, Đinh Tiến Luyện...(24). Mỗi nhóm văn lại có những khuynh hướng biểu hiện khác biệt về tư tưởng hay về nghệ thuật. Các thành viên của nhóm Sáng Tạochủ trương đổi mới văn học theo hướng hiện đại hóa - đổi mới về tư duy ngôn ngữ, giọng điệu và nhất là cách thể hiện nhân vật. Trong khi đó, nhóm Văn Hóa Ngày Nay của Nhất Linh vẫn tiếp tục kiểu viết của Phong Hóa ngày xưa, nhưng khuynh hướng miêu tả tâm lý xã hội cổ điển ấy không gây được ấn tượng cho người đọc nữa. Nhóm Bách Khoa gồm các thành viên khác biệt nhau hoàn toàn về quan điểm chính trị - xã hội và phong cách viết, trong khi nhóm Nhân Loại (bao gồm cả tờ Vui Sống và nhà xuất bản Phù Sa) lại rất thống nhất trong đường lối quảng bá về con người và đặc điểm văn hóa miền Nam. Nhóm Sáng Tạo qui tụ phần lớn các nhà văn chống đối Cộng sản, công kích chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; còn những thành viên của nhóm Việt (cũng như các tờTrình Bày, Đất Nước, Đối Diện) luôn tỏ rõ thái độ kiên quyết chống Mỹ, chống lại chính quyền Sài Gòn. Có nhóm, có nhà xuất bản mang tính tôn giáo, như Tạp chí Vạn Hạnh của viện Đại học Vạn Hạnh, nhà xuất bản Lá Bối của Hòa thượng Thích Nhất Hạnh (Phật giáo), Tạp chí Đối Diện của Linh mục Chân Tín và Linh mục Nguyễn Ngọc Lan (Công giáo)... Các nhóm như Văn Nghệ, Khởi Hành,Tuổi Ngọc...
  5. có nhiều nhà văn trẻ và tác phẩm của họ cũng chủ yếu nói về lớp trẻ, xoay quanh những đề tài như tình yêu, tâm trạng cô đơn, thất vọng... Trong Hồi ký của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Hiến Lê nhận xét khái quát: "Trong hai chục năm sau Hiệp đinh Genève, văn học miền Nam phát triển khá mạnh. Về lượng, chúng ta bỏ các thời trước, về phẩm không phải là kém, nhưng có điểm đặc biệt này là không một nhóm nào có đủ uy tín, gây ảnh hưởng khá lớn trong dân chúng như nhóm Nam Phong những năm hai mươi (1920-1929) và nhóm Tự Lực những năm ba mươi (1932-1939)..."(25). Khác với ý kiến của Nguyễn Hiến Lê, trong Sơ thảo 15 năm văn xuôi miền Nam (1955-1969), tác giả Cao Huy Khanh nhận xét: "Tiểu thuyết miền Nam trong 15 năm qua đã thực sự vượt qua bên kia ranh giới của một thời văn chương đã từng huy hoàng trong quá khứ, thời văn chương gọi là văn chương Tiền Chiến..." (26). Vai trò của báo chí, của các nhóm bút đối với đời sống văn học miền Nam thập niên 50, 60 rất lớn và không chỉ dừng lại ở chỗ tạo nên sự phong phú "nhiều hình, nhiều vẻ". So với thời kỳ "huy hoàng" (1932-1945) trước đó; sự cách tân, đổi mới trong văn học không tập trung tạo thành những cuộc Cách mạng rầm rộ hay những dòng chảy mạnh lôi kéo nhiều người tham gia; nhưng sự thay đổi trong ngôn ngữ văn chương, giọng điệu, nhân vật... theo chiều hướng hiện đại, tiến bộ hơn là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, dường như cái mốc 1954 đã đưa văn chương miền Nam vốn nặng về "tải đạo" từ thời "Lục Vân Tiên", chuyển dần sang văn chương mang tính "thực dụng" theo cả hai nghĩa tích cực và tiêu cực của từ này.
  6. Diễn trình văn xuôi đô thị miền Nam trong hai mươi năm không thẳng một đường, hướng tới một đích như văn học Cách mạng mà quanh co, biến hóa khác thường... Trong thời kỳ đầu từ 1954 đến 1963, còn gọi là thời "Đệ nhất Cộng hòa" hay thời Ngô Đình Diệm, văn học mới hình thành có vẻ rất hào hứng, tràn trề hy vọng nhưng rồi nhanh chóng thất vọng. Mai Thảo và một số nhà văn từ miền Bắc vào từng rất tin vào khí thế "lên đường" của văn học mới và tưởng rằng họ sẽ gặt hái toàn những mùa "sáng tạo" bội thu: "... Ta từng đi chật đất. Ta từng có, lớp lớp. Ta từng đến, hàng hàng. Những khởi đầu của từng hoạt động văn học; từng phát động nghệ thuật nói chung của ta tuyệt đúng, tuyệt đẹp" (27). Nhưng hiện thực xã hội bi đát và hiện thực sáng tạo của Mai Thảo đã không chạy theo kịp với ý tưởng "tuyệt đẹp, tuyệt đúng" của Mai Thảo và "... Hai chữ "sáng tạo"... nghe như đượm một mùi tiếc thương dĩ vãng" (28). Không chỉ Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền mà cả Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Khắc Khoan... đều có tâm trạng chua chát ấy. Họ vẫn hoạt động, vẫn đi trên con đường văn chương nhưng đã làm rơi mất niềm tin tích cực về nó ngay sau khi khởi hành. Vấn đề còn lại là viết để mưu sinh và theo quan niệm cá nhân của mỗi người... Từ 1963 trở đi, nhất là khi M ỹ đổ quân vào miền Nam thì cả đời sống chính trị và đời sống văn chương đều biến đổi dữ dội. Nhà nghiên cứu Cao Huy Khanh nhận xét: "Sau 1963, văn chương miền Nam biến thái cùng với một mối ám ảnh thường xuyên, khốc liệt: ám ảnh chiến tranh và tất cả những gì xung quanh chiến tranh" (29). Một số nhà văn quay về quá khứ, hoài niệm cảnh sống bình yên của nông thôn ngày trước hoặc quay lưng lẩn tránh thực tại. Một số nhà văn khác lại phản ứng với hiện thực bằng cách thể hiện nhân vật trong tác phẩm có thái độ thách thức, hành
  7. động ngược lại với những qui ước đạo đức vốn sẵn có. Hàng loạt tác phẩm viết về chiến tranh ra đời. Nhưng vẫn chưa thấy có tác phẩm nào đủ tầm, đủ sức khái quát toàn bộ cuộc chiến, nhất là nói cho đúng nguyên nhân sâu xa và tác động của nó đối với người dân Việt hai miền. Giai đoạn 1968 đến 1975 là thời kỳ bi quan, khủng hoảng. Trên văn đàn hầu như chỉ thể hiện rõ hai khuynh hướng tư tưởng: một là chán nản, tuyệt vọng, phá phách; hai là chống Mỹ, đề cao dân tộc. Các báo và tạp chí thay nhau giải thể, tan rã, rồi thành lập mới, nhiều nhà văn ngừng viết, nhiều người mới nhập cuộc... Diện mạo văn xuôi nhìn chung không thay đổi nhưng đã có sự hoán vị âm thầm về đề tài, thể loại và vị trí nhà văn. Bình Nguyên Lộc từ tiểu thuyết, truyện ngắn chuyển sang biên khảo. Sơn Nam cũng vậy. Võ Phiến từ truyện đi qua tùy bút, tạp bút. Vũ Hạnh lấn hẳn sang lý luận, phê bình. Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Trần Hoài Thư... vào "quân ngũ" và chủ yếu viết về đề tài chiến tranh. Nhã Ca từ thơ chuyển sang nổi tiếng ở lãnh địa văn xuôi với những tác phẩm như Đêm nghe tiếng đại bác, Dải khăn sô cho Huế, Tình ca cho Huế đổ nát... Lê Xuyên, Chu Tử... thu hút độc giả trẻ bằng những tiểu thuyết trộn lẫn tình yêu bản năng, trụy lạc với lối sống hiện sinh... Văn xuôi đã biến đổi, đã đi qua các đoạn đường thăng trầm của thời cuộc, thay đổi từ đội ngũ tác giả đến những tác phẩm truyện, ký sự, tiểu luận... Võ Phiến cho rằng sự thay đổi này "... không phải là sự thay thế những cái tên suông, mà là sự thay thế cả một chiều hướng tinh thần..."(30). Lữ Phương gọi đó là hệ quả tất yếu từ "cuộc xâm lăng về văn hóa và tư tưởng của đế quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam" (31). Căn cứ vào mục đích sáng tác và thực tiễn tiếp nhận tác phẩm của người đọc, có thể phân biệt văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975
  8. ra làm ba thành phần: Thứ nhất - loại tác phẩm giải trí đơn giản (thường dành cho độc giả bình dân); thứ hai - loại tác phẩm hướng đến các giá trị tư tưởng hay đạo lý truyền thống; thứ ba là những tác phẩm mang tính trào lưu hướng đến những cách tân, đổi mới về nghệ thuật. Sự phân chia này dĩ nhiên không phải là những nhát cắt rạch ròi, xác định bởi văn chương nghệ thuật vốn phức tạp và một tác phẩm vẫn có thể đi theo nhiều mục tiêu khác nhau. Bản thân đời sống văn chương phong phú cũng đã phản ảnh nhu cầu thưởng thức và cảm thụ văn chương rất đa dạng của người đọc. Tuy nhiên nếu đặt tác phẩm văn học trong dòng chảy lịch sử có kế thừa và đổi mới; chúng ta cũng có thể nhận ra sự thay đổi của văn xuôi theo các xuất xứ văn hóa: Nhóm các nhà văn di cư, vào Nam vẫn mang theo cách viết truyền thống trước đó (văn xuôi giai đoạn 1932-1945) gồm có Nhất Linh, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Doãn Quốc Sĩ, Lê Tất Điều, Phan Văn Tạo, Tạ Tỵ... Nhóm các nhà văn di cư chủ trương đổi mới văn nghệ cả nội dung tư tưởng lẫn thủ pháp nghệ thuật như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh... Hai nhóm nhà văn mang đặc điểm văn hóa xứ Bắc, dù có chung ngôn ngữ giọng Bắc và bối cảnh quê nhà nhưng quan niệm về con người và những đặc trưng thi pháp rất khác biệt nhau. Đối với các nhà văn Nam Bộ như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh, Trang Thế Hy... việc đi theo đường hướng miêu tả chân thực phong tục, cuộc sống con người miền Nam từ thế hệ Hồ Biểu Chánh trước đó là khá rõ ràng. Một số nhà văn khác, tuy không chủ trương viết về đất và người ở một vùng không gian xác định nhưng vẫn thể hiện đặc điểm và sắc thái văn hóa địa phương trong mỗi tác phẩm như một thói quen của hành động ghi nhận và phản ảnh hiện thực. *
  9. Nhìn nhận về "một chặng đường văn học" đã qua(32), có thể mỗi người có một ý kiến đánh giá khác nhau. Từ góc độ lý luận, có thể phân chia văn xuôi ra thành khuynh hướng này, khuynh hướng khác, nhưng từ thực tiễn đời sống của tác phẩm qua tiếp nhận của công chúng, còn thấy rằng thời gian mới là thước đo khách quan nhất. Tác phẩm nào thực sự có giá trị sẽ còn ở lại lâu dài với người đọc, truyện nào dở tất nhiên cũng bị đào thải nhanh. Đi qua những thành kiến cực đoan cá nhân, những xung đột về chính trị, những cuộc tranh luận sôi nổi về vấn đề truyền thống và hiện đại, những biến hóa nhiều chiều của văn chương đương thời..., tác phẩm của nhiều nhà văn như Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Trang Thế Hy, Nguyễn Văn Xuân, Minh Quân... viết ở thập niên 50, 60 trong lòng đô thị miền Nam vẫn còn được nhiều người yêu thích. Điểm chung nhất và là chỗ dựa vững bền của nó là hướng đến những giá trị văn hóa dân tộc, là bản sắc văn hóa mỗi vùng miền và tình yêu quê hương chân thành, tha thiết. Họ làm thành một dòng chảy riêng, không tách biệt nhưng cũng không nhập cuộc vào những trào lưu khác vẫn thường được coi là thịnh hành đương thời như "hiện sinh", "phân tâm", "ý thức"... Từ tác phẩm của những nhà văn có kiểu viết rất "truyền thống" và "cổ điển" này, người đọc có thể nhìn thấy bức tranh đa dạng của văn hóa miền Nam những năm trước 1975, những sự kiện làm đổi thay đời sống văn hóa, đặc biệt là đời sống tinh thần của người dân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2