intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng và xóa đói giảm nghèo ở Ghana

Chia sẻ: K Loi Ro Ong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:25

69
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của bài viết chỉ ra vai trò của các thủ phủ của Ghana (được định nghĩa là các thị trấn nhỏ) trong giảm nghèo và phát triển vùng. Bài viết sử dụng các tài liệu điều tra để thể hiện vị trí của các thị trấn nhỏ trong cấu trúc thang đô thị hiện tại của Ghana và sự phát triển của các trung tâm đô thị này trong 3 thập kỷ vừa qua, tập trung vào việc kiểm tra tiềm năng đóng góp của các thủ phủ ở Ghana đối với giảm nghèo và phát triển vùng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng và xóa đói giảm nghèo ở Ghana

The Role of Small Towns in Regional Development and Poverty<br /> Reduction in Ghana<br /> George Owusu<br /> International Journal of Urban and Regional Research<br /> Vol. 32.2; ISSN 0309-1317; Pages 453-472<br /> <br /> VAI TRÒ CỦA CÁC THỊ TRẤN NHỎ TRONG PHÁT TRIỂN VÙNG<br /> VÀ XÓA ĐÓI GIÁM NGHÈO Ở GHANA.<br /> George Owusu<br /> Tóm tắt<br /> Ghana, cũng như nhiều quốc gia khác ở tiểu vùng Saharan Châu Phi, hiện<br /> chưa có một chiến lược phát triển vùng rõ ràng, nhất quán. Phát triển vùng<br /> đã diễn ra khá mạnh mẽ song vẫn chưa được kiểm soát. Chính sách phân<br /> quyền được Ghana áp dụng 1988 chủ yếu tập trung vào các thị trấn nhỏ.<br /> Việc áp dụng Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) và các chiến lược<br /> xóa đói giảm nghèo cụ thể của quốc gia cần được sự ưu tiên phối hợp của<br /> nhà nước đối với các thị trấn nhỏ. Phân phối và cung cấp dịch vụ qua các thị<br /> trấn nhỏ là nhân tố cần thiết đối với mọi chiến lược phát triển vùng và xóa<br /> đói giảm nghèo.<br /> Giới thiệu<br /> Trong 2 thập kỷ vừa qua, vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng<br /> cũng như vai trò tích cực của chúng trong phát triển không gian nhằm hỗ trợ<br /> xóa đói giảm nghèo cũng như đạt được sự phát triển hợp lý đối với nhiều<br /> nước đang phát triển đã được quan tâm trở lại. Mối quan tâm này được hỗ<br /> trợ bởi sự thay đổi về kinh tế chính trị ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở<br /> châu Phi (Pedersen, 2003; Tacoli, 2003, Owusu, 2005a, Satterthwaite,<br /> 2006). Sự thay đổi trên phạm vi quốc gia và quốc tế bao gồm dân chủ hóa và<br /> cải cách chính quyền địa phương, điều chỉnh cơ cấu và cải cách kinh tế, tăng<br /> cường nỗ lực giải quyết xóa đói giảm nghèo và xu hướng chung hỗ trợ phát<br /> triền. Ngoài ra, các phản ứng đối với các kết quả không khả quan trước đây<br /> của phương pháp tiếp cận toàn diện kinh tế vĩ mô trong phát triển – phương<br /> pháp này đã không xem xét hay đơn giản bỏ qua các cấp thấp nhất trong hệ<br /> thống không gian – cũng như các chính sách thực tế khác liên quan đến các<br /> tác động ngược của khuynh hướng “các nước thuộc thế giới thứ ba” trong đô<br /> thị hóa và phát triển vùng, đã góp phần thu hút sự quan tâm trở lại đối với<br /> các thị trấn nhỏ. Các yếu tố trên đã làm gia tăng các tranh luận về mặt lý<br /> thuyết trong đó nhấn mạnh sự cần thiết của hệ thống định cư rải rác và tập<br /> trung (bao gồm các thị trấn nhỏ) nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, công bằng<br /> <br /> 1<br /> <br /> xã hội (Rondinelli, 1984, Hinderink and Titus, 2002, Pedersen, 2003;<br /> Sattherthwaite, 2006).<br /> Vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng và xóa đói giảm nghèo<br /> đã trở thành đề tài tranh luận chính trong các lý thuyết phát triển vùng. Kết<br /> quả là các trường phái khác nhau đều quan tâm đến vấn đề tăng trưởng và<br /> phát triển của các thị trấn nhỏ. Các trường phái dường như theo hướng quan<br /> điểm chung về lý thuyết phát triển ở các nước đang phát triển (Pedersen,<br /> 1997; Tacolo, 1998; Owusu, 2006). Theo Dewar (1996; 2- 3), giai đoạn từ<br /> những năm 1960 tới giữa thập kỷ 1980 đã chứng kiến sự quan tâm mạnh mẽ<br /> đối với các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng và quốc gia trên bình diện xây<br /> dựng lý thuyết và chính sách thực tiễn. Tuy nhiên vai trò của chúng được coi<br /> là tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào việc mô hình phát triển nào và quan<br /> điểm lý thuyết nào được áp dụng, đặc biệt là các mô hình phụ thuộc và hiện<br /> đại hóa. Qua tranh luận về vai trò của các thị trấn nhỏ trong phát triển vùng<br /> trong thời gian vừa qua, quan điểm được đưa ra trong hai thập kỷ vừa qua<br /> được đánh giá khả quan.<br /> Trong bản báo cáo toàn cầu “Hoàn thành các Mục tiêu Phát triển ở các<br /> Trung tâm Đô thị nhỏ - Nước và Vệ sinh ở các thành phố trên thế giới<br /> 2006”, cơ quan Liên Hợp Quốc Về Các Vấn Đề Định Cư nhấn mạnh rằng<br /> các thị trấn nhỏ có xu hướng bị bỏ sót là những thị trường hàng đầu đồng<br /> thời là nơi cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp và phát triển địa phương.<br /> Do đó, việc hoàn thành Mục Tiêu Phát Triển Thiên Niên Kỷ sẽ phụ thuộc<br /> phần lớn vào cách chúng ta tăng cường triển vọng phát triển kinh tế địa<br /> phương và tăng cường điều kiện sống và làm việc ở các thành phố nhỏ. Sự<br /> nhất quán rộng rãi ở tầm quốc tế đã củng cố mối quan tâm về vai trò của các<br /> thành phố nhỏ trong phát triển kinh tế địa phương và giảm nghèo. Một quan<br /> điểm rộng rãi trong lý thuyết phát triển vùng là các trung tâm đô thị gần nhất<br /> với khu vực nông thôn, các thành phố nhỏ là điểm nút hiệu quả để kết nối<br /> các nhà sản xuất ở nông thôn với thị trường, các trung tâm để đặt dịch vụ xã<br /> hội trong phạm vi tiếp cận thuận tiện của các khu nông thôn, các trung tâm<br /> tuyên truyền các chính sách Chính phủ và hiện đại hóa (Hinderink và Titus,<br /> 2002; Tacoli, 2002; 2003; Pedersen, 2003; Satterthwaite and Tacoli, 2003) –<br /> tất cả các vai trò được cho là có tác động tích cực đối với sự phát triển của<br /> khu vực thành thị và nông thôn. Ngày càng có nhiều quan điểm công nhận<br /> rằng, các khu vực đô thị và nông thôn không chỉ là các ốc đảo mà còn là nơi<br /> kết nối dân cư, hàng hóa, dịch vụ và thông tin (liên kết không gian) và tương<br /> tác vùng (như việc làm ở nông thôn phi nông nghiệp và nông nghiệp đô thị).<br /> Sự tương tác này cũng như kết nối không gian được xem là mạnh mẽ nhất<br /> giữa các thành phố nhỏ và các vùng nông thôn vùng sâu vùng xa (Pedersen,<br /> 2003; Satterthwaite and Tacoli, 2003; Tacoli, 2003; Satterthwaite, 2006).<br /> 2<br /> <br /> Trong bất kỳ điều tra nào về vai trò của các thành phố nhỏ trong phát<br /> triển vùng và giảm nghèo, hệ thống chính quyền địa phương hiện nay và<br /> việc thiết lập các thể chế của nó đóng vai trò hết sức quan trọng. Chính vì<br /> vậy, nhu cầu phân quyền trong quy hoạch phát triển vùng và hành chính đã<br /> được nhấn mạnh trong lý thuyết phát triển vùng (xem trong Hardoy và<br /> Satterthwaite, 1988, Southall, 1988, Simon, 1992, Pedersen, 1997; 2003;<br /> Tacoli, 2002, 2003; Satterthwaite và Tacoli, 2003). Quan điểm nổi bật là hệ<br /> thống chính quyền địa phương và việc thiết lập thể chế (dựa theo chính sách<br /> phân quyền) của họ đóng vai trò quan trọng trong việc xác định bản chất mối<br /> quan hệ giữa các trung tâm đô thị và các vùng phụ cận mặc dù nhu cầu này<br /> phải được đặt trong bối cảnh quốc gia và quốc tế cụ thể (Satterthwaite và<br /> Tacoli, 2003, Owusu, 2005a). Điểm mấu chốt trong phân quyền là vai trò<br /> của các thành phố nhỏ trong phát triển vùng và kết nối nông thôn – thành thị,<br /> và một điều được nhấn mạnh trong lý thuyết phát triển vùng là nó tạo cơ hội<br /> việc hoạch định chính sách cho các vùng, khớp nối các điểm riêng biệt của<br /> từng thành phố nhỏ và các vùng sâu vùng xa của chúng. Nói theo cách khác,<br /> phân quyền giúp tránh hiện tượng khái quát hóa, đôi khi có giá trị song nó<br /> thường nêu vấn đề trên diện rộng và không cụ thể, ít đề cập đến trung tâm đô<br /> thị (hay trung tâm) và không có nhiều căn cứ có giá trị để hình thành các<br /> chính sách cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng. Hơn nữa,<br /> khả năng và sức ép phát triển là cụ thể đối với từng thị trấn nhỏ và từng<br /> vùng cho thấy sự cần thiết phải có trình độ cao trong việc ra quyết định và<br /> hoạch định chính sách trên quy mô vùng và quốc gia (Hardoy và<br /> satterthwaite, 1988).<br /> Bài luận này chỉ ra vai trò của các thủ phủ của Ghana (được định nghĩa<br /> là các thị trấn nhỏ) trong giảm nghèo và phát triển vùng. Phân tích là khá<br /> quan trọng căn cứ trên thực tế là sự tập trung quan tâm tới các trung tâm đô<br /> thị ở Ghana đã được hiện thực hóa ở các thị trấn và thành phố lớn như<br /> Accra, Kumasi, Tamale và Sekondi – Takoradi. Thêm vào đó, năm 1988<br /> Ghana bắt đầu áp dụng chính sách phân quyền nhằm nâng cao việc chuyển<br /> đổi nguồn lực sang các vùng và tăng cường các thị trấn nhỏ, đặc biệt là các<br /> thủ phủ. Bài luận sử dụng các tài liệu điều tra để thể hiện vị trí của các thị<br /> trấn nhỏ trong cấu trúc thang đô thị hiện tại của Ghana và sự phát triển của<br /> các trung tâm đô thị này trong 3 thập kỷ vừa qua. Điều này được dẫn chứng<br /> bằng cuộc thảo luận lý thuyết về các thị trấn nhỏ và vai trò của chúng trong<br /> phát triển vùng và giảm nghèo ở Ghana. Tiếp đó, bài luận tập trung vào việc<br /> kiểm tra tiềm năng đóng góp của các thủ phủ ở Ghana đối với giảm nghèo<br /> và phát triển vùng. Kết thúc bài luận là thảo luận tổng kết nhấn mạnh sự cần<br /> thiết phải có sự hỗ trợ của nhà nước (Chính quyền Trung Ương) như là điều<br /> <br /> 3<br /> <br /> kiện tiên quyết đối với sự phát triển của các thị trấn nhỏ trong chính sách<br /> phân quyền của Ghana.<br /> Vị trí của các thị trấn nhỏ trong bậc thang đô thị của Ghana.<br /> Vấn đề định nghĩa thị trấn nhỏ đã có từ rất lâu khi khái niệm những yếu tố<br /> cấu thành nên “đô thị” và “thị trấn” xuất hiện. Định nghĩa thành phố nhỏ<br /> thậm chí còn phức tạp hơn bởi thực tế cho thấy trong khi phần lớn các quốc<br /> gia đều có ít nhất các định nghĩa chính thức về trung tâm đô thị (hoặc thị<br /> trấn) nhưng không có một định nghĩa nào về các trung tâm đô thị “nhỏ”,<br /> “vừa” và “lớn”. Chính vì vậy các định nghĩa được các nhà nghiên cứu áp<br /> dụng thường khác nhau ngay cả trong cùng một quốc gia, khu vực. Ví dụ,<br /> Anderson (2002) khi nghiên cứu về Zimbabwe có viết rằng trong khi<br /> Kamete (1998) định nghĩa các thị trấn nhỏ ở Zimbaque là nơi có dân số từ<br /> 2,500 đến 9,999 người; theo Pederen (1995) là từ 2000 đến 50000 người.<br /> Mặc dù mỗi người có một định nghĩa khác nhau song cũng cần phải lưu ý<br /> rằng các định nghĩa đó là phù hợp và quan trọng cho mọi cuộc thảo luận hay<br /> phân tích. Nhằm tránh những tranh luận không có hồi kết về các định nghĩa<br /> và phạm vi của nó, Hardoy và Satterthewaite (1988) và Simon (1992) đã đưa<br /> ra quan điểm áp dụng bước tiếp cận dựa trên chức năng và tương đối hơn là<br /> các trung tâm thuần túy và nhỏ xét theo khía cạnh hệ thống kinh tế và đô thị<br /> quốc gia. Bước tiếp cận này của họ nhằm đưa ra một định nghĩa về các thị<br /> trấn nhỏ dựa trên bậc thang định cư ở từng quốc gia và đồng thời cũng được<br /> áp dụng trong bài nghiên cứu này.<br /> Trong bối cảnh của Ghana, các trung tâm đô thị được định nghĩa chính<br /> thức là nơi tập trung dân số từ 5000 người trở lên. Tuy nhiên, cũng lưu ý<br /> rằng, không có định nghĩa chính thức về các thị trấn nhỏ. Các bài phân tích<br /> về phát triển đô thị vùng ở Ghana dựa trên các con số thống kê dân số 1960,<br /> 1970, 1984, GSS (1995) định nghĩa thị trấn nhỏ là các trung tâm có dân số<br /> từ 5000 đến 19,999 người. Các trung tâm đô thị vừa là các trung tâm có dân<br /> số từ 20,000 đến 99,999 người và các trung tâm đô thị lớn là từ 100,000<br /> người trở lên. Thomi và Yankson (1985) cũng đưa ra cách phân loại tương<br /> tự đối với hệ thống đô thị của Ghana dựa trên điều tra dân số năm 1970.<br /> Cách phân loại hệ thống đô thị ở Ghana của Andre dựa trên điều tra dân số<br /> năm 1960 và các đặc điểm khác như thể chế hành chính, trình độ công<br /> nghiệp và dịch vụ đã tạo ra bậc thang đô thị 4 tầng: khu vực thủ đô Accra<br /> (Accra – Tema) là khu vực công nghiệp, chính trị, hành chính quốc gia với<br /> dân số trên 300,000 người, 2 thành phố (Kumasi và Sekondi – Takoradi) với<br /> dân số trên 50,000 người là trung tâm công nghiệp, hành chính quan trọng<br /> của vùng, các trung tâm vùng (bao gồm tất cả các thủ phủ hành chính khác<br /> 4<br /> <br /> trừ Bolgatanga) với dân số trên 10,000 người, các thị trấn có dân số dưới<br /> 10,000 người (chủ yếu là các trung tâm hành chính quận). Dưới cấp thị trấn<br /> là khu vực nông thôn. Andrea (1981) cũng lưu ý rằng khu vực thủ đô và 2<br /> thành phố chính khác có thể xếp cùng một bậc. Hay nói cách khác, loại hình<br /> thứ nhất và thứ hai trong cách phân loại của bà có thể gọi chung là các thị<br /> trấn lớn, các trung tâm của vùng là các thị trấn vừa, và “thị trấn” là thị trấn<br /> nhỏ. Tuy nhiên Andre cũng hiểu rõ về phạm vi phân loại của bà trong đó ghi<br /> chú rằng các định nghĩa trên xuất phát từ sự cần thiết phải thiết lập một<br /> phương pháp phân loại và các phân tích loại hình sản xuất và cấu trúc không<br /> gian của các khu công nghiệp ở Ghana.<br /> Phân định các thị trấn nhỏ dựa theo các định nghĩa chính thức của Ghana<br /> về các trung tâm đô thị, số liệu điều tra dân số và nhà ở năm 2000 cũng như<br /> cấu trúc chính trị, hành chính hiện nay của đất nước, bài nghiên cứu đã áp<br /> dụng phương pháp phân loại 3 tầng của hệ thống đô thị Ghana. Khi các khu<br /> định cư nông thôn được bổ sung, bậc thang định cư của Ghana sẽ phù hợp<br /> với cấu trúc hệ thống 4 tầng (Owusu, 2005b, 2006). Trên cùng là các thị trấn<br /> và thành phố lớn Accra, khu tự trị Tema, Kumasi và Sekondi – Tamale với<br /> dân số từ 250,000 trở lên. Ngoài tiêu chuẩn về dân số, các thị trấn lớn được<br /> định nghĩa là các trung tâm công nghiệp, dịch vụ của Ghana mặc dù khu vực<br /> Accra – Tema không phù hợp theo tiêu chuẩn này. Bậc tiếp theo là các trung<br /> tâm đô thị vừa – các trung tâm hành chính vùng với dân số từ 50,000 đến<br /> 249,999 người. Các thị trấn vừa và nhỏ đều là các trung tâm chính trị hành<br /> chính của vùng (ngoại trừ Tema, là trung tâm công nghiệp, cảng biển chính),<br /> định nghĩa này khác so với định nghĩa trước đây là được phân biệt bởi quy<br /> mô dân số và trình độ công nghiệp dịch vụ. Xếp sau thị trấn vừa là các thị<br /> trấn nhỏ, được định nghĩa là các trung tâm có quy mô dân số từ 5000 đến<br /> 49,999 người (như các thủ phủ). Tiếp đó là các khu vực nông thôn. Các thị<br /> trấn vừa được phân biệt với các thành phố nhỏ căn cứ vào vai trò là trung<br /> tâm điều phối, chính trị, hành chính của chúng trong khu vực (bao gồm các<br /> thủ phủ).Vai trò chính trị, hành chính được thể hiện cụ thể trong chính sách<br /> phân quyền, đòi hỏi mỗi khu vực và chính quyền địa phương tương ứng đệ<br /> trình các kế hoạch phát triển của mình sao cho hài hòa với kế hoạch phát<br /> triển vùng, từ đó nâng lên tầm quốc gia để hài hòa với các kế hoạch phát<br /> triển quốc gia. Các thủ phủ cũng giám sát hoạt động hàng ngày của các hạt<br /> trong khu vực.<br /> Tuy nhiên, phương pháp phân loại và định nghĩa các thị trấn nhỏ đã<br /> quá đơn giản hóa hệ thống đô thị của Ghana. Vì chúng đã gạt sang một bên<br /> các tiêu chuẩn về thể chế hành chính, nhiều trung tâm cho thấy sự phức tạp<br /> về chức năng và dân số đã gây khó khăn cho quá trình xếp chúng vào các<br /> tiêu chuẩn phân loại. Một ví dụ điển hình là thị trấn khai thác vàng của<br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0