intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Triết lý giáo dục Khổng Tử và sự tương thích đối với quá trình xây dựng con người mới ở nước ta - ThS. Trần Thị Thanh Tâm, ThS. Nguyễn Thị Tâm

Chia sẻ: Minh Vũ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:52

100
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Triết lý giáo dục Khổng Tử và sự tương thích đối với quá trình xây dựng con người mới ở nước ta" tập trung phân tích triết lý giáo dục Khổng Tử về vai trò của giáo dục, mục đích giáo dục, phương pháp giáo dục, tính tương thích của triết lý giáo dục Khổng Tử trong công cuộc giáo dục đạo đức cho con người mới ở nước ta. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Triết lý giáo dục Khổng Tử và sự tương thích đối với quá trình xây dựng con người mới ở nước ta - ThS. Trần Thị Thanh Tâm, ThS. Nguyễn Thị Tâm

Bản tin<br /> khoa<br /> học<br /> <br /> TRIẾT LÝ GIÁO DỤC KHỔNG TỬ VÀ<br /> SỰ TƢƠNG THÍCH ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG<br /> CON NGƢỜI MỚI Ở NƢỚC TA<br /> <br /> <br /> – ThS. Trần Thị Thanh Tâm<br /> – ThS. Nguyễn Thị Tâm<br /> Bộ môn Lý luận chính trị<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> rong xã hội hiện đại, giáo dục 1. Triết lý giáo dục của Khổng Tử<br /> <br /> T trở thành vấn đề tồn vong của<br /> một quốc gia. Đảng và Nhà<br /> nước ta luôn ý thức rất rõ về tầm quan<br /> a. Vai trò của giáo dục<br /> Đối với Khổng Tử vai trò quan<br /> trọng bậc nhất của giáo dục là cải tạo<br /> trọng của giáo dục nhà trường nói riêng<br /> và giáo dục đào tạo nói chung. Văn kiện nhân tính. Chính vì vậy trong thuyết<br /> đại hội Đảng lần thứ X viết: “Giáo dục và trung hòa, trung dung của mình, Khổng<br /> đào tạo cùng với khoa học và công nghệ Tử đã chủ trương dùng “đức trị” để cai trị<br /> là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và xã hội. Qua đó, ông đề cao công việc<br /> động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện giáo hóa, xem đó là phương cách tốt<br /> đại hóa đất nước”. nhất để bình ổn xã hội, và tiến tới xây<br /> Mặt khác, với xu thế ngày càng dựng một xã hội thái bình thịnh trị.<br /> “phẳng” của thế giới, việc tiếp thu tinh Khổng Tử cho rằng: “Tính tương cận,<br /> hoa văn hóa của nhân loại không còn là tập tương viễn” [1, tr.284] tức bản tính<br /> điều quá xa vời mà đã trở thành một tất con người khi sinh ra là giống nhau<br /> yếu lịch sử. Xu hướng “mở” để “phẳng” không có sự khác biệt về phương diện<br /> tạo điều kiện cho sự hội nhập nhanh này dù con người đó được sinh ra ở đâu<br /> chóng những luồng tư tưởng khác nhau hay tầng lớp nào trong xã hội, sự khác<br /> của thế giới, song cũng là thách thức của biệt về tính cách, nhân phẩm và trình độ<br /> sự lựa chọn, sàng lọc, gạn đục khơi của mỗi con người chỉ xảy ra khi những<br /> trong cho phù hợp với tình hình của đất con người đó tham gia vào đời sống của<br /> nước. Nền giáo dục Việt Nam phải tiếp xã hội với những ảnh hưởng từ môi<br /> cận được với những nền giáo dục trên trường sống, và điều quan trọng là do<br /> thế giới ở nhiều phương diện khác nhau giáo dục mà mỗi người được hưởng tạo<br /> và lẽ dĩ nhiên không được bỏ qua những nên. Vì thế, chủ trương của Khổng Tử<br /> tinh túy được tích lũy trong kinh nghiệm cần giáo dục cho con người các đức tính<br /> giáo dục của nhân loại, và triết lý giáo như “nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, dũng” thì<br /> dục của Khổng Tử là một minh chứng. con người đó mới trở thành con người<br /> <br /> <br /> 1<br /> Bản tin khoa học - Số 24 (Quý IV, 2013)<br /> <br /> có ích cho xã hội. Trong phần mở đầu của mình: người quân tử, theo ông đây<br /> sách Trung dung có viết: “Tu đạo chi vi phải là lớp người có đầy đủ năng lực và<br /> giáo - giáo dục là tu sửa cái đạo làm phẩm chất đạo đức, phải có hướng ra<br /> người” [3, tr. 256]. Sách Đại học cũng làm quan để giúp Vua cai trị đất nước,<br /> viết: “Đại học chi đạo tại minh minh đức - giáo hóa dân chúng, ổn định xã hội và<br /> Cái học làm người lớn ở chỗ làm rạng đây phải là nơi mà người dân hướng<br /> cái đức sáng” [3, tr. 256]. “Tu đạo” và đến để tìm sự công bằng.<br /> “minh đức” là mục đích tối cao của giáo Tuy nhiên, quan điểm của Khổng<br /> dục trong việc cải tạo nhân tính. Theo Tử không phải là hướng đến một nền<br /> Khổng Tử việc cải tạo nhân tính không giáo dục đại đồng mà ông chỉ chú trọng<br /> dừng lại ở việc mở mang tri thức, giải đến một lớp người trong xã hội chứ<br /> thích vũ trụ mà còn phải mở mang cả trí, không phải là tất cả. Đây cũng là điểm<br /> tình lẫn ý, cốt sao dạy người hoàn thành tạo nên mâu thuẫn trong quan điểm của<br /> đạo lý. Với ông, bất cứ một cá nhân nào ông, khi vừa chủ trương “hữu giáo vô<br /> dù có thiên tài lỗi lạc đến đâu mà không loại”, mở rộng giáo dục, bình dân hóa<br /> có giáo dục uốn nắn thì cũng không thể giáo dục. Mặt khác, từ lập trường giai<br /> thành một nhân cách hoàn toàn được. cấp, ông lại cho rằng: “chỉ có thượng trí<br /> Chính vì vậy ông đã dạy cho Trò Do về và kẻ hạ ngu là không thay đổi - duy<br /> sáu điều che lấp rằng: thượng trí dữ hạ ngu bất di” [1, tr. 285].<br /> “Muốn nhân mà không học, cái đó Khổng Tử chủ trương dạy về đạo đức<br /> che thành ra ngu; của Thánh hiền và lục nghệ, không chủ<br /> Muốn trí mà không học, cái che ấy trương dạy những điều thần bí, chiến<br /> là đãng; tranh, bạo lực: “chuyên tâm nghiên cứu<br /> Muốn tín mà không học, cái che ấy những điều cực đoan thì có hại - Công<br /> là giặc; hồ dị đoan, tứ hại giã dĩ” [1, tr. 46].<br /> Muốn thẳng mà không học, cái che b. Mục đích giáo dục<br /> ấy là vội cấp;<br /> Muốn dũng mà không học, cái che Trong các tác phẩm của mình, đặc<br /> ấy là loạn; biệt là trong Luận ngữ, Khổng Tử đã chỉ<br /> Muốn cương mà không học, cái ra ba mục đích chính của giáo dục là:<br /> che ấy là cuồng” [3, tr. 257-258] Thứ nhất, học dĩ chí dụng. Nghĩa<br /> Bên cạnh đó, khi bàn ở phương là, học là để ứng dụng cho có ích với<br /> diện dân tộc, Khổng Tử cũng rất đề cao đời, với quốc gia xã hội chứ không phải<br /> vai trò của giáo dục, một dân tộc yếu là là học để làm quan, để được hưởng<br /> một dân tộc có nền giáo dục kém, theo bổng lộc. Học để biết phân định phải trái,<br /> ông giáo dục, phát triển trí đức là chìa thực hư, điều gì thấy còn nghi ngờ, còn<br /> khóa để phát triển kinh tế, đồng thời phát khuyết thì đừng nói; điều gì thấy ít kinh<br /> triển kinh tế là cơ sở cho phát triển giáo nghiệm, còn có điều khuyết đãi thì không<br /> dục và dân trí. Nhờ giáo dục mà con nên làm; cẩn thận trong lời nói, trong<br /> người biết đến những đức tính của các việc làm thì ít lỗi, ít ăn năn. Học phải có<br /> bậc thánh nhân, quân tử qua đó mà trật gì ích dụng nếu không thì học cũng<br /> tự xã hội được xác lập, bởi theo ông một chẳng để làm gì. Khổng Tử dạy rằng:<br /> xã hội hỗn loạn là do người dân không “Tụng thi tam bách, thụ chi dĩ chính bất<br /> được giáo dục những đức tính trên. Như đạt, sứ ư tứ phương, bất năng chuyên<br /> vậy, khi bàn về giáo dục, Khổng Tử đối, tuy đa việc hề dĩ vi” [3, tr. 258].<br /> không chỉ dừng lại ở quan điểm giáo dục Thứ hai, học để hoàn thành nhân<br /> hình thành nên nhân cách của một con cách, học là phải học cho mình, vì mình<br /> người, mà nó còn quyết định đến vận chứ không vì ai khác. Giáo dục chú trọng<br /> mệnh của một dân tộc, đúng như lời Hồ vào việc dưỡng thành nhân cách để mà<br /> Chủ Tịch đã dạy: “Một dân tộc dốt là một ứng dụng với đời. Do đó, trong chương<br /> dân tộc yếu”. trình giáo dục của Khổng Tử có 4 điều<br /> Con người lý tưởng mà Khổng Tử cốt yếu: văn, hành, trung, tín. Trong đó<br /> hướng đến trong quan điểm về giáo dục để có thể học văn chương thì trước hết<br /> <br /> 2<br /> Bản tin<br /> khoa<br /> học<br /> <br /> phải hoàn thành ba phương diện về một đằng làm một nẽo. Ông chỉ ra:<br /> nhân sinh hành vi “Đệ tử nhập tắc hiếu, “Người quân tử học rộng về thi thư, tự<br /> xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng ước thúc bằng lễ, (quy tắc, nghi thức, kỉ<br /> nhi thân nhân. Hành hữu dư lực, tắc dĩ luật tinh thần) như vậy có thể không trái<br /> học văn” [3, tr. 260]. với đạo lý - Quân tử bác học ư văn; ước<br /> Thứ ba, học là để tìm tòi chân lý. chi dĩ lễ, diệc khả dĩ phất bạn hĩ phù.” [1,<br /> Theo Khổng Tử, học không phải để cầu tr. 117]<br /> lợi, tranh đấu vì quyền lợi mà là để tìm Thứ ba, trong giáo dục, cái cốt yếu là<br /> chân lý, đạo lý. Mục đích cao nhất của hướng dẫn đúng với điều kiện tâm sinh lý<br /> giáo dục là tu sửa đạo lý, giáo dục theo của người học chứ không có tính võ đoán.<br /> Khổng Tử là hướng đến tu sửa đạo lý. Quá trình giáo dục phải khởi từ tình cảm<br /> Người quân tử không cần lo đến cơm áo nẩy nở rồi mới đưa vào khuôn phép, sau<br /> gạo tiền, cốt sao giữ được đạo lý “Triêu đó lại phải điều hòa các mâu thuẫn xung<br /> văn đạo, tịch tử khả hỷ” [2, tr. 106], đột ở thâm tâm. “Hứng ư thi, lập ư lễ,<br /> ngược lại thì “sĩ chí ư đạo, nhi sỉ ác y, ác thành ư nhạc – Khởi hứng bằng Kinh thi,<br /> thực giả, vị túc sử nghị dã” [2, tr. 107]. uốn nắn bằng kỷ luật phép tắc, hoàn thành<br /> ở nhạc.” [3, tr. 262]<br /> c. Phƣơng pháp giáo dục<br /> Thứ tư, trong giáo dục, một đức tính<br /> Điều làm cho Khổng Tử trở thành cực kỳ cần thiết với người học là sự cần<br /> nhà giáo dục kiệt xuất của nhân loại nằm cù, phải không ngừng ôn luyện, trau rồi bài<br /> ở hệ thống phương pháp giáo dục chặt vở, ông luôn nhắc nhỏ học trò không được<br /> chẽ và sâu sắc mà ông đề ra. Giáo dục biếng nhác, phải thường xuyên cố gắng,<br /> cần phải có phương pháp và những nỗ lực trong học tập, phải luôn có chí tiến<br /> phương pháp cơ bản mà Khổng Tử đề thủ không được ỷ lại, ông thường nhắc<br /> ra được tập trung chủ yếu trong Luận rằng: “Ôn lại những điều cũ mà biết<br /> ngữ, ta có thể khái quát lại như sau: được điều mới (hoặc: ôn lại điều mình<br /> Thứ nhất, trong giáo dục phải đề đã biết mà thêm điều mới) như vậy có<br /> cao phương pháp đối thoại giữa thầy và thể làm thầy được - Ôn cố nhi tri tân, khả<br /> trò, người thầy khêu gợi tính sáng tạo dĩ vi sư hĩ” [1, tr. 44]. Ông cũng cho rằng,<br /> của người trò, qua đó hướng cuộc đối người học không được vị kỷ, cố chấp mà<br /> thoại đó đến chân lý để học trò nắm lấy, phải có thái độ khách quan trong học tập<br /> đây là phương pháp khai thác khả năng “vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã.” [1, tr. 154]<br /> tư duy của người học và nó hoàn toàn<br /> 2. Tính tƣơng thích của triết lý<br /> phù hợp với giáo dục thời hiện đại. Ông<br /> giáo dục Khổng Tử trong công cuộc<br /> nói: “Kẻ nào không phát phẫn để tìm<br /> giáo dục đạo đức cho con ngƣời mới<br /> hiểu thì ta không mở; không rán tỏ ý kiến<br /> ở nƣớc ta<br /> thì ta không khai phát cho. Ta vén cho<br /> một góc rồi mà không tự suy nghĩ tìm ra Có thể nói sợi chỉ đỏ, điểm sáng<br /> ba góc kia thì ta không dạy cho nữa - Bất xuyên suốt trong toàn bộ nội dung cốt lõi<br /> phẫn, bất khải; bất phỉ, bất phát. Cử nhứt trong giáo dục của Khổng Tử chính là<br /> ngung, bất dĩ tam ngung phản, tắc bất việc xây dựng đạo đức cho con người,<br /> phục giã.” [1, tr. 124]. Bên cạch đó, ông coi giáo dục đạo đức là nhiệm vụ cơ<br /> người học phải biết suy nghĩ về điều bản, là cái gốc trong giáo dục con người.<br /> mình đã học, học một phải biết hai, tức Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh có<br /> một yêu cầu đặt ra là người học phải tư dạy: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội<br /> duy, trăn trở đặt ra những thắc mắc về phải có con người xã hội chủ nghĩa”, lời<br /> bài học, có vậy mới đạt đến sự hoàn dạy đó chính là kim chỉ nam trong định<br /> thiện. hướng giáo dục đạo đức con người mới.<br /> Thứ hai, học phải đi đôi với hành, Đồng thời trên cơ sở kế thừa nội dung<br /> tức người học phải biết vận dụng lý giáo dục của Khổng Tử nhằm xây dựng<br /> thuyết vào cuộc sống, việc làm của con người mới trong giai đoạn hiện nay<br /> mình, phải đem đạo của thánh hiền vào ở nước ta cần phải chú trọng trên các<br /> xã hội chứ không phải kiểu học gạo, nói nội dung quan trọng như:<br /> <br /> 3<br /> Bản tin khoa học - Số 24 (Quý IV, 2013)<br /> <br /> - Lòng nhân ái: lấy chữ nhân cốt lõi đó, Khổng Tử hướng sự học đến mục<br /> của tư tưởng Khổng Tử làm nền tảng để đích cao cả là trị nước, cứu đời, cải tạo<br /> hướng con người đến với sự yêu thương xã hội. Việc phò vua, giúp nước không<br /> và cảm thông cho nhau bởi một lẽ mặt chỉ dừng lại ở chỗ phục tùng mệnh lệnh<br /> trái của nền kinh tế thị trường đang dần mà còn phải biết chọn minh quân để<br /> làm cho con người trở nên vô cảm, thờ ơ theo, dám nói và dám can ngăn khi vua<br /> với người khác hoặc do thật giả lẫn lộn làm điều sai quấy. Mười ba năm chu du,<br /> làm cho tình thương đôi khi đặt nhầm truyền bá học thuyết hòng mong tìm<br /> chỗ. Lòng nhân ái cũng là một trong số được minh quân, lập lại trật tự lễ nghĩa<br /> các giá trị truyền thống của dân tộc Việt nhà Chu trong thời vương đạo suy vi, bá<br /> Nam từ ngàn xưa. Chính vì lẽ đó, giáo đạo nổi lên của Khổng Tử dù không như<br /> dục lòng nhân ái cho con người càng trở ý muốn nhưng đã để lại cho đời sau một<br /> nên cần thiết. Tuy nhiên với tính hiện học thuyết đạo đức – chính trị mà cho<br /> thời của nó, giáo dục lòng nhân ái cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.<br /> con người không dừng lại ở tinh thần Quan điểm của Khổng Tử ra đời<br /> của Khổng Tử mà cần mở rộng ra, cần cách thời đại chúng ta hơn 2500 năm<br /> có sự đổi mới cho phù hợp với hoàn trước, nhưng những tư tưởng về giáo<br /> cảnh mới của đất nước. Lòng nhân ái dục của ông vẫn còn giá trị cho nền giáo<br /> phải được nâng lên tầm cao mới ngang dục thế giới nói chung và Việt Nam<br /> bằng với chủ nghĩa nhân đạo của chủ chúng ta nói riêng. Thiết nghĩ, trong điều<br /> nghĩa Mác – Lênin. kiện nước ta hiện nay, chúng ta vẫn loay<br /> - Tu thân: Đây là nội dung có tầm hoay đi tìm một triết lý giáo dục phù hợp<br /> quan trọng bậc nhất trong tư tưởng giáo với con người Việt Nam thì những tư<br /> dục của Khổng Tử, đạo đức của con tưởng của Khổng Tử về giáo dục đã nêu<br /> người không vốn dĩ do tính trời sinh ở trên không thể bỏ qua. Mặt khác, với<br /> dưỡng mà được quyết định bởi chính hiện thực suy thoái đạo đức đang dần<br /> quá trình tu thân của mỗi người. Mỗi trở thành vấn nạn của dân tộc, trở thành<br /> người phải tự nâng cao trình độ nhận rào cản đối với công cuộc xây dựng đất<br /> thức của mình bằng việc học tập; phải nước nói chung và xây dựng con người<br /> rèn luyện bản thân, sửa mình theo lễ, mới nói riêng thì giáo dục buộc phải trở<br /> ứng xử đúng danh phận; phải tự kiểm thành mũi nhọn trong công cuộc xây<br /> điểm bản thân hàng ngày, nghiêm khắc dựng con người mới, trở thành phương<br /> xem xét lại việc mình đã làm. Tuy nhiên, thức hữu hiệu để bình ổn và phát triển<br /> kế thừa tư tưởng tu thân của Khổng Tử xã hội. Vì vậy, trên tinh thần tiếp thu có<br /> cần phải có chọn lọc và bổ sung, phát chọn lọc, chúng ta không máy móc áp<br /> triển cho phù hợp với thời đại. Tu thân dụng mà phải khéo léo vận dụng những<br /> với phương châm “ngọc càng mài càng tư tưởng đó trong thời đại mới của giáo<br /> sáng, vàng càng luyện càng trong”, phải dục hiện đại để nhằm xây dựng nên con<br /> tu dưỡng suốt đời không nóng vội hay người Việt Nam ngày càng hoàn thiện,<br /> bỏ dở giữa chừng. Tu thân không dừng đáp ứng nhu cầu về nhân lực của sự<br /> lại ở tu dưỡng về mặt đạo đức mà đồng nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa<br /> thời phải không ngừng nâng cao tri thức đất nước nhằm đưa nước ta sánh vai<br /> khoa học và rèn luyện thể chất nhằm cùng các cường quốc năm châu như<br /> hướng đến xây dựng con người phát ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.<br /> triển toàn diện: trí, đức, thể, mỹ.<br /> - Tính tích cực chính trị: với tinh TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> thần nhập thế nên tư tưởng của Khổng [1]. Khổng Tử (bản dịch Nguyễn Hiến Lê)<br /> Tử đã có ảnh hưởng lớn tới tư tưởng (1995), Luận ngữ, Nxb Văn học.<br /> giáo dục của nhiều nước, trong đó có [2] Khổng Tử (bản dịch Lê Phục Thiện)<br /> Việt Nam. Tính tích cực chính trị của (1995), Luận ngữ, Nxb Văn học.<br /> Khổng Tử được thể hiện trong mục đích [3] Nguyễn Đăng Thục (2001), Lịch sử<br /> của giáo dục: học vì người, học để phò triết học phương Đông, Nxb TP. Hồ Chí<br /> vua, giúp nước, giúp dân. Với mục đích Minh.<br /> <br /> 4<br /> “ Con đƣờng đi lên CHỦ NGHĨA XÃ HỘI –<br /> Lựa chọn khoa học của HỒ CHÍ MINH”<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> ThS. Phạm Thị Thùy Dƣơng<br /> Bộ môn Lý luận chính trị<br /> <br /> <br /> <br /> rong quá trình tìm đường cứu cương lĩnh thành lập Đảng: “Làm tư sản<br /> <br /> T nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã<br /> sớm nhận thức được xu thế<br /> phát triển của thời đại. Từ một thanh<br /> dân quyền cách mạng và thổ địa cách<br /> mạng để đi tới xã hội cộng sản”[3,<br /> tr.314]. Thực tiễn cách mạng Việt Nam<br /> niên yêu nước Người đã tiếp cận Chủ trong hơn 80 năm qua chính là bằng<br /> nghĩa Mác - Lênin và trở thành người chứng sinh động khẳng định sự lựa chọn<br /> cộng sản, Người đã rút ra một kết luận con đường đi lên CNXH của Hồ Chí<br /> dứt khoát và chính xác: “Muốn cứu nước Minh là sự lựa chọn khoa học.<br /> giải phóng dân tộc, không còn con Hồ Chí Minh đã nắm bắt được quy<br /> đường nào khác con đường cách mạng luật phát triển của xã hội loài người theo<br /> vô sản”. Đó là con đường cách mạng học thuyết Mác - Lênin: Cách sản xuất<br /> dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp vô và sức sản xuất phát triển biến đổi kéo<br /> sản với đảng tiên phong của họ lãnh theo đó tư tưởng con người cũng biến<br /> đạo, lật đổ đế quốc, phong kiến và tay đổi và xã hội cũng biến đổi, chế độ xã<br /> sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện hội cũng phát triển từ công xã nguyên<br /> người cày có ruộng sau đó tiến lên chủ thủy đến tư bản chủ nghĩa. Người khẳng<br /> nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa cộng định rằng: “sớm hay muộn tất cả các dân<br /> sản. tộc sẽ tiến lên CNXH”, đó là con đường<br /> Thực chất, con đường cách mạng chung của toàn nhân loại. Tuy nhiên, đi<br /> vô sản cũng chính là con đường độc lập lên CNXH không phải dễ dàng, nhanh<br /> dân tộc gắn liền với CNXH. Con đường chóng mà phải trải qua quá trình đấu<br /> này đã được Đảng ta khẳng định trong tranh gay go quyết liệt, lâu dài giữa cái<br /> <br /> <br /> 5<br /> Bản tin khoa học - Số 24 (QuýIV, 2013)<br /> <br /> xấu với cái tốt, giữa cái cũ với cái mới, nội tại trong lòng chế độ ấy: "Hiện nay,<br /> giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu, giữa cái chế độ tư bản có những mâu thuẫn to,<br /> suy tàn với cái phát triển, nhưng kết quả nó không giải quyết được. Một là nhà tư<br /> là cái mới, cái tiến bộ sẽ thắng, "Từ đời bản sản xuất hàng hóa quá nhiều, quá<br /> xưa đến nay, chế độ công cộng nguyên mau nhưng không bán hết được; vì công<br /> thuỷ sụp đổ do chế độ nô lệ thay thế. nhân thì nghèo khổ, lớp trung và tiểu tư<br /> Chế độ nô lệ sụp đổ do chế độ phong sản thì nhiều người đã phá sản. Hai là<br /> kiến thay thế. Chế độ phong kiến sụp đổ tính chất sản xuất là công cộng - hàng<br /> do chế độ tư bản thay thế. Đó là quy luật vạn người công nhân cùng làm ở một<br /> nhất định trong sự phát triển của xã hội. nhà máy. Mà tư liệu sản xuất thì nằm<br /> Lịch sử loài người là do người lao động trong tay một số ít người. Mâu thuẫn ấy<br /> sáng tạo ra, người lao động sáng tạo ra gây ra nạn thất nghiệp và nạn khủng<br /> của cải, luôn luôn nâng cao sức sản hoảng. Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa<br /> xuất. Sức sản xuất phát triển tức là xã (cộng sản chủ nghĩa) mới giải quyết<br /> hội phát triển. Chế độ nào phù hợp với được mâu thuẫn ấy"[2, tr.246]. Điều này<br /> sức sản xuất thì đứng vững. Nếu không đã được chứng minh một cách sinh động<br /> phù hợp thì giai cấp đại biểu của sức sản qua cuộc cách mạng tháng Mười Nga vĩ<br /> xuất mới sẽ nổi lên cách mạng lật đổ chế đại, khi Lênin áp dụng sáng tạo học<br /> độ cũ".[2, tr.246] thuyết Chủ nghĩa Mác vào tình hình cụ<br /> Việc giai cấp tư sản đứng lên làm thể nước Nga là làm cuộc cách mạng lật<br /> cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong đổ chế độ Nga Hoàng, đưa nước Nga<br /> kiến có nhiều yếu tố tích cực của nó và tiến theo con đường CNXH, biến CNXH<br /> hoàn toàn phù hợp với quy luật phát khoa học thành hiện thực, mở đầu thời<br /> triển của lịch sử xã hội, nhưng sau khi đại mới - thời đại quá độ tiến lên CNXH.<br /> giành được chính quyền thì giai cấp tư Hồ Chí Minh nhận xét "Trong thế giới<br /> sản thiết lập chế độ tư bản chủ nghĩa với bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là thành<br /> bộ máy Nhà nước theo đúng nghĩa là công và thành công đến nơi, nghĩa là<br /> một bộ máy trấn áp đặc biệt của giai cấp dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự<br /> này đối với giai cấp khác, của thiểu số do, bình đẳng thật, không phải tự do và<br /> đối với đa số. Một thiểu số người bóc lột bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa<br /> muốn tiền hành có kết quả việc trấn áp Pháp khoe khoang bên An Nam”. [1,<br /> đối với đa số người còn lại thì đương tr.280]<br /> nhiên phải hung ác, phải tàn bạo,... tất Hồ Chí Minh chỉ rõ, kể từ sau thắng<br /> cả chỉ nhằm mục đích là làm sao để đem lợi của cách mạng tháng Mười Nga vĩ<br /> lại lợi ích cao nhất cho thiểu số người đại, CNXH không chỉ còn là ước mơ cao<br /> đó, bất kể tất cả những bộ phận người đẹp của loài người mà đã trở thành hiện<br /> còn lại phải chịu khổ đau mất mát như thực trong xã hội và đang là phong trào<br /> thế nào. Rõ ràng chế độ đó đã trở nên cách mạng rộng lớn nhất trong lịch sử,<br /> phản động lạc hậu đối với sự phát triển bao gồm hàng ngàn triệu người vì hoà<br /> của lịch sử loài người. Nhận thức được bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ<br /> vấn đề này, sau khi khảo sát nghiên cứu, xã hội trên khắp trái đất.<br /> Hồ Chí Minh đã phát hiện ra sự hạn chế Vậy CNXH là gì? Theo tư tưởng Hồ<br /> trong các cuộc cách mạng tư sản trên Chí Minh: CNXH là một xã hội thực hiện<br /> thế giới hồi thế kỷ XVII, XVIII: "Cách sự tôn trọng và đề cao con người, bảo<br /> mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, đảm cho nhân cách của mỗi cá nhân<br /> nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh phát triển lành mạnh trong sự hài hoà<br /> không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân với xã hội,... CNXH được Hồ Chí Minh<br /> chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nói nhiều lần và nhiều cách khác nhau<br /> nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa".[1, nhưng tất cả đều chứa đựng nội dung<br /> tr.280] quan trọng: CNXH là con đường tất yếu<br /> Hơn ai hết, Hồ Chí Minh rất hiểu của các dân tộc trong thời đại ngày nay.<br /> bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa, Với câu hỏi trên, bằng ngôn ngữ rất Việt<br /> Người cũng thấy rõ những mâu thuẫn Nam, Người đã diễn đạt lại quan điểm<br /> <br /> 6<br /> của Lênin một cách rất ngắn gọn và dễ Tóm lại, con đường độc lập dân tộc<br /> hiểu "Cộng sản là gì? Lênin trả lời rất gắn liền với CNXH mà Hồ Chí Minh lựa<br /> đơn giản, vắn tắt: Cộng sản là nhà máy, chọn từ những năm 20 của thế kỷ XX là<br /> ruộng đất đều là của chung; lao động một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, nó<br /> cũng chung của toàn dân" [2, tr.243]. Và phù phợp với nguyện vọng ngàn đời của<br /> Người còn trả lời một cách tổng quát "Xã dân tộc Việt Nam – một dân tộc hòa<br /> hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng hiếu, nhân văn, nó cũng hoàn toàn phù<br /> tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là hợp với xu thế phát triển tất yếu của lịch<br /> CNXH”[4, tr.591]. Ngoài ra, Người còn sử nhân loại. Tính khoa học của sự lựa<br /> giải đáp một cách cụ thể hóa xã hội chủ chọn con đường tiến lên CNXH của Hồ<br /> nghĩa là "mọi người được ăn no mặc ấm, Chí Minh còn được chứng minh một<br /> sung sướng, tự do", là "làm cho mọi cách sinh động, hùng hồn bằng chính<br /> người dân được ấm no, hạnh phúc và thực tiễn cách mạng Việt Nam – một dân<br /> học hành tiến bộ" [4, tr. 97]. tộc từ trong bóng đêm của chế độ thực<br /> Qua hàng chục năm bôn ba ở dân phong kiến đã vùng lên đấu tranh<br /> nhiều nước tư bản và thuộc địa, bằng giành được những thắng lợi vĩ đại trong<br /> nhiều nghề lao động chân tay để kiếm thế kỷ XX và vươn lên thành một đất<br /> sống như làm phụ bếp trên tàu, quét nước phát triển toàn diện như hiện nay.<br /> tuyết, thợ ảnh... Hồ Chí Minh có điều Lịch sử nhân loại có thể phải trải<br /> kiện thâm nhập trực tiếp vào cuộc sống qua nhiều bước quanh co, phức tạp,<br /> của những người lao động, vào phong CNXH cho dù đang ở giai đoạn thoái<br /> trào công nhân. Quan sát chủ nghĩa tư trào, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của<br /> bản với sự tàn bạo của nó đối với những các quốc gia đang đi theo con đường<br /> dân tộc thuộc địa cũng như đối với giai CNXH hiện nay, sự trỗi dậy của phong<br /> cấp công nhân ngay ở chính quốc, kết trào cánh tả ở các nước Mỹ latinh từ<br /> hợp với việc tiếp thu Chủ nghĩa Mác - những năm đầu thế kỷ XXI càng củng cố<br /> Lênin thông qua ảnh hưởng của cách lòng tin mãnh liệt vào sự tất thắng của<br /> mạng tháng Mười Nga và đặc biệt là CNXH đồng thời chính là cơ sở khoa học<br /> thông qua nghiên cứu "Sơ thảo lần thứ và thực tiễn để một lần nữa chứng minh<br /> nhất những luận cương về vấn đề dân cho sự lựa chọn con đường đi lên CNXH<br /> tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin. Hồ của Hồ Chí Minh từ những năm 20 của<br /> Chí Minh đã đi đến lựa chọn con đường thế kỷ XX là hoàn toàn đúng đắn.<br /> cách mạng vô sản cho công cuộc giải TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> phóng dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả<br /> của quá trình khảo sát thực tiễn, nghiên [1] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2,<br /> cứu lý luận một cách kỹ lưỡng, công Nxb CTQG, Hà Nội.<br /> phu. Nói cách khác, đó là một sự lựa [2] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7,<br /> chọn hoàn toàn có cơ sở khoa học. Nxb CTQG, Hà Nội.<br /> Đúng như Đại tướng Võ Nguyên [3] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9,<br /> Giáp đã khẳng định: Công lao to lớn nhất Nxb CTQG, Hà Nội.<br /> của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã tìm ra [4] Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10,<br /> Nxb CTQG, Hà Nội.<br /> con đường giải phóng dân tộc, đó là con<br /> [5] Nguyễn Đức Bình (2003), Về Chủ<br /> đường cách mạng vô sản, là độc lập dân<br /> nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở<br /> tộc gắn liền với CNXH. Tìm ra con Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.<br /> đường giải phóng dân tộc thực sự là một [6] Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn<br /> phát hiện khoa học và hơn nữa rất sáng quốc gia, Uỷ ban Quốc gia Unesco của<br /> tạo mà trước đó chưa ai tìm thấy. Phát Việt Nam (1995), Hội thảo quốc tế: Chủ<br /> hiện đó đã thổi vào linh hồn người Việt tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng<br /> Nam vốn nhiều truyền thống tốt đẹp, kết dân tộc, Nhà văn hoá lớn, Nxb KHXH, Hà<br /> hợp với sức mạnh thời đại, đã làm nên Nội.<br /> nhiều kỳ tích rực rỡ trong lịch sử chống [7] Võ Nguyên Giáp (2000): Tư tưởng Hồ<br /> ngoại xâm, giành lại độc lập dân tộc và Chí Minh và con đường cách mạng Việt<br /> tiến lên CNXH [7; tr.6, tr.7, tr.268, tr.372] Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.<br /> <br /> 7<br /> Giới thiệu về ĐÀO TẠO NGHỀ<br /> Ở CỘNG HOÀ LIÊN BANG ĐỨC<br /> <br /> ThS. Đinh Văn Tuyên<br /> Phó Hiệu trƣởng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> T<br /> háng 10/2010, Đoàn công<br /> tác của Bộ Công Thương đi<br /> học tập kiến thức quản lý<br /> kinh tế của Cộng hoà Liên bang Đức<br /> (CHLB Đức). Tại thủ đô Berlin, đoàn<br /> được tham dự trao đổi các chuyên đề về<br /> Kinh tế thị trường mang tính xã hội tại Bộ<br /> Kinh tế và Công nghệ; Đào tạo nguồn<br /> nhân lực phục vụ Kinh tế thị trường<br /> mang tính xã hội (tại Bộ Giáo dục và<br /> Khoa học Đức, Phòng Công nghiệp và Ngành giáo dục của một bang<br /> Thương mại Berlin, Trường Đại học kỹ được quản lý trong một bộ riêng, thường<br /> thuật Berlin, hãng sản xuất ôtô có tên chung là Bộ Giáo dục và Văn hóa;<br /> Mercedes, hãng Volkswagen và Tập đây là cơ quan chức trách cao nhất của<br /> đoàn Metro Cash&Carry)… một bang đối với ngành giáo dục bang<br /> Qua thực tiễn, có nhiều kinh đó. Bộ Giáo dục và Văn hóa cùng Ban<br /> nghiệm hữu ích tại CHLB Đức mà Đoàn quản lý của mỗi nhà trường chịu trách<br /> đã tiếp thu được, chẳng hạn về đào tạo nhiệm về nhân sự đội ngũ giáo viên và<br /> nguồn nhân lực trong lĩnh vực đào tạo nội dung công việc ở các trường.<br /> nghề nghiệp; Xin giới thiệu cùng bạn đọc CHLB Đức là một trong những<br /> về công tác đào tạo nghề của nước bạn. quốc gia đã tạo được sự phát triển kinh<br /> tế - xã hội cao nhờ làm tốt chiến lược<br /> 1. Hệ thống đào tạo nghề kép ở<br /> phát triển nguồn nhân lực, trong đó hệ<br /> CHLB Đức<br /> thống đào tạo nghề kép được coi là mô<br /> CHLB Đức là quốc gia có chế độ hình đào tạo có hiệu quả, được công<br /> liên bang, giáo dục nằm trong thẩm nhận trên thế giới.<br /> quyền của mỗi bang. Ở Đức, theo quy Hệ thống đào tạo nghề kép là sự<br /> định của hiến pháp, toàn bộ ngành giáo phát triển trên hai nền tảng, kết hợp giữa<br /> dục chịu sự quản lý của nhà nước. việc học trong một môi trường có sự gần<br /> Nghĩa vụ bắt buộc đến trường được quy gũi với chuyên môn tại các công ty và<br /> định trong Hiến pháp các bang. Có sự nghiệp vụ dạy nghề của các trường;<br /> phân biệt giữa nghĩa vụ học phổ thông Theo đó, các công ty tập trung vào việc<br /> và nghĩa vụ học nghề. Nghĩa vụ học phổ cung cấp các kiến thức và kỹ năng thực<br /> thông kéo dài đến khi kết thúc năm thứ 9 tế, đặc biệt là kiến thức và kỹ năng phù<br /> đến trường. Nghĩa vụ học nghề là 3 hợp với công nghệ sản xuất của công ty<br /> năm, bắt đầu sau khi kết thúc nghĩa vụ đi đó; các nhà trường cung cấp khối kiến<br /> học phổ thông. thức lý thuyết về cơ bản.<br /> <br /> <br /> 8<br /> Bản tin khoa học - Số 24 (QuýIV, 2013)<br /> <br /> Hiện nay, trong chương trình học nghề nếu điểm thi chung đạt mức trung<br /> của hệ thống đào tạo nghề kép thì các bình trở lên. Hình thức đánh giá kết quả<br /> môn chuyên ngành chiếm 60% còn các đào tạo này nhằm đảm bảo tính khách<br /> môn đại cương chiếm 40% thời lượng. quan và kỹ năng cần thiết chung trong<br /> Các học sinh tham gia hệ thống này đào tạo giữa các trường và công ty; mục<br /> được dạy các kỹ năng cơ bản cho ngành đích là để các trường và công ty phải có<br /> nghề đã chọn và sau đó được đào tạo chương trình đào tạo sát thực tế và tổ<br /> chuyên sâu. Học sinh có thể theo học chức đào tạo thực chất.<br /> ngành của mình 3 ngày mỗi tuần tại Sau khi tốt nghiệp từ hệ thống đào<br /> công ty, những ngày còn lại học tại tạo nghề kép này, tình hình việc làm của<br /> trường nghề hoặc học sinh có thể sử học sinh nói chung tốt, phần lớn học sinh<br /> dụng nhiều thời gian hơn tại công ty, và xin được việc làm ngay. Theo báo cáo<br /> cũng có thể tham gia học ngoài giờ tại của Bộ Giáo dục và Khoa học Đức; sau<br /> trường nghề. 6 tháng học sinh tốt nghiệp, khoảng 60%<br /> Chương trình đào tạo học sinh tại học sinh nhận được việc làm với hợp<br /> các trường nghề do các trường tự xây đồng không hạn chế, 10% thất nghiệp,<br /> dựng. Các trường chủ động tổ chức 17% tham gia quân ngũ hoặc nhận hợp<br /> giảng dạy cho học sinh về các học phần đồng ngắn hạn và 13% tham gia đào tạo<br /> lý thuyết, chứng minh cho học sinh hiểu tiếp; khoảng 80% học sinh tốt nghiệp học<br /> và hướng dẫn kỹ năng thực hành theo lý nghề được ở lại làm việc tại công ty đã<br /> thuyết; tổ chức thi tốt nghiệp, cấp chứng đào tạo.<br /> nhận tốt nghiệp về lý thuyết chương trình Như vậy, có thể nhận thấy hệ thống<br /> đào tạo cho học viên. đào tạo nghề kép của CHLB Đức mang<br /> Chương trình đào tạo học sinh tại tính tách biệt giữa đào tạo lý thuyết ở<br /> công ty do các công ty trực tiếp xây các trường với đào tạo thực hành ở các<br /> dựng. Công ty chủ động từ quá trình lựa công ty, cũng như tính tách biệt về tự<br /> chọn học viên cho đến duy trì một đánh giá kết quả đào tạo của các trường<br /> chương trình học hiện đại, kiểm soát và các công ty. Điều này có ý nghĩa<br /> chất lượng và tổ chức thi tốt nghiệp, cấp mang tính chuyên sâu trong đào tạo lý<br /> chứng nhận tốt nghiệp về mặt thực hành thuyết ở các trường và đào tạo thực<br /> cho học viên. hành ở các công ty, học sinh chỉ được<br /> công nhận tốt nghiệp khi đáp ứng các<br /> yêu cầu khắt khe của việc đánh giá về<br /> kiến thức và kỹ năng trong mặt bằng<br /> chung.<br /> 2. Giáo viên làm nhiệm vụ đào<br /> tạo tại công ty và tại trƣờng<br /> Một yếu tố chủ chốt tạo ra hiệu quả<br /> cao của hệ thống đào tạo nghề kép ở<br /> Đức là chất lượng của giáo viên trong cả<br /> Việc tổ chức thi tốt nghiệp và cấp hai bộ phận, tại trường nghề và tại công<br /> bằng nghề không do các trường tự tổ ty. Khả năng cung cấp các giáo viên có<br /> chức mà do Bộ Giáo dục và Văn hóa các chất lượng cao là một tiêu chuẩn chính<br /> bang thực hiện. Học viên các trường yếu, cho phép các trường và công ty<br /> nghề thuộc bang được tổ chức thi chung thực hiện quá trình đào tạo trong hệ<br /> (lý thuyết và thực hành) từng đợt trong thống đào tạo kép.<br /> năm theo đúng nghề được đào tạo. Một Các giáo viên làm nhiệm vụ đào tạo<br /> học sinh được dự thi khi bản thân có tại công ty được lựa chọn từ các xưởng<br /> chứng nhận tốt nghiệp về lý thuyết do và phòng làm việc của nội bộ công ty và<br /> một trường cấp và chứng nhận tốt phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm làm<br /> nghiệp về thực hành do một công ty cấp, việc. Họ còn phải là những người có đủ<br /> được công nhận tốt nghiệp và cấp bằng năng lực sư phạm và chuyên môn để<br /> <br /> <br /> 9<br /> Bản tin khoa học - Số 24 (QuýIV, 2013)<br /> <br /> tham gia giảng dạy. Các yêu cầu chuyên và phải biết nắm bắt các thành tích của<br /> môn là một chứng chỉ thợ chính thức của học sinh trên cơ sở các thước đo đánh<br /> ngành cộng với 1,5 năm đào tạo thêm tại giá minh bạch.<br /> các lớp học buổi tối của trường kỹ thuật Lĩnh vực năng lực đổi mới và phát<br /> và kỳ thi tốt nghiệp, xác nhận trình độ về triển: Yêu cầu giáo viên phải biết liên tục<br /> cả chuyên môn lẫn sư phạm. Đối với phát triển tiếp tục các năng lực của<br /> những người được lựa chọn làm giáo mình; ý thức được các yêu cầu đặc biệt<br /> viên, họ có quyền lợi đi kèm là được của nghề giáo viên; hiểu nghề mình như<br /> chuyển hẳn từ vị trí sản xuất như là là một viên chức công với trách nhiệm và<br /> “công nhân cổ xanh” sang vị trí làm việc nghĩa vụ đặc biệt; hiểu nghề của mình<br /> của tầng lớp “nhân viên cổ trắng”, với 20 như là nhiệm vụ học thường xuyên cũng<br /> giờ dạy trong một tuần, thay cho khoảng như biết tham gia vào việc lập kế hoạch<br /> thời gian tăng gấp đôi làm việc tại nơi và triển khai các dự án, dự định của nhà<br /> sản xuất. Những quyền lợi này là động trường.<br /> cơ cho phép lớp trẻ tham gia đội ngũ Trong quá trình hoạt động nghề<br /> giảng dạy tại hệ thống đào tạo nghề kép nghiệp, giáo viên được tham gia bồi<br /> Tại các trường nghề, chuẩn đào tạo dưỡng nhằm mở rộng và củng cố những<br /> giáo viên được sử dụng như một công kiến thức, khả năng tiếp thu được trong<br /> cụ để đảm bảo chất lượng đào tạo. đào tạo và thực tiễn nghề nghiệp, cũng<br /> Chuẩn tạo ra sự rõ ràng về mục tiêu và như giúp thích ứng về nội dung với các<br /> nền tảng cho việc kiểm tra có hệ thống điều kiện khung và yêu cầu nghề nghiệp<br /> việc đạt mục tiêu. Chuẩn đào tạo giáo đang thay đổi. Nghĩa vụ tham gia bồi<br /> viên được xây dựng dựa trên mô hình dưỡng của các giáo viên cũng được quy<br /> năng lực nghề nghiệp giáo viên, bao định trong luật nhà trường của một số<br /> gồm những lĩnh vực năng lực sau: bang.<br /> Lĩnh vực năng lực dạy học: Yêu Như vậy, có thể nhận thấy giáo<br /> cầu giáo viên phải biết lập kế hoạch dạy viên làm nhiệm vụ đào tạo tại công ty và<br /> học phù hợp với chuyên môn, công việc tại trường nghề của CHLB Đức phải là<br /> và tiến hành nó khách quan, cụ thể về những người có nền kiến thức chuyên<br /> chuyên môn; phải biết hỗ trợ việc học môn lẫn sư phạm giỏi trên cơ sở các lĩnh<br /> của học sinh qua việc tổ chức các tình vực năng lực, đồng thời trong quá trình<br /> huống học; động viên học sinh và tạo giảng dạy luôn luôn được bồi dưỡng để<br /> cho họ năng lực thiết lập các mối liên hệ cập nhật kiến thức, kỹ năng mới phù hợp<br /> và vận dụng kiến thức đã học, cũng như với thực tiễn cuộc sống.<br /> khuyến khích các khả năng tự quyết định<br /> học và làm việc. TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> Lĩnh vực năng lực giáo dục: Yêu<br /> [1] Bộ Kinh tế và Công nghệ CHLB Đức<br /> cầu giáo viên phải biết các điều kiện (2010), Tài liệu bồi dưỡng "Chuyên đề<br /> sống về xã hội và văn hóa của học sinh Kinh tế thị trường mang tính xã hội".<br /> và tác động đến sự phát triển cá nhân [2] Bộ Giáo dục và Khoa học Đức<br /> của họ trong khuôn khổ nhà trường; phải (2010), Tài liệu bồi dưỡng "Chuyên đề<br /> biết truyền đạt các giá trị, chuẩn mực và Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ Kinh tế<br /> hỗ trợ việc đánh giá, hành động tự quyết thị trường mang tính xã hội".<br /> của học sinh cũng như tìm ra các giải [3] Trường Đại học kỹ thuật Berlin.<br /> pháp tiếp cận cho những khó khăn và (2010), Tài liệu bồi dưỡng "Chuyên đề<br /> xung đột trong nhà trường và giờ học. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ Kinh tế<br /> Lĩnh vực năng lực đánh giá: Yêu<br /> thị trường mang tính xã hội".<br /> cầu giáo viên phải biết thực thi nhiệm vụ [4] Hãng sản xuất ôtô Volsvagen (2010),<br /> đánh giá của mình một cách công bằng Tài liệu bồi dưỡng "Chuyên đề Đào tạo<br /> và có ý thức trách nhiệm; chẩn đoán các nguồn nhân lực phục vụ Kinh tế thị<br /> tiền đề và quá trình học tập của học sinh; trường mang tính xã hội",<br /> khuyến khích học sinh học có mục đích;<br /> tư vấn cho người học, cha mẹ học sinh<br /> <br /> 10<br /> Bản tin khoa học - Số 24 (QuýIV, 2013)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN THÀNH CÔNG CỦA<br /> <br /> <br /> TRONG NGHIÊN CỨU ĐỊNH LƢỢNG<br /> <br /> ThS. Tống Phƣớc Phong<br /> Khoa Quản trị kinh doanh<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2. Nội dung<br /> Có một số phương pháp phổ biến<br /> và công cụ thông dụng để thu thập dữ<br /> liệu trong nghiên cứu định tính, đó là<br /> 1. Đặt vấn đề<br /> thảo luận tay đôi (in-deep interviews),<br /> Sẽ là quá đơn giản khi cho rằng sự thảo luận nhóm (focus groups), quan sát<br /> thành công của một cuộc điều tra phỏng (observations). Đối với nghiên cứu định<br /> vấn chỉ dựa vào sự hợp tác giữa người lượng trong marketing và quản trị có hai<br /> được hỏi (được phỏng vấn) và người phương pháp chính, đó là khảo sát<br /> phỏng vấn, khả năng lựa chọn người để (survey method) và thử nghiệm<br /> hỏi của người phỏng vấn. Một cuộc (experimentation); với công cụ thu thập<br /> phỏng vấn là kết quả cuối cùng của rất dữ liệu chủ yếu là phỏng vấn: phỏng vấn<br /> nhiều yếu tố hữu hình, vô hình, việc hợp trực diện (face to face), gửi thư (mail<br /> tác tốt trước khi người phỏng vấn và survey) và qua mạng internet (electronic<br /> người được phỏng vấn gặp nhau. Bài survey).<br /> viết này làm rõ trách nhiệm của người Quá trình phỏng vấn điều tra chịu<br /> quản lý một cuộc khảo sát theo hình tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau làm<br /> thức điều tra phỏng vấn, phải hiểu được ảnh hưởng đến chất lượng và kết quả<br /> các yếu tố trên, phân tích chúng, xác của cuộc điều tra khảo sát. Nhiều nghiên<br /> định các yếu tố ảnh hưởng lớn nhất cứu của các tác giả nước ngoài cho<br /> trong mỗi môi trường; từ đó đào tạo, bồi rằng, ba yếu tố rõ ràng có ảnh hưởng<br /> dưỡng các phỏng vấn viên để họ có thể đến thành công của một cuộc phỏng vấn<br /> xử lý tốt nhằm đem lại kết quả cao nhất điều tra đó là: (1) môi trường xã hội, (2)<br /> cho cuộc khảo sát. thiết kế điều tra, và (3) trạng thái tâm lý<br /> Với những lý do khách quan và chủ của người được mời tham gia phỏng vấn.<br /> quan khác nhau, bài viết chỉ đề cập đến<br /> 2.1. Môi trường xã hội<br /> những yếu tố ảnh hưởng đến việc tham<br /> gia điều tra phỏng vấn theo cách tiếp cận Hai thành phần (factors) thuộc môi<br /> tổng quan, sâu sát hơn trong phỏng vấn trường này có ảnh hưởng tới việc tham<br /> điều tra của nghiên cứu định lượng. gia điều tra, đó là: trách nhiệm xã hội và<br /> liên kết xã hội. Các yếu tố này mô tả môi<br /> <br /> 11<br /> Bản tin khoa học - Số 24 (QuýIV, 2013)<br /> <br /> trường mà cuộc điều tra tiến hành. Trách Tiền thưởng nhằm khuyến khích<br /> nhiệm xã hội đề cập đến nhận thức và tham gia điều tra. Mặc dù tiền thưởng<br /> hành động của người quản lý, những đối dường như không bóp méo chất lượng<br /> tượng liên quan cuộc phỏng vấn điều tra dịch vụ; tuy nhiên, việc sử dụng tiền<br /> đối với xã hội. Liên kết xã hội đề cập đến thưởng nhằm khuyến khích tham gia<br /> tính kết nối, tương tác của các đối tượng điều tra đã được chứng minh là sẽ phản<br /> tham gia phỏng vấn tác động đến sự tác dụng nếu việc tham gia điều tra<br /> thành công của cuộc điều tra. Trong khi không được đảm bảo trong lần gặp đầu<br /> trách nhiệm xã hội mang tính đơn lẻ, cá tiên. Trong các cuộc điều tra kinh doanh<br /> nhân thì liên kết xã hội mang tính cộng thì nên sử dụng các biện pháp khuyến<br /> đồng, quy mô. (Groves, Cialdini, Couper khích phi tiền tệ như là tặng sách hoặc<br /> 1992). các tài liệu khác; trong đó nêu bật những<br /> lợi ích thực tế của cuộc điều tra đối với<br /> 2.2. Thiết kế điều tra<br /> các cá nhân trả lời phỏng vấn, nhấn<br /> Thiết kế điều tra đòi hỏi phải có mạnh việc sử dụng nguồn dữ liệu thu<br /> nhiều lựa chọn khác nhau về phương thập được và ảnh hưởng của các cuộc<br /> pháp điều tra, đơn vị điều tra và tính điều tra trước đó.<br /> cách của người phỏng vấn và những yếu Thời điểm thực hiện phỏng vấn là<br /> tố liên quan khác nhằm thu hút sự tham một yếu tố cần được lưu ý khi lên lịch<br /> gia vào các cuộc điều tra, trong đó có hẹn gặp. Cần tránh phỏng vấn ở các thời<br /> điều tra thị trường, khách hàng; điều tra điểm như khi đang làm việc, trong ngày<br /> xã hội học. Chất lượng của phương lễ, hoặc thời kỳ kinh tế suy thoái. Vì như<br /> pháp điều tra chịu ảnh hưởng bởi vậy, có thể làm cho người phỏng vấn<br /> phương thức điều tra ban đầu, độ dài gặp khó khăn hơn và có thể có phản ứng<br /> cuộc phỏng vấn, và chủ đề của cuộc tiêu cực từ những người được phỏng<br /> điều tra. Những người phỏng vấn sử vấn.<br /> dụng những chiến lược khác nhau như Độ dài của bảng hỏi gắn liền với<br /> một phương thức liên lạc đầu tiên nhằm thời gian phỏng vấn, cũng là một yếu tố<br /> thúc đẩy tham gia điều tra. Các chiến khác đôi khi có ảnh hưởng đến sự thành<br /> lược này liên quan đến việc sử dụng công của cuộc phỏng vấn. Bảng hỏi quá<br /> những thư giới thiệu, tiền thưởng, cung dài được cho là tạo nên gánh nặng đối<br /> cấp sách hoặc tài liệu khác và thời điểm với người được phỏng vấn. Một trong<br /> thực hiện phỏng vấn. những lý do phổ biến nhất khiến người<br /> Vẫn chưa có kết luận rõ ràng là được mời phỏng vấn từ chối hợp tác<br /> việc sử dụng các thư giới thiệu có đem điều tra là bởi họ có cảm tưởng rằng<br /> lại kết quả tích cực đối việc thu hút tham việc tham gia điều tra làm lãng phí thời<br /> gia điều tra hay không. Tuy nhiên, theo gian của họ. Một vấn đề nữa mà các nhà<br /> Dillman, Gallegos, và Frey (1976), quản lý điều tra cần quan tâm đó là mục<br /> những bức thư này làm tăng thêm sự đích của cuộc điều tra. Một khi, nó không<br /> hưởng ứng của người được phỏng vấn. thu hút được sự quan tâm của người<br /> Vì vậy, nên khuyến khích việc sử dụng được mời tham gia phỏng vấn thì họ có<br /> những bức thư để giới thiệu vấn đề điều thể trả lời là không có đủ thời gian để<br /> tra sắp tới và để tạo cơ sở pháp lý cho tham gia.<br /> cuộc điều tra. Những bức thư giới thiệu Độ dài của bảng hỏi điều tra có tác<br /> chỉ nên được sử dụng để thông báo động đến người được phỏng vấn, chính<br /> trước và nhằm xây dựng cơ pháp lý cho xác hơn là tác động đến việc tham gia<br /> cuộc điều tra. Thư nên nêu rõ mục đích điều tra. Có trường hợp người được mời<br /> cuộc điều tra nhằm thu hút sự quan tâm, phỏng vấn từ chối hợp tác nếu họ cho<br /> đồng thời đề cập đến những đặc điểm rằng cuộc phỏng vấn diễn ra quá lâu, khi<br /> đáng chú ý và lợi ích thực tế của cuộc họ tham gia, sự mệt mỏi sẽ làm sai lệch<br /> điều tra. Trong thư giới thiệu nên nói đến độ chính xác của thông tin mà họ cung<br /> việc người phỏng vấn sẽ gọi điện tới để cấp trong cuộc phỏng vấn kéo dài đó.<br /> sắp xếp một cuộc hẹn.<br /> <br /> 12<br /> Bản tin khoa học - Số 24 (QuýIV, 2013)<br /> <br /> Chủ đề của cuộc phỏng vấn cũng Hình thức và kinh nghiệm làm việc<br /> ảnh hưởng đến thành công của cuộc của người phỏng vấn sẽ ảnh hưởng đến<br /> điều tra. Chủ đề nên liên quan đến mục quyết định tham gia của người được yêu<br /> đích nghiên cứu, không nên tạo cho cầu phỏng vấn. Ấn tượng ban đầu, kinh<br /> người được phỏng vấn hay trả lời bảng nghiệm làm việc (như kỹ năng, sự tự<br /> hỏi có cảm giác lo ngại, thiếu yên tâm; tin,…) sẽ cho thấy cách người phỏng<br /> không nên đề cập đến vấn đề cá nhân, vấn giải quyết các tình huống khó khăn<br /> những vấn đề liên quan đến bí mật kinh và thu hút sự quan tâm của người được<br /> doanh. tham gia phỏng vấn. Đối với sinh viên,<br /> Đặc điểm của người được mời những phỏng vấn viên làm việc bán thời<br /> tham gia phỏng vấn như: tuổi, giới tính, gian (part - time) thì người quản lý cần<br /> thu nhập, tình trạng sức khỏe, trình độ được cảnh báo về sự quá tin tưởng vào<br /> học vấn, đặc điểm địa lý của nơi cư trú, các sinh viên, trẻ về tuổi đời có thể sẽ<br /> các kinh nghiệm có được và sự nhàm tạo ra những khó khăn khi phỏng vấn.<br /> chán đối với các cuộc điều tra là tất cả Kinh nghiệm thực tế cho thấy<br /> các yếu tố cần được xem xét. Những những dự tính và tâm trạng của những<br /> yếu tố này ảnh hưởng đến thái độ và sự người phỏng vấn có ảnh hưởng tới sự<br /> hợp tác của người được mời tham gia hợp tác của người được mời tham gia<br /> phỏng vấn. Yếu tố tâm lý rất quan trọng điều tra và độ chính xác của thông tin thu<br /> trong việc khuyến khích tham gia phỏng thập được. Những người phỏng vấn cho<br /> vấn. Động cơ đầu tiên là mong muốn là cuộc điều tra sẽ gặp khó khăn thì cũng<br /> được tự thể hiện bản thân mình. Người sẽ có ảnh hưởng nhất định dù nhỏ đối<br /> ta thường có được sự thỏa mãn trong với số lượng người đồng ý trả lời phỏng<br /> việc thể hiện những ý kiến của bản thân vấn. Như vậy, điều quan trọng đối với sự<br /> về các chủ đề mà mình quan tâm. Đôi thành công của một cuộc điều tra không<br /> khi lòng mong muốn giúp đỡ người chỉ đơn giản là phải đào tạo tất cả các<br /> phỏng vấn hoàn thành nhiệm vụ và sự phỏng vấn viên mà còn hiểu được khía<br /> hài lòng với vị trí là người được phỏng cạnh tâm lý thúc đẩy họ tham gia tích<br /> vấn sẽ là nguồn tích cực khuyến khích cực vào cuộc điều tra. Tuy nhiên, cũng<br /> những người được mời quyết định tham có cả những yếu tố tiêu cực làm giảm sự<br /> gia. Tuy nhiên, cũng có những yếu tố có nhiệt tình của người phỏng vấn đối với<br /> tác động tiêu cực đến suy nghĩ của cuộc điều tra như sự thất vọng về tiền<br /> người được mời tham gia phỏng vấn. Lo lương, tiền công, các chi phí, tâm lý bị<br /> lắng sự xâm phạm đời tư một cách rõ giám sát, tâm trạng mệt mỏi, lo sợ, cảm<br /> ràng, thái độ bực bội đối với phỏng vấn giác chán nản khi đi tìm địa chỉ người<br /> viên có thể cản trở sự hợp tác điều tra. đư
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0