Vai trò của giảng viên đại học đối với đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số
lượt xem 0
download
Bài viết bàn về vai trò của giảng viên đại học đối với việc đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay: không ngừng trau dồi kiến thức sâu rộng về chuyên môn, ngoại ngữ và công nghệ thông tin; luôn đổi mới phương pháp giảng dạy tích cực theo hướng tiếp cận năng lực khoa học và phẩm chất nghề nghiệp tương lai của sinh viên; luôn đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá một cách hiệu quả theo hướng đánh giá năng lực tư duy của sinh viên.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Vai trò của giảng viên đại học đối với đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số
- Vai trò của giảng viên đại học đối với đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số Lê Thị Son Tóm tắt Có thể nói, chuyển đổi số là xu hướng tất yếu trong giáo dục đại học Việt Nam hiện nay nhằm đáp ứng được yêu cầu mới của việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng sáng tạo, tiếp thu nhanh trình độ khoa học công nghệ trên thế giới phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định phải đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đại học. Chuyển đổi số đã cung cấp những công cụ số hỗ trợ đổi mới giáo dục, đào tạo theo hướng tích cực, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập, tăng khả năng tự học, tự nghiên cứu; tạo cơ hội học tập ở mọi lúc, mọi nơi và học tập suốt đời. Để làm được điều đó thì cần rất nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến vai trò của đội ngũ giảng viên. Bài viết bàn về vai trò của giảng viên đại học đối với việc đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay: không ngừng trau dồi kiến thức sâu rộng về chuyên môn, ngoại ngữ và công nghệ thông tin; luôn đổi mới phương pháp giảng dạy tích cực theo hướng tiếp cận năng lực khoa học và phẩm chất nghề nghiệp tương lai của sinh viên; luôn đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá một cách hiệu quả theo hướng đánh giá năng lực tư duy của sinh viên. Từ khóa: chuyển đổi số, đại học, giảng viên, nguồn nhân lực. 1. Đặt vấn đề Xã hội loài người đi vào thế kỷ XXI với xu thế toàn cầu hóa, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, trong đó công nghệ thông tin giữ một vai trò hết sức quan trọng trong mọi lĩnh vực. Xu thế ấy đã đưa thế giới bước sang một giai đoạn mới với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức. Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, làm cho tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề cũng có những thay đổi tất yếu. Giáo dục nhằm cung cấp cho xã hội nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thời đại và sự hội nhập quốc tế, vì vậy cũng phải có những thay đổi nhanh chóng và quyết liệt. Giáo dục thế kỷ XXI với tư tưởng chủ đạo lấy “học tập suốt đời” làm nền móng, xây dựng trên 4 trụ cột của giáo dục “học để biết, học để làm, học để cùng nhau chung sống và học để làm người”. Điều đó đòi hỏi hệ thống giáo dục phải mềm dẻo, đa dạng, linh hoạt để tạo cơ hội học tập cho tất cả mọi người, tạo nên một xã hội học tập và học tập suốt đời, và giáo dục đại học cần có những thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu mới của thời đại để đào tạo nên những con người “vừa hồng vừa chuyên” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với những quan điểm, cách tiếp cận mới về giáo dục, dựa trên quan điểm chung của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục, giáo dục đại học, người giảng viên đại học cũng cần có sự thay đổi tư duy trong giảng dạy với những vai trò và nhiệm vụ phù hợp thực tiễn và yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái quát về chuyển đổi số trong giáo dục đại học Có nhiều định nghĩa khác nhau về chuyển đổi số nhưng có thể nói một cách đơn giản thì chuyển đổi số là “sự thay đổi về cách thức hoạt động của một tổ chức nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ bằng cách khai thác ứng dụng công nghệ và dữ liệu”. Đối với giáo dục đại 936
- học, mục tiêu này chính là nâng cao hiệu lực hiệu quả quản trị, nâng cao chất lượng đào tạo, phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Về bản chất, chuyển đổi số không thay đổi giá trị cốt lõi hay mô hình của một tổ chức giáo dục đại học mà là sự chuyển đổi hoạt động cốt lõi thông qua công nghệ và nền tảng số, đồng thời nắm bắt các cơ hội mà chúng mang lại. Nói cách khác, chuyển đổi số là sự giao thoa giữa công nghệ và chiến lược đào tạo (Vũ Hải Quân, 2021). Khái quát lại, chuyển đổi số là chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế giới thực sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng. Theo đó, mọi người tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp về không gian, tiết kiệm về thời gian. Chuyển đổi số là xu thế tất yếu, diễn ra rất nhanh đặc biệt trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Trên thế giới, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2015, phổ biến từ năm 2017. Ở Việt Nam, chuyển đổi số bắt đầu được nhắc đến nhiều vào khoảng năm 2018. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia vào ngày 03/6/2020. Chuyển đổi số là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, có được nhờ vào sự tiến bộ vượt bậc của những công nghệ mới mang tính đột phá, nhất là công nghệ số. Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Chuyển đổi số trong giáo dục có thể được hiểu là quá trình thay đổi tổng thể, toàn diện cách thức giảng dạy, học tập, quản lý trong giáo dục. Chuyển đổi số trong giáo dục đại học cũng là một tất yếu khách quan vì những lý do sau: góp phần tích cực vào việc hỗ trợ thầy cô trong việc giảm tải một số công việc như điểm danh, chấm bài, sử dụng các ứng dụng công nghệ hiện đại để làm sinh động bài giảng… Chuyển đổi số giúp cho sinh viên có tài liệu học tập hiệu quả, đang dạng hóa hình thức học tập, cập nhật yêu cầu nhiệm vụ nhanh chóng thuận lợi. Chuyển đổi số còn giúp các nhà quản lý thực hiện công việc một cách thuận tiện, nhanh chóng. Chính vì những lý do đó mà các trường đại học đang tích cực thực hiện chuyển đổi số, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và khẳng định thương hiệu cho bản thân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học hiện nay, chúng ta dễ dàng nhận thấy được những mặt tích cực và khó khăn nhất định. Cụ thể: Thứ nhất, mặt tích cực khi thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học Một là, trọng tâm chuyển đổi số trong giáo dục đại học là phát triển các phần mềm ứng dụng, có thể giải quyết các bài toán giảng dạy, học tập và vận hành một trường đại học sao cho hiệu quả hơn, nhanh hơn và chính xác hơn. Hiện nay, việc chuyển đổi số rất thuận lợi vì có rất nhiều công nghệ tốt, hạ tầng tốt, nhân lực tốt, đội ngũ giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ... hầu hết là trí thức bậc cao tận tụy với công việc trong các trường đại học một động lực quan trọng cho quá trình chuyển đổi số. Hai là, chuyển đổi số giúp cho người dạy và người học nhanh chóng thích nghi và sử dụng những phương thức mới, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong dạy và học, sử dụng công cụ đánh giá và đối sánh chất lượng theo thông lệ quốc tế để đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu đổi mới giáo dục. Ba là, chuyển đổi số còn giúp các giảng viên xây dựng hệ thống bài giảng B-learning, E-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, đề thi, ghi âm, ghi hình bài giảng... góp phần làm sinh động nội dung giảng viên muốn truyền tải đến người học. Chuyển đổi số hỗ trợ đắc lực cho giảng viên trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, chuyển từ chủ yếu truyền đạt tri thức sang những phương pháp giảng dạy tích cực, có sử dụng các ứng dụng hiện đại giúp cho bài 937
- giảng thêm sinh động, kết hợp được nhiều cách thức tương tác đến người học khác nhau thông qua nghe, nhìn, cảm nhận, từ đó sinh viên có thể phát huy tối đa các năng lực nhớ, hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo từ chính phương pháp mà giảng viên cung cấp cho họ. Chuyển đổi số nhằm đáp ứng nhu cầu học tập linh hoạt về thời gian và địa điểm của người học. Các giảng viên có thể sử dụng công nghệ để thiết kế bài giảng E- learning mang nội dung hàn lâm, cũng có thể thiết kế những video dạy nghề, thực hiện thí nghiệm, thực hành, diễn thuyết,… Công nghệ giúp cho tri thức, kinh nghiệm của người thầy không chỉ gói gọn trong khuôn viên trường đại học mà có thể được phổ biến rộng rãi toàn cầu. Điều này vừa đáp ứng nhu cầu của một bộ phận người học, vừa tạo thêm những cơ hội về việc làm, thu nhập cho giảng viên. Bốn là, chuyển đổi số giúp sinh viên tra cứu tài liệu phục vụ môn học thuận lợi với nguồn dữ liệu khổng lồ từ các sinh viên khác cùng trường hoặc từ các trường đại học khác trên thế giới, kiến thức rất cập nhật và rộng mở, rất tiện lợi về thời gian và không phụ thuộc vào địa điểm. Sinh viên dễ dàng học hỏi nâng cao trình độ đáp ứng và thích nghi nhanh với xã hội. Việc tra cứu kết quả học tập, lịch học, lịch thi, đóng học phí... có thể thực hiện online một cách thuận tiện không mất thời gian công sức của sinh viên. Năm là, chuyển đổi số giúp áp dụng phần mềm trong quản lý đào tạo, đánh giá, xây dựng ngân hàng câu hỏi, giảng dạy bằng máy chiếu,… song để thực sự khai thác nguồn dữ liệu khổng lồ, tiếp cận với những tri thức mới cập nhật, vận dụng hiệu quả các phần mềm hỗ trợ giảng dạy và học tập thì các trường đại học cần có mạng internet rộng khắp, sinh viên và giảng viên cần có thiết bị kết nối, hệ thống nguồn điện, phòng học đồng bộ, môi trường và cơ sở để thực hành… Những điều này đang là thách thức lớn với một số trường đại học hiện nay. Thứ hai, một số khó khăn khi thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục đại học Một là, việc nhận thức đúng tầm quan trọng và xu hướng tất yếu của sự phát triển trong giáo dục đại học để triển khai thực hiện nhiệm vụ mới sẽ gặp không ít khó khăn, bởi đây là việc chưa có tiền lệ, khi triển khai những vấn đề mới mẻ thường sẽ vấp phải những sự phản đối, những ý kiến trái chiều nhất là đối với một số trường đại học công lập vẫn còn làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân quản lý. Công tác tuyên truyền, phổ biến nhận thức về chuyển đổi số để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội chưa được triển khai sâu rộng; nhận thức của một bộ phận cán bộ quản lý, viên chức, giảng viên chưa có sự chuyển biến, chưa hiểu, chưa thấy được hiệu quả của công cuộc chuyển đổi số trong hoạt động điều hành; người dân và doanh nghiệp chưa có nhu cầu và chưa thấy được lợi ích khi tham gia chuyển đổi số. Hai là, thay đổi thói quen cũng là một trong những khó khăn, bởi cả giảng viên, sinh viên và những người quản lý đã quen với môi trường thực trong suốt nhiều thế kỷ. Chuyển sang môi trường số là thay đổi thói quen mà thay đổi thói quen là việc khó, là việc phải thực hiện lâu dài, thay đổi dần từng bước. Tuy nhiên, việc chuyển đổi số lại là việc cần làm nhanh đầu tiên, phải thay đổi thói quen của những người nắm giữ vị trí lãnh đạo sau đó là các giảng viên và sinh viên. Ba là, nhiều hành vi sai phạm mới cũng xuất hiện cùng với quá trình chuyển đổi số như: tình trạng thiết lập trang web ảo, mạo danh, trang web với những nội dung xuyên tạc, phản động… không hề ít và nội dung thay đổi từng ngày, từng giờ khiến cho giảng viên cũng rất khó kiểm soát. Các thông tin bảo mật về đề thi, thông tin cá nhân, tài khoản của giảng viên luôn đứng trước những nguy cơ bị hack. Nhiều câu chuyện liên quan đến giảng viên bị phản ánh sai sự thật, lan truyền trên mạng một cách thiếu kiểm soát gây ra dư luận không tốt, ảnh hưởng đến 938
- công việc và đời sống của giảng viên. Những chiêu trò lừa đảo, những vụ ăn hiếp, bắt nạt trên mạng, những trang của các nhóm hận thù và những trang của các nhóm khủng bố cũng xuất hiện. Việc tìm kiếm thông tin dễ dàng nhưng mỗi lần tìm kiếm có thể hiển thị hàng triệu kết quả khác nhau khiến cho sinh viên không biết nên lấy tài liệu từ nguồn nào. Vì vậy, giảng viên phải làm nhiệm vụ định hướng cho sinh viên, họ cũng phải dành thời gian truy cập, tìm kiếm thường xuyên để cập nhật thông tin và hướng dẫn cho sinh viên những trang web nào cung cấp tài liệu đáng tin cậy (Nguyễn Bình Huy và những người khác, 2023). 2.2. Vai trò của giảng viên đại học đối với việc đào tạo nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số Theo tác giả, để có thể thực hiện tốt vai trò của mình trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, bản thân mỗi giảng viên cần phải làm tốt một số việc trọng tâm sau đây: Thứ nhất, người giảng viên phải không ngừng trau dồi kiến thức sâu rộng về chuyên môn, ngoại ngữ và công nghệ thông tin Trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện nay, mỗi người giảng viên bên cạnh việc tinh thông về chuyên môn thì cần phải có kiến thức liên ngành, khả năng ngoại ngữ để có thể nghiên cứu, nắm bắt được những kiến thức và thông tin mới và đặc biệt là phải nắm bắt kịp sự phát triển của khoa học công nghệ nhằm phục vụ tốt cho quá trình giảng dạy của mình, từ đó kích thích sinh viên nỗ lực tìm tòi, nghiên cứu. Để làm được điều đó thì bản thân mỗi giảng viên phải thường xuyên tự bồi dưỡng, tự cập nhật những kiến thức cần thiết cho mình, tích cực trong nghiên cứu khoa học, đồng thời giảng viên phải biết khai thác, sử dụng thành thạo các thiết bị công nghệ theo yêu cầu công việc. Khả năng vận hành thiết bị công nghệ biểu hiện trước hết là việc nhận biết chức năng và tính năng của công nghệ, lựa chọn các phần mềm công nghệ hỗ trợ hiệu quả cho yêu cầu công việc; phải có khả năng vận hành thiết bị công nghệ, kỹ năng sử dụng các phần mềm công nghệ, đáp ứng yêu cầu công việc. Đối với giảng viên, việc sử dụng thành thạo các tính năng tiếp cận, khai thác và chuyển tải thông tin là điều kiện để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong bối cảnh chuyển đổi số diễn ra trong các trường đại học hiện nay. Thế giới thay đổi từng ngày, mỗi sự kiện, hiện tượng trong thế giới ngày nay cũng luôn thay đổi. Người giảng viên không thể nằm ngoài những sự kiện chính trị sôi động đó nên bản thân họ phải thường xuyên cập nhật những tri thức, thông tin mới, công nghệ mới là điều hết sức cần thiết. C.Mác đã từng nói “Chính những con người đã làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục” (C.Mác và Ph.Ăngghen 1995, 10). Thứ hai, người giảng viên phải luôn đổi mới phương pháp giảng dạy tích cực theo hướng tiếp cận năng lực khoa học và phẩm chất nghề nghiệp tương lai của sinh viên Trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, người giảng viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy cho phù hợp để nhằm góp phần tạo ra những “sản phẩm” chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao của xã hội bao gồm phương pháp giảng dạy theo tiếp cận mới, phương thức vận hành các công cụ/môi trường số, cách thức biên soạn tài liệu số, xây dựng bài giảng tương tác,... Mục đích của việc đổi mới phương pháp giảng dạy là nhằm phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của sinh viên; tránh thái độ thụ động, rập khuôn theo bài giảng của giảng viên, từ đó sinh viên có được phong cách tư duy độc lập trong học tập cũng như trong nghiên cứu khoa học. Điều đó đòi hỏi người giảng viên phải cập nhật công nghệ thông tin vào trong giảng 939
- dạy, thường xuyên khơi dậy, rèn luyện và phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu, tự đặt vấn đề và tự giải quyết vấn đề của sinh viên ngay trong quá trình học tập ở trường. Ngoài ra, giảng viên cần hướng dẫn sinh viên cách học tập, tra cứu tài liệu,… Đây là quá trình rèn luyện cho sinh viên năng lực tư duy chính xác và phẩm chất tư duy biện chứng. Mà điều này thì cực kỳ cần thiết vì như Ph. Ăngghen đã chỉ rõ: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận” (C.Mác và Ph.Ăngghen 1995, 489). Trong đổi mới phương pháp giảng dạy, người giảng viên cần phải phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo của sinh viên trong quá trình lĩnh hội tri thức. Điều đó có thể thực hiện được thông qua việc sử dụng công nghệ thông tin, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực và sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn các phương pháp với nhau tùy điều kiện cụ thể. Giảng viên cần có phương pháp xây dựng các tình huống đòi hỏi sự tìm tòi, đào sâu suy nghĩ, phát triển và mở rộng kiến thức của sinh viên với các hình thức phong phú, đa dạng. Bản thân mỗi hình thức, phương pháp đều có những ưu, nhược điểm. Do vậy, không nên coi bất kỳ phương pháp nào là tối ưu cho việc truyền thụ tri thức bài giảng. Thậm chí cùng là một bài giảng, nhưng khi giảng cho các đối tượng khác nhau thì phương pháp vận dụng cũng phải khác nhau. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp dạy học cần phải thực hiện triệt để phương châm lấy người học làm trung tâm, cho nên người giảng viên cần kết hợp nhiều phương pháp dạy học khác nhau tùy thuộc vào nội dung bài giảng và đối tượng sinh viên. Thông qua đó, sinh viên rèn luyện được các kỹ năng cần thiết như kỹ năng diễn đạt, thuyết trình, thảo luận; kỹ năng đặt vấn đề và giải quyết vấn đề; kỹ năng nói trước đám đông; kỹ năng tổ chức các hoạt động chuyên môn. Để kích thích tính chủ động của sinh viên thì người giảng viên cũng phải luôn luôn động não, phát huy tính sáng tạo của mình trong quá trình triển khai bài giảng, đồng thời sinh viên phải tập trung vào bài giảng, phải suy nghĩ, đóng góp ý kiến vào bài học. Ngoài ra, giảng viên cần phải kết hợp sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại trong quá trình giảng dạy. Để phương tiện dạy học phát huy hiệu quả, giảng viên cần có sự đầu tư ứng dụng các phần mềm tin học như tạo ra các mô hình, sơ đồ hóa kiến thức, sưu tầm phim, các hình ảnh liên quan đến nội dung bài học,… làm cho giờ dạy trở nên sinh động hơn. Thứ ba, người giảng viên phải luôn đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá một cách hiệu quả theo hướng đánh giá năng lực tư duy của sinh viên Để kiểm tra, đánh giá có hiệu quả, giảng viên cần lưu ý đến những yếu tố sau: Một là, việc đánh giá kết quả học tập cần phải được tiến hành một cách thường xuyên trong suốt quá trình học tập, bao gồm điểm kiểm tra thường xuyên, điểm thảo luận, điểm chuyên cần,… Để thực hiện tốt điều này, giảng viên cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi trắc nghiệm, trả lời ngắn, các chủ đề bài tập nhóm, với những hình thức kiểm tra phong phú, đa dạng… để có thể chủ động kiểm tra, đánh giá kết quả một cách thường xuyên. Hai là, không chỉ đánh giá về kiến thức mà còn đánh giá về năng lực tự học, khả năng tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề và ứng dụng kiến thức vào thực tiễn. Trong quá trình lên lớp, giảng viên không chỉ thuần túy trao đổi với sinh viên những kiến thức trong giáo trình mà ở mỗi chương, mỗi nội dung bài học, giảng viên nên có những câu hỏi gợi mở, liên hệ với thực tiễn, đưa ra những bài tập tình huống nhằm giúp sinh viên làm quen với việc phân tích và giải quyết vấn đề, vận dụng thực tiễn,… bằng những hình thức đa dạng thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. 940
- Ba là, cần đa dạng hóa các hình thức kiểm tra, đánh giá nhằm đảm bảo tính hiệu quả, hiện thực: Việc kiểm tra, đánh giá có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau cho những đối tượng sinh viên khác nhau. Chẳng hạn, trong quá trình kiểm tra thường xuyên, giảng viên có thể thường kiểm tra bằng nhiều hình thức khác nhau: trắc nghiệm, trả lời ngắn, tự luận, vấn đáp, báo cáo nhóm,… thậm chí trong các bài báo cáo nhóm, giảng viên cho sinh viên chất vấn trực tiếp để được tính điểm tích lũy. Đối với đề thi kết thúc học phần, việc chọn đề đóng hay mở cũng vậy, phải tùy vào từng đối tượng sinh viên cụ thể chứ không nên cứng nhắc một hình thức thi đối với mọi đối tượng sinh viên. Bên cạnh đó, cũng cần phải lưu ý đến việc xây dựng đề thi phải đảm bảo theo nguyên tắc: vừa đảm bảo được kiến thức cốt lõi của môn học, vừa gắn lý luận với thực tiễn cuộc sống. Với sự đa dạng về hình thức đánh giá như vậy sẽ kích thích sinh viên nâng cao năng lực tự học bằng việc chủ động thay đổi thái độ học tập từ buộc phải học sang muốn được học, muốn được khẳng định bản thân. Thiết nghĩ, việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên cần được tiến hành một cách thường xuyên với nhiều hình thức đánh giá, kết hợp phương pháp đánh giá truyền thống với hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá, chuyển từ tập trung vào kiến thức có sẵn sang năng lực tư duy sẽ đánh giá được trình độ hiểu biết của sinh viên, đồng thời đánh giá được khả năng vận dụng những tri thức mới của bài học để giải quyết những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đã và đang đặt ra của sinh viên. 3. Kết luận Việt Nam đã trải qua những thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng người thầy vẫn là những người được tôn vinh, kính trọng; nghề dạy học vẫn là “nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý”. Tuy nhiên, bên cạnh sự biết ơn và lòng tôn kính đối với người thầy, còn là sự yêu cầu, đòi hỏi cao của học trò và xã hội đối với họ, hay nói cách khác, đó chính là trách nhiệm, là bổn phận của người thầy đối với xã hội. Để làm được điều đó, những người thầy phải luôn tìm tòi, sáng tạo không ngừng để tiếp nối một cách xứng đáng thế hệ những người đi trước, rèn luyện, hoàn thành tốt vai trò, sứ mệnh cao cả của mình đối với xã hội. Người thầy không được tự bằng lòng với những kiến thức mình đang có mà phải luôn không ngừng nâng cao, vươn xa hơn về nhận thức, tiếp cận tốt hơn với phương pháp giảng dạy tích cực và đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá hiệu quả nhằm tạo ra những “sản phẩm” tốt, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh chuyển đổi số này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Huỳnh Mẫn Đạt. 2018. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến các trường đại học ở Việt Nam, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 405. C.Mác và Ph.Ăngghen. 1995. Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ăngghen. 1995. Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Bình Huy – Trần Hải Anh – Nguyễn Hữu Tâm. 2023. Nghiên cứu “Chuyển đổi số - xu hướng tất yếu trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/chuyen-doi-so-xu-huong- tat-yeu-trong-giao-duc-dai-hoc-o-viet-nam-hien-nay-108880.htm, ngày truy cập 10/9/2023. Vũ Hải Quân. 2021. Chuyển đổi số trong giáo dục đại học, https://vnuhcm.edu.vn/tin- tuc_32343364/chuyen-doi-so-trong-giao-duc-dai-hoc/343137303364.html, ngày truy cập 10/9/2023. THÔNG TIN TÁC GIẢ Họ và tên: Lê Thị Son Học hàm, học vị: Tiến sĩ Cơ quan công tác: Trường Đại học Tiền Giang Chức vụ: Trưởng khoa Địa thoại: 0989 250281 Email: lethison@tgu.edu.vn Địa chỉ: 69/9C Phạm Thanh, phường 5, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. 941
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Vai trò của giảng viên đối với việc tự học của sinh viên trong đào tạo theo học chế tín chỉ
6 p | 438 | 31
-
Vai trò của thư viện trong việc đổi mới phương pháp dạy và học ở Đại học
7 p | 164 | 23
-
Vai trò của chương trình học và giảng viên đối với ý định khởi nghiệp của sinh viên đại học
26 p | 55 | 8
-
Lý thuyết vai trò trong nghiên cứu hành vi thông tin của giảng viên
6 p | 138 | 7
-
Vai trò của giảng viên trong việc phát huy tính tích cực tự học của sinh viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh
5 p | 101 | 6
-
Vai trò của giảng viên trong xây dựng môi trường học tập tích cực tại các trường đại học và cao đẳng
7 p | 90 | 6
-
Vai trò của giảng viên trong việc phát huy ý thức tự giác học tập các môn Lý luận chính trị của sinh viên trong thời đại cách mạng số
6 p | 16 | 5
-
Vai trò của giảng viên trong việc nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học của sinh viên khoa Ngoại ngữ, trường Đại học Hồng Đức
8 p | 116 | 5
-
Phát huy vai trò của giảng viên trong việc thực hiện “học thật, thi thật, nhân tài thật” nhằm xây dựng nền giáo dục đại học thực chất
10 p | 25 | 4
-
Nhận thức về vai trò của thang đánh giá trong giảng dạy và thực tế thực hiện của giảng viên đại học
7 p | 56 | 4
-
Bài giảng Sứ mệnh của đại học và vai trò của giảng viên trong mô hình quản trị đại học hiện đại
20 p | 107 | 4
-
Vai trò của giảng viên lý luận chính trị trong công tác bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc từ thực tiễn giảng dạy tại trường Đại học Tây Nguyên
4 p | 39 | 3
-
Phát huy vai trò của giảng viên trong đổi mới phương pháp dạy học các môn Lý luận chính trị tại Học viện An ninh nhân dân
7 p | 15 | 3
-
Vai trò của giảng viên trong việc nâng cao năng lực tự học cho sinh viên trong học phần “những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” tại trường Đại học Tiền Giang
5 p | 83 | 3
-
Vai trò của giảng viên trong xây dựng môi trường văn hóa sư phạm trường đại học
4 p | 8 | 3
-
Tầm quan trọng - Vai trò của giảng viên chủ nhiệm – cố vấn học tập trong việc đào tạo theo hình thức tín chỉ tại đại học
4 p | 39 | 1
-
Một số ý kiến vai trò của giảng viên nữ khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực tài năng cho đất nước
5 p | 52 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn