Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
102(02): 99 - 104<br />
<br />
VẤN ĐỀ RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM<br />
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP<br />
Nguyễn Mậu Đức1*, Đào Việt Hùng2<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên<br />
Trường Đại học Nông lâm – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Điểm khác biệt với Trường Đại học sư phạm (ĐHSP ) với các trường Đại học (ĐH) khác là hoạt<br />
động đào tạo nghiệp vụ sư phạm ( NVSP ) cho sinh viên ( SV) . Thông qua hoạt động này, năng<br />
lực sư phạm SV được hình thành và được rèn luyện thường xuyên. SV được trang bị các kỹ năng<br />
dạy học, kỹ năng giáo dục cần thiết trước khi xuống trường phổ thông thực tập sư phạm; góp phần<br />
quan trọng rút ngắn khoảng cách "tập sự" của giáo viên trẻ mới ra trường, giúp họ nhanh chóng<br />
làm quen, hòa nhập và có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học – giáo dục, đáp ứng chuẩn nghề<br />
nghiệp giáo viên phổ thông trung học.<br />
Qua thực tế đào tạo NVSP trong những năm qua, trường ĐHSP – ĐH Thái Nguyên đã xác định<br />
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác này là nhiệm vụ thường xuyên và cải tiến từng<br />
bước để nâng cao tay nghề cho sinh viên. Song trên thực tế vẫn còn có nhiều bất cập. Trong bài<br />
viết này tôi xin trình bày thực trạng và giải pháp đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở trường ĐHSP – ĐH<br />
Thái Nguyên hiện nay trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.<br />
Từ khóa: Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, Đại học Sư phạm, thực trạng, giải pháp, kỹ năng sư phạm.<br />
<br />
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TRẠNG RÈN<br />
LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM TẠI<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC<br />
THÁI NGUYÊN*<br />
Về chương trình đào tạo<br />
Chương trình đào tạo NVSP đã được thực<br />
hiện nhiều năm nhưng chủ yếu chỉ mới dừng<br />
lại ở việc hình thành các kỹ năng sơ đẳng như<br />
cách trình bày vấn đề, viết, vẽ bảng, diễn giải,<br />
gợi mở vấn đề bằng hệ thống câu hỏi, xử lý<br />
tình huống sư phạm vv... Do đó, chương trình<br />
này tỏ ra không phù hợp trước những biến đổi<br />
của khoa học, kỹ thuật, thông tin và công<br />
nghệ. Trong khi đó các kỹ năng như làm việc<br />
với sách giáo khoa, kỹ năng sử dụng các thiết<br />
bị dạy học, kỹ năng tổ chức các hoạt động<br />
giáo dục, kỹ năng giao tiếp, hội nhập, kỹ năng<br />
gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo, gắn lý<br />
thuyết với thực tiễn địa phương, kỹ năng định<br />
hướng, kế hoạch hóa, kiểm tra, tự kiểm tra,<br />
đánh giá, tự đánh giá vv... chưa được chú trọng.<br />
Trường sư phạm đào tạo sinh viên trở thành<br />
người giáo viên, nên sự kết hợp giữa các môn<br />
chuyên ngành và đào tạo nghiệp vụ là cần<br />
thiết. Tuy nhiên việc kết hợp này chưa được<br />
rõ nét, vì chỉ lập danh sách các môn học cần<br />
*<br />
<br />
Tel: 0983 834724, Email: mauducsptn@gmail.com<br />
<br />
thiết cho giáo sinh học chưa đủ để tạo tính<br />
liên kết giữa các môn học. Chương trình đào<br />
tạo do đó bao gồm những môn học "đứng<br />
cạnh nhau", giảng viên chỉ phụ trách môn<br />
được giao phó, chưa có sự phối hợp nhịp<br />
nhàng trong đào tạo giữa các giảng viên giảng<br />
dạy các môn khác nhau, cách thức tổ chức<br />
đào tạo chưa tạo điều kiện thuận lợi để sinh<br />
viên xây dựng kỹ năng nghiệp vụ.<br />
Hoạt động tổ chức học và hiệu quả của các<br />
học phần Tâm lí học và Giáo dục học<br />
Hai môn học này làm nên đặc trưng nghề<br />
nghiệp của trường ĐHSP. Xét về mặt lý<br />
thuyết, nó có vai trò hết sức quan trọng trong<br />
việc hình thành và phát triển năng lực nghề<br />
cho SV. Môn Giáo dục học trang bị cho SV<br />
năng lực dạy học, giáo dục, tổ chức và quản<br />
lý. Môn Tâm lý học giúp SV hiểu và nắm<br />
được đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh<br />
phổ thông, các giá trị tâm lý,… Nếu tổ chức<br />
dạy học tốt, hai môn học này sẽ góp phần<br />
đáng kể trong việc rèn luyện cho SV sư phạm<br />
các năng lực nghề cần thiết, đủ tự tin xuống<br />
trường PT thực tập sư phạm, là hành trang<br />
cần thiết để hành nghề day học sau khi tốt<br />
nghiệp ra trường. Tuy nhiên, do thiếu yếu tố cả<br />
khách quan và chủ quan, hiệu quả của môn học<br />
này thực tế còn chưa được như mong muốn.<br />
99<br />
<br />
Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Trong đợt điều tra khảo sát SV thực tập sư<br />
phạm đợt 2 tại các trường PT ở Thái Nguyên,<br />
Hòa Bình, Tuyên Quang năm học 2010 –<br />
2011, kết quả phỏng vần như sau:<br />
- Hầu hết SV cho rằng các môn học tâm lý<br />
học, giáo dục học chưa giúp được SV các<br />
kiến thức, kỹ năng trong dạy học và giáo dục.<br />
Một số SV cho rằng nên giảm thời lượng học<br />
hai môn này. Hỏi về nguyên nhân, SV trả lời<br />
đó là do các môn học này được tổ chức học<br />
trước đó khá lâu nên SV quên gần hết. Hơn<br />
nữa chương trình học thiên về lý thuyết hàn<br />
lâm, các kiến thức xa rời thực tế dạy học nên<br />
khó nhớ. Mặt khác, thiếu các ví dụ cụ thể gần<br />
với thực tế dạy học ở trường PT, tính thực<br />
hành chưa được chú trọng. SV khi học hai<br />
học phần này chỉ cốt để lấy điểm cho '' đẹp "<br />
hồ sơ, còn tính ứng dụng, thực hành của môn<br />
học phục vụ cho nghề nghiệp tương lai không<br />
được chú ý.<br />
- Trong số 60 SV năm thứ 4 năm học 2011 –<br />
2012 được tập trung để phỏng vấn và điều tra<br />
bằng phiếu hỏi, kết quả cũng không khả quan<br />
hơn. Với câu hỏi trắc nghiệp: Bạn nhận xét gì<br />
về hiệu quả của hai môn học Tâm lí học và<br />
Giáo dục học trong rèn luyện nghiệp vụ sư<br />
phạm thường xuyên, có 40/60 SV cho rằng<br />
hai môn học này có hiệu quả ở mức bình<br />
thường; 20/50 SV cho rằng không hiệu quả.<br />
Không có SV nào khẳng định tính hiệu quả<br />
của môn học đem lại. Khi được phỏng vấn,<br />
nhiều SV cho biết khi học hai học phần này,<br />
các em không có ý thức rèn luyện nghề mà<br />
đơn giản chỉ là cố học để thi lấy điểm cao.<br />
Với quan niệm như vậy, cộng với cách dạy<br />
của giảng viên (chắc chắn chưa tạo ra sự đổi<br />
mới về phương pháp), việc SV không chịu<br />
"nhập tâm", không chịu nhớ "nằm lòng" các<br />
tình huống thực hành của hai môn học này<br />
cũng là điều dễ hiểu.<br />
Học phần Lí luận dạy học bộ môn.<br />
Với học phần này, khi được phỏng vấn, đa số<br />
SV cho rằng việc trang bị kiến thức về lí luận<br />
dạy học của môn chuyên ngành là khá tốt.<br />
Tuy nhiên, việc triển khai các phương pháp<br />
dạy học cụ thể chỉ dừng ở lý thuyết, thiếu tính<br />
thực hành. Và đây là nguyên nhân chính dẫn<br />
đến tình trạng SV xuống trường PT thực tập<br />
100<br />
<br />
102(02): 99 - 104<br />
<br />
còn bộc lộ nhiều sự non nớt, hạn chế cả về<br />
các kỹ năng dạy học, giáo dục, cả về kỹ năng<br />
sống, kinh nghiệm giao tiếp với các đối tượng<br />
HS, GV, phụ huynh, các tổ chức trong và<br />
ngoài trường.<br />
Đa phần giảng viên bộ môn phương pháp dạy<br />
học khi được phỏng vấn đều "tự nhận" rằng<br />
khi triển khai tổ chức dạy học cho SV đều<br />
hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm riêng của mỗi<br />
người. Và vì quỹ thời gian quá ít, SV lại quá<br />
đông nên việc cho các em luyện tập thực hành<br />
còn hạn chế. Hơn nữa, không phải SV nào<br />
cũng ý thức được tầm quan trọng của việc "<br />
học nghề" từ trong trường sư phạm. Hoạt<br />
động tự học, tự rèn luyện các kỹ năng học<br />
giáo dục đối với SV còn nhiều hạn chế.<br />
Hội thi nghiệp vụ sư phạm<br />
Đây là hoạt động thường niên của trường.<br />
Hàng năm vào dịp 20/11, nhà trường tổ chức<br />
hội thi rèn luyện NVSP giỏi giữa các khoa.<br />
Các nội dung thi:<br />
- Đồ dùng dạy học tự làm.<br />
- Thiết kế một hoạt động ngoại khóa cho<br />
học sinh.<br />
- Thi dạy trên lớp.<br />
- Sân khấu hóa:<br />
+ Màn chào hỏi<br />
+ Màn giải quyết tình huống SP<br />
+ Hiểu biết kiến thức SP<br />
Có thể thấy, nội dung thi NVSP cấp trường đã<br />
có mặt cả kỹ năng dạy học và kỹ năng giáo<br />
dục. Thực tế các cuộc tranh tài giữa các Khoa<br />
đã làm nên những mùa thi sôi nổi, làm khuấy<br />
động nên không khí NVSP trong toàn trường<br />
dù chỉ trong thời gian ngắn. Nhược điểm dễ<br />
nhận thấy là nội dung thi tuy có đủ cả dạy học<br />
và giáo dục nhưng vẫn còn hết sức nghèo nàn.<br />
Và dù không khí NVSP có được khuấy động<br />
thì cũng vẫn chỉ dừng ở mức cuộc thi. Tác<br />
dụng lâu dài cho mỗi SV trong quá trình rèn<br />
luyện NVSP là không có. Hơn nữa, vì là cuộc<br />
thi nên số lượng SV tham gia rất ít. Và những<br />
SV được chọn lên sân khấu đã là những SV<br />
ưu tú, năng động và đã tích lũy được ít nhiều<br />
kinh nghiệm cũng như những kỹ năng SP.<br />
Còn số đông SV, việc một đôi lần lên bục giảng<br />
dạy thử trước cả nhóm, cả lớp là điều ít thấy.<br />
<br />
Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Vấn đề kết hợp giữa lý thuyết và thực hành:<br />
Thời điểm học lý thuyết (cả về môn chuyên<br />
ngành lẫn môn nghiệp vụ) và thời điểm thực<br />
tập không trùng nhau, có khi hai thời điểm<br />
cách rất xa nhau khiến sinh viên lúng túng.<br />
Các học phần về PPDH bộ môn tuy đã cố<br />
gắng trang bị cho SV nắm vững hệ thống các<br />
phương pháp DH và cập nhật những vấn đề<br />
đổi mới về phương pháp giảng dạy ở phổ<br />
thông, song vẫn còn khoảng cách khá xa giữa<br />
lí thuyết và thực tiễn, giữa đào tạo ở trường<br />
sư phạm với thực tế giảng dạy ở nhà trường.<br />
Nhiều SV khi thực tập SP rất ngỡ ngàng, lúng<br />
túng trước những yêu cầu của GV hướng dẫn<br />
dưới phổ thông (như cách lập kế hoạch dạy<br />
học, thiết kế giáo án; trình bày bài giảng, sử<br />
dụng các phương tiện, đồ dùng trực quan, tổ<br />
chức các hoạt động DH-GD ngoài giờ lên<br />
lớp…).<br />
Thời gian đi xuống trường phổ thông thực tập<br />
làm quen là quá ít. Mãi đến năm thứ 3 sinh<br />
viên mới xuống trường phổ thông thực tập sư<br />
phạm với 2 tín chỉ… để dự giờ, tham gia<br />
công tác chủ nhiệm lớp, dự các hoạt động<br />
giáo dục…Sinh viên không được tham gia<br />
giảng dạy.<br />
Ngoài đợt thực tập hầu như không có liên lạc<br />
giữa các khoa và giáo viên phổ thông, cho<br />
nên không có điều kiện thường xuyên cập<br />
nhật kiến thức của người giáo viên phổ thông<br />
để việc thực tập được phối hợp nhịp nhàng.<br />
Từ thực tế này, cần xem xét và điều chỉnh nội<br />
dung đào tạo cho phù hợp và hiệu quả theo<br />
hướng: giảm bớt lý thuyết, tăng cường thực<br />
hành theo hướng ứng dụng gắn kết với thực<br />
tiễn phổ thông, chú trọng rèn luyện các kỹ<br />
năng dạy học-giáo dục cho SV, đặc biệt là kỹ<br />
năng ứng xử, giao tiếp. Đây là điểm yếu nhất<br />
mà SV thấy cần phải bổ sung và tăng cường<br />
trong công tác rèn luyện NVSP.<br />
Khả năng tự đào tạo nghiệp vụ sư phạm<br />
của sinh viên<br />
Về tự đào tạo NVSP của sinh viên hầu như<br />
còn thụ động, chưa sáng tạo trong việc tiếp<br />
thu những kiến thức NVSP, thiếu kỹ năng sử<br />
dụng các phương tiện dạy - học, kỹ năng quan<br />
sát, kỹ năng biểu đạt ngôn ngữ, nhút nhát<br />
trong khi giao tiếp trước tập thể.<br />
<br />
102(02): 99 - 104<br />
<br />
Chúng tôi phỏng vấn và điều tra các sinh viên<br />
năm cuối đi thực tập, kỹ năng sử dụng<br />
phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ<br />
thông tin vào dạy học là còn rất yếu. Ví dụ<br />
như việc soạn thảo văn bản word đúng quy<br />
định, đánh máy các công thức toán lí hóa, sử<br />
dụng phần mềm chuyên ngành đơn giản để vẽ<br />
hình, đồ thị, bảng biểu…Có đến 70% trả lời<br />
hầu như không biết sử dụng, kỹ năng soạn<br />
giáo án điện tử rất kém. Ngoại trừ một số bạn<br />
làm đề tài nghiên cứu khoa học hay khóa luận<br />
tốt nghiệp.<br />
Rèn luyện NVSP thông qua các giảng viên<br />
dạy các môn chuyên ngành<br />
Với hoạt động này, nhà trường không có văn<br />
bản chỉ đạo cụ thể các giảng viên chuyên<br />
ngành ở các Khoa phải làm như thế nào, cụ<br />
thể hóa tiết dạy ra sao để gián tiếp hướng dẫn<br />
SV cách dạy, cách xử lý tình huống. Chính vì<br />
vậy, giảng viên cũng không cho đó là nhiệm<br />
vụ của mình, ai có thế mạnh cũng như điểm<br />
yếu nào cứ " tự nhiên" thể hiện. Đa số các<br />
giảng viên cho rằng việc rèn luyện NVSP là<br />
của tổ phương pháp giảng dạy chứ không phải<br />
là của các bộ môn chuyên ngành của mình.<br />
Nhiều giảng viên vẫn lên lớp với những cách<br />
dạy truyền thống không biết đến phương tiện<br />
dạy học hiện đại, không quan tâm đến SV tiếp<br />
thu nội dung bài giảng ra sao, phản ứng của<br />
SV thế nào. Thậm chí, kể cả giảng viên bộ<br />
môn Phương pháp dạy học cũng không phải<br />
ai cũng có ý thức và năng lực để triển khai, cách<br />
dạy đổi mới: lấy người học làm trung tâm.<br />
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT<br />
LƯỢNG RÈN LUYỆN NVSP<br />
Giáo dục ý thức, định hướng nghề nghiệp<br />
cho SV ngay từ năm thứ nhất<br />
Khi đăng ký vào trường ĐHSP, SV phải ý<br />
thức được rằng họ cần học tập, rèn luyện để<br />
trở thành những giáo viên THPT trong tương<br />
lai. Bởi vậy, bản thân họ phải nhận thức được<br />
đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công<br />
tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm trong quá trình<br />
học tập . Vì vậy, họ cần phải chủ động, tự<br />
giác, tự học và tham gia các hoạt động về<br />
nghiệp vụ sư phạm. Việc định hướng cho SV<br />
hiểu về nghề dạy học và hiểu rõ nội dung,<br />
chương trình mà bản thân mình phải rèn luyện<br />
để trở thành những giáo viên có năng lực sau<br />
này là điều hết sức quan trọng và thiết thực.<br />
101<br />
<br />
Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Bản thân người thầy dạy đại học phải là<br />
tấm gương cho cách dạy theo phương pháp<br />
đổi mới<br />
Người thầy ở đây là các giảng viên đại học,<br />
bao gồm tất cả các giảng viên của tất cả các<br />
môn giáo dục đại cương ( Ngoại ngữ, Giáo<br />
dục quốc phòng, các môn khoa học Mác –<br />
Lênin,….); giáo dục chuyên nghành và<br />
nghiệp vụ sư phạm (Tâm lý học, Giáo dục<br />
học, Phương pháp dạy học bộ môn). Rèn kỹ<br />
năng là một quá trình. Người thầy không thể<br />
chỉ ngồi nghiên cứu tài liệu Đông, Tây, Kim<br />
cổ, tìm ra biết bao phương pháp mới, so sánh,<br />
đối chiếu phát hiện ra những ưu điểm so với<br />
phương pháp truyền thống để truyền tải<br />
những kiến thức rất mới này cho SV bằng<br />
phương pháp…truyền thống. Đây là những "<br />
tấm gương" cho SV về cách dạy, cách học.<br />
Thiết nghĩ, việc đổi mới cách dạy, cách học<br />
trong các trường đại học, nhất là các trường<br />
ĐHSP chính là cái gốc, là “căn cốt” để SV –<br />
Người giáo viên tương lai học cách dạy sáng<br />
tạo, học cách học sáng tạo và cũng chính là<br />
rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp.<br />
Các môn học cung cấp tri thức sư phạm<br />
cần được gắn kết chặt chẽ với hoạt động<br />
rèn luyện các kỹ năng sư phạm.<br />
Các môn tâm lý học, giáo dục học, phương<br />
pháp dạy học bộ môn được xem là những<br />
môn học cung cấp tri thức sư phạm cho sinh<br />
viên. Điều đó cũng có nghĩa là chúng có mối<br />
quan hệ mật thiết với việc hình thành các kỹ<br />
năng sư phạm. SV sẽ vận dụng các kiến thức<br />
SP này để xử lý các tình huống giáo dục cụ<br />
thể. Từ đó, sẽ làm giàu thêm vốn NVSP của<br />
mình. Muốn thực hiện được nhiệm vụ này,<br />
nội dung của các môn học phải rất sát với<br />
thực tiễn dạy học – giáo dục ở PT; quá trình<br />
giảng dạy môn học phải theo sát các hoạt<br />
động thực hành SP, hoạt động kiến tập, thực<br />
tập ở trường PT. Giảng viên bộ môn phương<br />
pháp dạy học nên trực tiếp dự giờ giáo viên<br />
PT, và tốt hơn nữa nếu giảng viên có tham gia<br />
giảng dạy tại trường PT.<br />
Phải tăng cường thực hành cho SV<br />
Trường SP là cơ sở đào tạo nghề đào tạo,<br />
không chỉ và không phải đơn thuần là cơ sở<br />
nghiên cứu. Vì vậy phải tổ chức cho SV tiếp<br />
102<br />
<br />
102(02): 99 - 104<br />
<br />
cận được các đối tượng giáo dục càng sớm càng<br />
tốt. Hơn nữa, việc học lý thuyết phải được thực<br />
hiện song song với hoạt động thực hành.<br />
Hội thi rèn luyện NVSP được tổ chức tuy có<br />
quy mô hoành tráng (ở tất cả các khoa trong<br />
toàn trường). Nhưng lại dưới hình thức các<br />
cuộc thi. Vì thế, hoạt động này chỉ dồn vào<br />
một số em có năng lực riêng (hát, múa, đọc<br />
thơ, ngâm thơ, đọc diễn cảm, trình bày<br />
bảng…) Hầu hết các sinh viên không và chưa<br />
được tham gia rèn luyện một các đúng nghĩa.<br />
Bài viết đề xuất một số biện pháp để tăng<br />
cường tính thực hành cho SV:<br />
- Tổ chức cho SV xuống các trường PT sớm<br />
hơn, ngay từ năm thứ nhất. Có thể không cần<br />
phải tổ chức quy mô như các đợt kiến tập,<br />
thực tập mà định hướng cho các khoa, từ các<br />
khoa triển khai cho các lớp cụ thể về việc<br />
đăng ký kết nghĩa với các trường PT gần<br />
trường SP; Làm việc với Ban Giám hiệu các<br />
trường PT cho SV về trường tham gia làm<br />
công tác chủ nhiệm, tham gia dự giờ, sinh<br />
hoạt với nhóm, tổ chuyên môn, tất nhiên là chưa<br />
cho SV tham gia dạy thử trên đối tượng HS;<br />
Không đặt ra vấn đề có giáo viên hướng dẫn.<br />
- Tại trường SP, nên phân SV thành các nhóm<br />
nhỏ hoặc vẫn duy trì các nhóm tham gia sinh<br />
hoạt ở trường PT. Giảng viên tùy vào nội<br />
dung môn mình phụ trách để đưa ra các vấn<br />
đề, các tình huống hoặc tổ chức cho SV nghĩ<br />
ra các vấn đề, các tình huống khác để suy<br />
nghĩ tìm ra các phương án giải quyết.<br />
Phải xây dựng được chương trình khung<br />
mang tính đặc thù cho từng Khoa và Bộ môn<br />
Hiện tại trong trường ĐHSP Thái Nguyên,<br />
hầu hết các khoa đều chưa có chương trình<br />
rèn luyện NVSP riêng của Khoa mình. Giảng<br />
viên tổ Phương pháp dạy học hoàn thành<br />
phần việc của mình theo kinh nghiệm riêng<br />
của mỗi các nhân. Ai có thế mạnh nào thì thể<br />
hiện thế mạnh ấy và dẫn đến là SV không<br />
được rèn luyện một cách bài bản các kỹ năng<br />
NVSP cần thiết trước khi xuống trương PT<br />
thực tập. Thiết nghĩ, muốn thực hiện được<br />
điều này, nhà trường phải có định hướng chỉ<br />
đạo các Khoa xây dựng chương trình, có sự<br />
giám sát quản lý trong quá trình thực hiện.<br />
<br />
Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Phải xây dựng được phòng rèn luyện<br />
NVSP đủ tiêu chuẩn<br />
Phòng NVSP là môi trường, là không gian để<br />
SV rèn luyện, thực hành các kỹ năng đã được<br />
tiếp thu lý thuyết. Mỗi khoa tối thiểu phải có<br />
một phòng NVSP. Ở đây có hai điều kiện: có<br />
phòng rèn luyện NVSP và phòng rèn luyện<br />
NVSP phải đảm bảo tiêu chuẩn. Học lý<br />
thuyết, SV có thể học chung một lớp đông.<br />
Nhưng triển khai thực hành, chắc chắn phải<br />
chia thành các nhóm nhỏ. Điều kiện thực<br />
hành cũng khác so với trên lớp học lý thuyết.<br />
Nếu như học lý thuyết, giảng viên có thể chỉ<br />
cần bảng, bút hoặc phấn, hoặc máy chiếu,<br />
màn hình. Nhưng trong phòng NVSP, ngoài<br />
những điều kiện tối thiểu trên, phải cần thêm:<br />
máy móc (máy tính, máy chiếu, trang thiết bị<br />
nghe nhìn,…); Đồ dùng thí nghiệm, đồ dùng<br />
rèn luyện kỹ năng (đàn, đồ dùng vẽ, thiết bị<br />
thí nghiệm,…); máy ảnh ,máy quay ghi băng<br />
hình camera, … hồ sơ, sổ sách, tư liệu, tài<br />
liệu tham khảo, bản đồ, sách giáo khoa, sách<br />
giáo viên,…Quan sát phòng NVSP đủ tiêu<br />
chuẩn với các trang thiết bị cần thiết cho<br />
người dạy, người học cảm giác hưng phấn,<br />
sẵn sàng cho việc dạy – học có hiệu quả.<br />
Phải xây dựng được trường thực hành ở<br />
các cấp học.<br />
Hiện tại trường ĐHSP – ĐH Thái Nguyên chỉ<br />
có một trường thực hành ở cấp THPT đó là<br />
trường THPT Thái Nguyên, các hệ thống<br />
trường thực hành từ mầm non đến THCS hiện<br />
đang còn thiếu. Trường thực hành phải được<br />
đầu tư thật tốt về mọi mặt từ đội ngũ giáo<br />
viên đến điều kiện cơ sở vật chất trang thiết<br />
bị, phương tiện kĩ thuật cần thiết để phục vụ<br />
dạy- học, đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu đào tạo<br />
và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV. SV<br />
thiếu gì, cần gì cứ đến trường thực hành sẽ<br />
được đáp ứng đầy đủ tựa như vận động viên<br />
thể thao vào nhà thi đấu đa năng vậy.<br />
Tổ chức tuần lễ nghiệp vụ sư phạm.<br />
Đây phải là hoạt động thường niên của<br />
trường. Hàng năm vào dịp 20/11, nhà trường<br />
tổ chức tuần lễ rèn luyện NVSP giỏi giữa các<br />
khoa. Thời gian dành cho hoạt động này là 10<br />
tiết. Với SV năm thứ nhất, có bốn tiết lý<br />
thuyết và 6 tiết thực hành. Đối với SV năm<br />
<br />
102(02): 99 - 104<br />
<br />
thứ hai, ba, bốn tập trung rèn luyện các kỹ<br />
năng, không dạy lý thuyết.<br />
Nội dung lý thuyết SV được trang bị:<br />
- Giới thiệu về ngành nghề sư phạm: Bản chất<br />
và các nội dung hoạt động của nghề SP.<br />
- Vai trò của nhà giáo trong hoạt động của<br />
nghề SP.<br />
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát<br />
triển giáo dục và phát triển nhà giáo.<br />
- Các đặc điểm cơ bản trong lao động SP của<br />
nhà giáo.<br />
Những phẩm chất và năng lực cơ bản mà nhà<br />
giáo cần có.<br />
- Chức năng, nhiệm vụ và các kỹ năng cơ bản<br />
của giáo viên bộ môn trong nhà trường.<br />
- Chức năng, nhiệm vụ và các kỹ năng cơ bản<br />
của giáo viên chủ nhiệm lớp<br />
Đổi mới cách đánh giá hoạt động rèn luyện<br />
NVSP cho SV<br />
Chúng ta vấn biết, một SV có thể rất giỏi về<br />
kiến thức khoa học cơ bản, nhưng không giỏi<br />
về NVSP, không có kĩ năng nói, viết, phong<br />
cách sư phạm, cách thức tổ chức giờ lên lớp,<br />
khả năng xử lí linh hoạt và hiệu quả các tình<br />
huống sư phạm… thì không thể đánh giá đó là<br />
một SV giỏi theo tiêu chí của trường sư phạm.<br />
Thế nhưng, hiện nay, do sự chi phối bởi quan<br />
niệm: NVSP chỉ là một môn phụ, có tính chất<br />
bổ trợ. Kết quả rèn luyện NVSP cũng chỉ có<br />
tính chất điều kiện, không quyết định nhiều<br />
tới chất lượng và tiêu chí đánh giá trình độ tốt<br />
nghiệp của SV. Vì thế, hoạt động rèn luyện<br />
NVSP có nhiều hạn chế.<br />
Để đánh giá một cách khác quan, chính xác,<br />
công bằng và thực hiện có hiệu quả mục tiêu<br />
đào tạo, Trường ĐHSP cần đánh giá trình độ<br />
NVSP của SV qua một Hội đồng riêng với sự<br />
tham gia của các GV, các nhà sư phạm có<br />
chuyên sâu về NVSP. (Có thể mời những GV<br />
phổ thông dạy giỏi tham gia Hội đồng này).<br />
Hội đồng này có trách nhiệm đánh giá NVSP<br />
của SV qua một giờ lên lớp hoàn chỉnh. Điểm<br />
NVSP này được coi là một trong những điểm<br />
đánh giá tốt nghiệp bắt buộc của giáo sinh, kể<br />
cả giáo sinh làm luận văn tốt nghiệp. Đây là<br />
cách đánh giá công bằng, khoa học và quan<br />
103<br />
<br />