VẬN DỤNG LÝ THUYẾT KIẾN TẠO VÀO VIỆC HÌNH THÀNH<br />
TRI THỨC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH THPT<br />
TRƯƠNG THU HƯỜNG<br />
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế<br />
Tóm tắt: Lý thuyết kiến tạo là một trong những quan điểm dạy học hiện đại,<br />
phát huy vai trò chủ động, tích cực của học sinh, giúp nâng cao hiệu quả dạy<br />
- học lý thuyết Tiếng Việt. Một số biện pháp dẫn dắt học sinh tự kiến tạo tri<br />
thức Tiếng Việt là: sử dụng câu hỏi nêu vấn đề, sử dụng ngữ liệu, cung cấp<br />
các điều kiện - tư liệu học tập, tổ chức các hoạt động học tập hợp tác theo<br />
nhóm, thu thập thông tin phản hồi và sử dụng những hình thức củng cố mang<br />
tính gợi mở.<br />
<br />
1. LÝ THUYẾT KIẾN TẠO VỚI VIỆC TÍCH CỰC HOÁ QUÁ TRÌNH HÌNH<br />
THÀNH TRI THỨC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG<br />
1.1. Lý thuyết kiến tạo (LTKT)<br />
LTKT (Constructivism) là một quan điểm mới về dạy học. Dựa trên những nghiên cứu<br />
tâm lý học phát triển của Jean Piaget, Vưgôtski và Von Glasersfield đã phát triển thành<br />
lý thuyết học. LTKT cho rằng quá trình nhận thức của người học về thực chất là quá<br />
trình người học tự xây dựng nên những kiến thức cho bản thân thông qua các hoạt động<br />
đồng hóa (là quá trình kết hợp trực tiếp những thông tin mới vào sơ đồ nhận thức đang<br />
tồn tại để giải quyết tình huống mới) và điều ứng (là quá trình thay đổi, thậm chí là phải<br />
bác bỏ các kiến thức và kinh nghiệm sai lầm cũ khi nó không phù hợp với tình huống<br />
mới) [1].<br />
1.2. Khả năng của LTKT trong việc hình thành các tri thức Tiếng Việt cho học<br />
sinh (HS) trung học phổ thông (THPT)<br />
Tri thức Tiếng Việt là những kiến thức có tính khoa học về Tiếng Việt với tư cách là<br />
một ngôn ngữ; bao gồm các khái niệm, quy tắc, các nội dung lý thuyết về từ vựng, ngữ<br />
pháp, phong cách học… Hình thành tri thức Tiếng Việt cho HS là quá trình biến kinh<br />
nghiệm bản ngữ thành những nhận thức có tính khoa học về Tiếng Việt. Đó là quá trình<br />
hình thành các khái niệm, quy tắc Tiếng Việt cho HS. Quá trình đó còn bao hàm cả<br />
những hiểu biết chung về Tiếng Việt, gắn với quá trình hình thành kĩ năng Tiếng Việt.<br />
Dạy học theo quan điểm LTKT có khả năng tích cực hóa quá trình nhận thức của HS.<br />
Bởi vì, trong quá trình dạy - học, HS sẽ có cơ hội để tranh luận theo từng nhóm về<br />
những quan điểm khác nhau của mình, thực hành phân tích cơ sở của từng quan niệm…<br />
để đi đến thống nhất quan niệm theo từng nhóm. Sau đó, đại diện các nhóm trình bày<br />
kết quả và tranh luận với nhau trong cả lớp. Chính điều đó tạo cho HS hứng thú - một<br />
trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tính tích cực, chủ động, sáng tạo<br />
trong học tập [2].<br />
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br />
ISSN 1859-1612, Số 04(16)/2010: tr. 153-158<br />
<br />
154<br />
<br />
TRƯƠNG THU HƯỜNG<br />
<br />
Dạy học theo quan điểm của LTKT chú trọng vốn tri thức, kinh nghiệm sẵn có của HS<br />
nên có khả năng huy động vốn tri thức Tiếng Việt - ngôn ngữ mẹ đẻ của các em. Với<br />
HS THPT, sự hiểu biết và khả năng sử dụng Tiếng Việt đã tương đối thành thạo. Trong<br />
quá trình phân tích ngữ liệu, GV đánh giá được kiến thức và kinh nghiệm Tiếng Việt đã<br />
có của HS. Từ đó, GV thiết kế, tổ chức các hoạt động học tập để HS phát huy vai trò<br />
chủ động tích cực, tự xây dựng những tri thức và kĩ năng mới cho bản thân.<br />
Trong quá trình dạy học Tiếng Việt theo quan điểm của LTKT, GV là người tổ chức hoạt<br />
động, định hướng khám phá và chuẩn hóa tri thức, kĩ năng cho HS; HS là người chủ<br />
động, tích cực thảo luận, khám phá tri thức và rèn luyện kĩ năng. HS chính là người tự<br />
xây dựng nên tri thức và kĩ năng cho bản thân. Vì vậy, những tri thức Tiếng Việt do HS<br />
tự xây dựng sẽ được các em ghi nhớ lâu hơn, khả năng vận dụng cao hơn. Mặt khác, quá<br />
trình thảo luận, trình bày quan điểm cũng sẽ giúp HS rèn luyện thêm kĩ năng Tiếng Việt<br />
của bản thân.<br />
2. CÁCH THỨC HÌNH THÀNH CÁC TRI THỨC TIẾNG VIỆT CHO HS THEO<br />
QUAN ĐIỂM LÝ THUYẾT KIẾN TẠO<br />
2.1. Định hướng chung<br />
Tư tưởng dạy học tích cực đã và đang được vận dụng sáng tạo vào quá trình dạy học nói<br />
chung và dạy học Tiếng Việt nói riêng. Vì thế, tổ chức hình thành tri thức Tiếng Việt<br />
cho HS theo quan điểm LTKT đồng thời phải phù hợp với chiến lược dạy học phát huy<br />
vai trò chủ thể tích cực của HS. Yêu cầu của dạy học tích cực trong hình thành tri thức<br />
Tiếng Việt cho HS là phải đi từ việc huy động ngữ liệu để tìm ra dấu hiệu cơ bản của<br />
khái niệm, các yếu tố nội dung của quy tắc, trên cơ sở đó khái quát hóa thành khái niệm<br />
và quy tắc mới, tiến tới hoàn thành nhiệm vụ kiến tạo tri thức cho HS.<br />
Dạy học Tiếng Việt không thể tách rời với việc dạy giao tiếp. Chính vì vậy, tổ chức<br />
hình thành tri thức Tiếng Việt cho HS theo quan điểm LTKT cũng phải theo quan điểm<br />
giao tiếp. Theo đó, GV phải sắp xếp các tài liệu học tập sao cho vừa cung cấp tri thức<br />
ngôn ngữ vừa rèn luyện cho HS những kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách hiệu<br />
quả nhất. Người GV phải linh hoạt tổ chức được các hình thức và hoạt động dạy học<br />
phong phú để người học được trực tiếp tham gia thực hành giao tiếp [3].<br />
Một trong những định hướng quan trọng của dạy học hiện đại là quan điểm tích hợp. Vì<br />
thế, tổ chức hình thành tri thức Tiếng Việt cho HS theo LTKT cũng phải hướng theo<br />
quan điểm tích hợp. Để tạo ra nội dung và yêu cầu luyện tập tương thích mục tiêu tích<br />
hợp trong hình thành tri thức Tiếng Việt cho HS theo quan điểm LTKT, GV phải đặt ra<br />
các yêu cầu phối kết vừa khai thác ngữ liệu vừa giải quyết vấn đề nhận thức của bài học.<br />
2.2. Quy trình và các biện pháp cụ thể<br />
2.2.1. Quy trình<br />
- Chuẩn bị: Tìm hiểu kiến thức vốn có và nhu cầu học tập của HS là một đặc trưng<br />
của LTKT trong quá trình hình thành tri thức lý thuyết Tiếng Việt cho HS. Đặc<br />
biệt, LTKT chú ý đến những kiến thức và kinh nghiệm sai lầm của HS. Đó chính<br />
<br />
155<br />
là cơ sở để GV xây dựng tình huống học tập, tạo điều kiện để quá trình đồng hóa<br />
và hơn nữa là điều ứng diễn ra trong nhận thức của HS.<br />
- Tổ chức hoạt động học tập: GV tổ chức các hoạt động tạo môi trường tích cực để<br />
HS phán đoán, kiểm nghiệm, thích nghi và tự xây dựng tri thức mới<br />
- Kiểm tra đánh giá và hướng dẫn HS tự kiểm tra đánh giá: Hoạt động kiểm tra<br />
đánh giá giúp GV thu thập thông tin phản hồi để điều chỉnh quá trình học tập của<br />
HS đạt hiệu quả tốt nhất. Mặt khác, những hình thức kiểm tra đánh giá và hoạt<br />
động tự kiểm tra đánh giá giúp HS kiểm nghiệm tri thức mới được xây dựng, tiếp<br />
tục điều chỉnh - điều ứng quá trình nhận thức của bản thân.<br />
2.2.2. Các biện pháp dẫn dắt học sinh tự kiến tạo tri thức Tiếng Việt<br />
a. Những biện pháp tìm hiểu kiến thức vốn có và nhu cầu học tập của HS<br />
Theo quan điểm của LTKT thì bản chất của quá trình học tập là quá trình người học<br />
đồng hóa và điều ứng các kiến thức và kĩ năng sẵn có sao cho thích ứng với môi trường<br />
học tập mới. Do vậy, các kiến thức kĩ năng sẵn có của người học là một trong các tiền<br />
đề quan trọng để giúp GV lựa chọn tri thức dạy học và các PPDH phù hợp.<br />
Các biện pháp cụ thể:<br />
1/ Kết hợp việc tìm hiểu kiến thức và nhu cầu học tập với nội dung kiểm tra miệng.<br />
Trong biện pháp này, GV có thể tiến hành: Đặt một câu hỏi kiểm tra kiến thức Tiếng<br />
Việt của bài trước; Đặt một câu hỏi kiểm tra kiến thức Tiếng Việt đã có về nội dung bài<br />
sắp học.<br />
2/ Tìm hiểu kiến thức và nhu cầu học tập Tiếng Việt của HS qua phiếu điều tra<br />
Phiếu điều tra cũng có thể được sử dụng như một bài kiểm tra trắc nghiệm nhanh để GV<br />
tìm hiểu vốn tri thức, kinh nghiệm sẵn có của HS trước khi tiến hành dạy bài mới.<br />
3/ Sử dụng phiếu học tập để tìm hiểu kiến thức và nhu cầu học tập Tiếng Việt của HS<br />
Sử dụng phiếu học tập để tìm hiểu kiến thức và nhu cầu học tập Tiếng Việt của HS<br />
được áp dụng trong các bài học có nội dung kiến thức hoàn toàn mới, HS chưa được<br />
nghiên cứu ở các lớp dưới.<br />
b. Những biện pháp tạo môi trường học tập cho HS kiến tạo kiến thức<br />
Tạo môi trường học tập thuận lợi cho HS kiến tạo kiến thức thể hiện nét đặc thù của<br />
phương pháp dạy học Tiếng Việt theo quan điểm LTKT và là một điều kiện quan trọng<br />
trong quá trình học tập của HS. Môi trường học tập tích cực tạo cho HS hứng thú; giúp<br />
HS trao đổi - thảo luận, tìm tòi - phát hiện và giải quyết các vấn đề học tập. Qua đó, GV<br />
cũng thu được các thông tin phản hồi kịp thời và thường xuyên, tạo điều kiện để tổ<br />
chức, điều khiển quá trình học của HS đạt hiệu quả cao nhất. Các biện pháp cụ thể:<br />
1/ Sử dụng câu hỏi nêu vấn đề<br />
Dựa vào các tình huống có vấn đề, GV tổ chức hình thành tri thức Tiếng Việt cho HS có<br />
<br />
156<br />
<br />
TRƯƠNG THU HƯỜNG<br />
<br />
thể sử dụng năm loại câu hỏi nêu vấn đề sau đây:<br />
+ Câu hỏi nêu vấn đề “tại sao”, tương đương với tình huống GV nêu ra một hiện<br />
tượng liên quan đến ngôn ngữ, yêu cầu HS tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó.<br />
+ Câu hỏi nêu vấn đề lựa chọn, xuất phát từ tình huống GV nêu ra một hiện tượng<br />
ngôn ngữ và những ý kiến khác nhau về hiện tượng ngôn ngữ đó rồi yêu cầu HS<br />
bày tỏ thái độ về từng ý kiến đánh giá.<br />
+ Câu hỏi nêu vấn đề có tính chất nghịch lí, xuất phát từ tình huống GV nêu ra một<br />
số hiện tượng ngôn ngữ có vẻ rất phi lí nhưng thực sự lại có lí.<br />
+ Câu hỏi nêu vấn đề yêu cầu chứng minh, giải thích, xuất phát từ tình huống GV<br />
nêu nhận xét, đánh giá về một hiện tượng ngôn ngữ rồi yêu cầu HS giải thích,<br />
chứng minh nhận xét đó.<br />
+ Câu hỏi nêu vấn đề có tính chất tổng hợp, xuất phát từ tình huống GV nêu lên một<br />
loạt đối tượng và yêu cầu HS tìm đặc điểm chung của loại đối tượng đó.<br />
Câu hỏi nêu vấn đề tạo động lực thúc đẩy HS khám phá, tìm tòi lời giải và qua đó kiểm<br />
tra kiến thức và kinh nghiệm đã có sẵn của mình. Khi những tri thức cũ không đủ để<br />
giải quyết tình huống mới, quá trình điều ứng sẽ giúp HS khắc phục khó khăn và xây<br />
dựng tri thức cho bản thân.<br />
2/ Sử dụng ngữ liệu<br />
Ngữ liệu đóng vai trò là tri thức, kinh nghiệm đã có sẵn của HS, làm cơ sở cho quá trình<br />
đồng hóa và điều ứng, kiến tạo tri thức mới; tạo hứng thú học tập cho HS.<br />
Vận dụng quan điểm LTKT trong hình thành tri thức Tiếng Việt cho HS theo những<br />
hướng sau: Dùng ngữ liệu làm lời giới thiệu, dẫn dắt HS vào bài học một cách sinh<br />
động, hấp dẫn; Khai thác ngữ liệu văn học và ngữ liệu trong thực tế đời sống, dùng hoạt<br />
động phân tích, khái quát hóa, tương tự hóa để xây dựng tình huống học tập mới cho<br />
HS; Khai thác các tri thức sai lầm hoặc chưa đầy đủ của HS về ngữ liệu làm tiền đề cho<br />
việc xây dựng tình huống học tập mới.<br />
3/ Cung cấp các điều kiện, tư liệu học tập<br />
Các tư liệu học tập cho môn Tiếng Việt bao gồm: Các mẫu ngữ liệu dùng làm cơ sở cho<br />
việc phân tích đặc điểm, tính chất của các khái niệm, quy tắc Tiếng Việt; Những tư liệu<br />
trên mạng Internet, các SGK, sách tham khảo liên quan đến nội dung học tập để giúp<br />
cho HS đọc, nghiên cứu và thảo luận.<br />
4/ Tổ chức các hoạt động học tập hợp tác theo nhóm<br />
Trong quá trình dạy học Tiếng Việt cho HS theo quan điểm LTKT, GV có thể chia HS<br />
thành từng nhóm, thực hiện những nhiệm vụ học tập, từ đó hình thành tri thức.<br />
Những nội dung có thể tổ chức học theo nhóm là: Tìm hiểu kiến thức của HS liên quan<br />
đến vấn đề cần dạy; Phân tích ngữ liệu theo định hướng dẫn dắt HS hình thành tri thức;<br />
Giải quyết những bài tập nhận thức; Làm bài luyện tập kiểm tra đánh giá, củng cố, khắc<br />
<br />
157<br />
sâu tri thức...<br />
5/ Thu thập thông tin phản hồi<br />
Thông tin phản hồi giúp GV vừa đánh giá được khả năng tiếp thu bài học của HS, vừa<br />
có được dữ liệu cần thiết về kiến thức và kinh nghiệm đã có của HS; dự báo chính xác<br />
những sai lầm thường gặp của HS; phát hiện những hạn chế trong quá trình tự xây dựng<br />
tri thức của HS để có hướng điều chỉnh, khắc phục kịp thời.<br />
Các cách có thể triển khai để thu thập thông tin phản hồi trong tiết học: Cá nhân HS báo<br />
cáo: HS có thể trả lời miệng, dùng bảng phụ, dùng máy chiếu projecter...; Báo cáo kết<br />
quả hoạt động nhóm: Dùng bảng phụ treo lên tường tại vị trí nhóm để cho các nhóm<br />
khác cùng theo dõi, dùng máy chiếu projecter...; Kiểm tra thường xuyên đối với cá nhân<br />
HS và đánh giá chỉ số cố gắng của cả nhóm.<br />
6/ Sử dụng những hình thức củng cố mang tính gợi mở<br />
- Bên cạnh hệ thống bài luyện tập, củng cố trong SGK, GV có thể chuẩn bị thêm<br />
những bài tập tương tự với những ngữ liệu mới để kích thích hứng thú học tập của<br />
học sinh.<br />
- GV động viên HS nêu câu hỏi, trao đổi về vấn đề vừa được tìm hiểu để nắm vững<br />
kiến thức và kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn.<br />
- GV có thể đưa ra các câu hỏi gợi ý, một số hiện tượng để HS thảo luận phân tích,<br />
đặt thêm câu hỏi để HS hiểu thấu đáo nội dung học tập.<br />
c. Những biện pháp kiểm tra đánh giá và hướng dẫn HS tự kiểm tra, đánh giá<br />
Kiểm tra - đánh giá, ngoài việc cho điểm nhằm xác nhận kết quả học tập của HS còn là<br />
để chuẩn bị cho kế hoạch dạy học tiếp theo, hiểu về nhu cầu nhận thức của HS trong<br />
quá trình dạy học, tìm hiểu mức độ nắm vững kiến thức của HS, giúp HS tự đánh giá<br />
mình và điều chỉnh quá trình học tập kịp thời. Tuy nhiên, dạy học theo quan điểm<br />
LTKT, GV cần xác định, việc HS tự kiểm tra - đánh giá là một phần quan trọng để có<br />
kế hoạch điều chỉnh kịp thời, bổ sung hoàn thiện tri thức cho bản thân.<br />
Hình thành tri thức Tiếng Việt cho HS theo quan điểm LTKT vẫn tiếp tục phát huy hiệu<br />
quả nhanh chóng, tiện lợi, dễ dàng của các hình thức kiểm tra đánh giá truyền thống.<br />
Tuy nhiên, điểm khác biệt là: Hình thức kiểm tra vấn đáp nhanh và bài tập ngắn được<br />
chú trọng hơn vì chúng giúp GV thu được thông tin phản hồi nhanh chóng hơn, giúp HS<br />
sửa chữa sai lầm và kích thích HS tích cực học tập một cách thường xuyên, có hệ thống;<br />
GV cần xây dựng những bài kiểm tra kết hợp 70% tri thức kĩ năng cũ và 30% tri thức,<br />
kĩ năng mới; chú ý để mức độ khó của bài kiểm tra phù hợp với trình độ trung bình,<br />
nằm trong “vùng phát triển gần nhất” của đa số HS và có tính phân hóa cao; đánh giá<br />
được khả năng vận dụng của HS; GV cần luôn đưa ra những nhận xét, đánh giá cụ thể<br />
về kiến thức và kĩ năng của HS về mỗi bài kiểm tra; GV hướng dẫn cụ thể và khuyến<br />
khích HS tự đánh giá mình và đánh giá bạn.<br />
Hoạt động đánh giá có thể được cụ thể thành điểm số hoặc bằng những nhận xét cụ thể:<br />
<br />