intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

VÌ SAO ĐÁ HOA LẠI CÓ NHIỂU MÀU

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

73
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ở các công trình kiến trúc có nhiều loại cấu kiện như cột, bia chế tác bằng đá, trong đó có loại bằng đá hoa. Đá hoa có nhiều loại: loại có màu trắng tinh khiết, loại có màu xanh vằn đen, vằn trắng, vằn đỏ v.v... thật muôn hình muôn vẻ. Đá hoa là loại vật liệu kiến trúc quý. Đá hoa có thành phần chính là canxi cacbonat. Loại canxi cacbonat tinh khiết có màu trắng. Loại đá hoa trắng hay đá bạch ngọc chính là canxi cacbonat tinh khiết....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: VÌ SAO ĐÁ HOA LẠI CÓ NHIỂU MÀU

  1. VÌ SAO ĐÁ HOA LẠI CÓ NHIỂU MÀU Ở các công trình kiến trúc có nhiều loại cấu kiện như cột, bia chế tác bằng đá, trong đó có loại bằng đá hoa. Đá hoa có nhiều loại: loại có màu trắng tinh khiết, loại có màu xanh vằn đen, vằn trắng, vằn đỏ v.v... thật muôn hình muôn vẻ. Đá hoa là loại vật liệu kiến trúc quý. Đá hoa có thành phần chính là Loại canxi cacbonat tinh khiết có màu trắng. Loại canxi cacbonat. đá hoa trắng hay đá bạch ngọc chính là canxi cacbonat tinh khiết. Canxi cacbonat khó tan trong nước, nên các công trình kiến trúc làm bằng đá hoa thường khá bển vững, dù có dãi dầu mưa nắng qua năm tháng vẫn đứng trơ trơ. Canxi cacbonat dễ tan trong axit, nên khi canxi cacbonat gặp axit clohydric sẽ hòa tan để thoát ra các bóng khí cacbon dioxyt, một lúc sau sẽ tan hết. Ngưòi ta thường dùng phương pháp này để thử đá hoa. Đá hoa trong thiên nhiên không phải canxi cacbonat tinh khiết mà có nhiều tạp chất khác nhau nên có màu sắc khác nhau. Đá hoa có nhiều loại khác nhau, màu sắc đa dạng: có loại màu hồng, có loại màu tím hoa đậu, có loại màu đen xám v.v… Loại màu đỏ do có chứa muối coban, màu xanh do có chứa muối đồng, màu đen hoặc màu xám do có chứa sắt.
  2. Đá hoa mịn mặt, đều. Người ta không chỉ dùng đá hoa trong công trình kiến trúc mà còn dùng để chế tác nhiều đồ gia dụng như làm mặt bàn, trong điêu khắc và trang trí. Trong thiên nhiên còn có một số loại đá vôi cũng có thành phần chính là canxi cacbonat. Nhưng đá vôi có cấu trúc thô lại giòn nên ngưòi ta không dùng làm việc gì khác mà chỉ để nung vôi.
  3. VÌ SAO CÓ THỂ DỰ ĐOÁN ĐƯỢC NGUYỀN TỐ CÒN CHƯA TÌM THẤY ? Vào năm 1886, một nhà hóa học người Đức là Winkler đã tìm thấy một nguyên tốmới đó là nguyên tố gecmani (Ge). Ông đã dự đoán các số liệu thực nghiệm sau đây: Khối lượng nguyên tử 72,5 1. Tỉ trọng 5,47 2. 3. Không hòa tan trong axit clohydric Oxit của nguyên tốnày có công thức Ge02 4. Tỉ trọng của oxyt là 4,70 5. Trong dòng khí hydro đốt nóng, Ge02 bị khử thành kim 6. loại Ge Ge(OH)2 có tính kiềm yếu 7. GeCl4 là chất lỏng, nhiệt độ sôi t = 83°c, tỉ trọng 1,887, 8. Có điều kỳ lạ là ngay từ năm 1871, lúc còn chưa ai biết đến nguyên tố này, nhà hóa học Nga Mendeleev đã dự đoán hết sức chính xác về tính chất, đặc điểm của nguyên tố gecmani này. Mendeleev đã đưa ra các lời dự đoán về nguyên tốcòn chưa biết này như sau: Khối lượng nguyên tử 72 ü
  4. Tỉ trọng 5,5 ü Là kim loại không tan trong axit clohydric ü Oxit của kim loại có công thức M02 (cho đến naynguyên tố gecmani còn chưa được phát hiện nên người ta dùng chữ Mđểviết nên những pho sách thiên kinh, vạn quyển đó sao? Đốivới các nguyên tố cũng vậy. Từ các nguyên tố khác nhau,số lượng khác nhau cho “kết hợp” với nhau có thể tạo nên nhiều chất phức tạp, các nhà hóa học gọi đó là các hợp chất. Ngày nay người ta đã tổng hợp ước đến 3 triệu loại hợp chất khác nhau. Các vật mà chúng ta trông thấy hàng ngày, tuyệt đại đa sốkhông phải là các nguyên tốmà là các hợp chất, do nhiều loại nguyên tốkết hợp với nhau mà thành. Ví dụ nước là do hai nguyên tố oxy và hydro tạo nên. MonOxit cacbon và dioxit cacbon đều do hai nguyên tốoxy và cacbon tạo nên. Khí đầm lầy (metan), khí đốt thiên nhiên, than đá, vazơlin v.v... đều do hai nguyên tốcacbon và hydro kết hợp với nhau mà thành. Rượu, đưòng, chất béo, tinh bột là do 3 nguyên tố cacbon, hydro, oxy tạo nên v.v.v Không chỉ các chất trên Trái Đất mới do các nguyên tố tạo nên mà các chất trên các hành tinh khác cũng do các nguyên tốtạo nên. Điều làm người ta hết sức lạ lùng là nếu đối chiếu các nguyên tố có trên Trái Đất và các nguyên tố ở trên các thiên thể khác thì chúng “không hẹn mà nên” đều hoàn toàn giống nhau. Nếu đem các “vị khách đến từ bên
  5. ngoài” như các thiên thạch đem phân tích bằng các phương pháp trực tiếp hoặc bằng phân tích quang phổ, người ta tìm thấy rằng không có nguyên tố nào có mặt trên các thiên thể khác lại không có mặt trên Trái Đất của chúng ta. Oxit có tỉ trọng 4,7 9. Oxit của kim loại dễ dàng bị khử để cho kim loại 10. Oxit của kim loại có tính kiềm rất yếu 11. Clorua của kim loại có công thức MC14 là chất lỏng, có 12. nhiệt độ sôi 90°c. Tỉ trọng của chất lỏng này bằng 1,9. Các bạn thử so sánh dự đoán của Mendeleev và các sốliệu thực nghiệm do Winkler công bố, bạn đã thấy các dự đoán của Mendeleev quả là rất chính xác. Lời dự đoán của Mendeleev không phải là “nhắm mắt nói mò” mà ông đã dùng một phương pháp suy luận, phán đoán hết sức khoa học, hết sức chặt chẽ. Từ trước khi có các dự báo của Mendeleev, nhiều nhà hóa học đã kế tiếp nhau phát hiện được hơn 60 nguyên tố. Thế nhưng liệu có bao nhiêu nguyên tốtất cả thì chưa có ai trả lời được. Để giải đáp câu hỏi này, các nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu liệu có quy luật nội tại nào giữa các nguyên tốhay không? Có người dựa theo các tính chất vật lý của các nguyên tố như điểm nóng chảy, điểm sôi, màu sắc,
  6. trạng thái, tỉ trọng, độ cứng, tính dẫn điện, tính dẫn nhiệt v.v... để phân loại. Có người dựa theo tính chất hóa học, hóa trị, tính axit, tính kiềm để phân loại, thế nhưng chưa có ai tìm được quy luật. Trong khi học tập người đi trước, Mendeleev đã tổng kết các kinh nghiệm của người đi trước, ông đã quyết định dùng một biện pháp mới: ông đã dùng các thuộc tính vốn có của các nguyên tốkhông chịu ảnh hưởng của các điều kiện ngoạicảnh như khối lượng nguyên tử và hóa trị để tiến hành phân tích và đã cải chính khối lượng nguyên tử của 8 nguyên tôlà Be, In, u, Os, Ir, Pt, Y và Ti mà những sai lầm về khối lượng này đã được mọi người ngộ nhận trong một thời gian dài. Mendeleev đã tổng hợp các đặc tính của các nguyên tố, phát hiện được quy luật tuần hoàn của các nguyên tố, dùng quy luật biến đổi tuần hoàn để sắp xếp các nguyên tố thành bảng tuần hoàn các nguyên tố. Các vị trí tương ứng trên bảng tuần hoàn dù đã có các nguyên tố hay còn chưa có các nguyêntố,thì vị trí của bản thân nguyên tốcũng nêu đủ toàn bộ tính chất của nguyên tố. Dự đoán chính xác của Mendeleev về gecmani dựa vào: nguyên tố đứng bên trái Ge là gali có khối lượng nguyên tử 69,72, nguyên tố asen ở bên phải có khối lượng nguyên tử 74,92, nguyên tố đứng trên là silic có khối lượng nguyên tử 28,08, nguyên tố đứng phía dưới là thiếc Sn có khối lượng nguyên tử là 118,6. Trung bình cộng của 4 nguyên tố trái, phải, trên, dưới của các khốỉ lượng nguyên tử là 72,86. Sau này rõ ràng Ge có khôi lượng nguyên tử là 72,61. Đó không phải là ngẫu nhiên mà là có tính quy luật. Dựa vào cùng một phương pháp, Mendeleev cho dự đoán của 3 nguyên tố khác.
  7. Chỉ trong vòng 20 năm, các nguyên tố này dần dần được phát hiện, mà các tính chất của các nguyên tô" này thực tế lại hết sức phù hợp với các dự đoán. Việc phát hiện quy luật thay đổi tuần hoàn của các nguyên tô hóa học không chỉ kết thúc sự cô lập của các nguyên tố, kết thúc trạng thái hỗn loạn mà đã đem lại cho người ta một nhãn quan khoa học nhận thức quy luật nội bộ tự nhiên của các nguyên tố.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2