VÌ SAO HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC KINH DOANH <br />
LÀ YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH?<br />
<br />
Trong điều kiện kinh tế và môi trường kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp (DN) <br />
Việt Nam, hơn lúc nào hết, việc xây dựng chiến lược kinh doanh và nhất là thực hiện <br />
chiến lược một cách nhất quán trở nên quan trọng, có ý nghĩa sống còn với nhiều DN.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Theo Alfred Chandler (Đại học Havard), hoạch định chiến lược kinh doanh là việc xác định <br />
các mục tiêu chủ yếu dài hạn của doanh nghiệp. Từ đó, chọn lựa phương thức hành động và <br />
phân bổ các tài nguyên thiết yếu của DN để thực hiện các mục tiêu đó.<br />
<br />
Điều đáng lưu ý là, hoạch định chiến lược đều nhắm vào việc thực hiện mục tiêu cốt lõi của <br />
DN là gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư ROI (Return on Investment). Và, nội dung cơ <br />
bản của chiến lược kinh doanh của DN là hoạch định đường đi để đến đích đã vạch ra.<br />
<br />
Thất bại nếu không có chiến lược kinh doanh<br />
Thực tế cho thấy, trong giai đoạn kinh tế khó khăn, số DN thua lỗ cao, trong đó có cả các DN <br />
quy mô lớn, thậm chí, nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước cũng trở nên yếu sức đi rất nhiều, khi <br />
những lĩnh vực đầu tư (ngoài ngành chính) bị ảnh hưởng bởi các quyết định đầu tư dàn trải, <br />
không được kiểm soát.<br />
<br />
Tuy nhiên, bức tranh u ám trên đã được dự báo trước, khi các chuyên gia kinh tế không nhìn <br />
thấy sự bài bản, nhất quán trong xây dựng, hoạch định chiến lược, cũng như cách thức thực <br />
hiện chiến lược đó. Thậm chí, nhiều DN mắc phải những sai lầm trong quá trình xây dựng <br />
chiến lược, như thiếu tầm nhìn, sứ mệnh không rõ ràng, không chú trọng xây dựng năng lực <br />
cốt lõi… <br />
<br />
Kèm theo đó còn là những quyết định đầu tư theo phong trào, không kiên định với định hướng <br />
ngành nghề kinh doanh chính, do đó, DN đã bị thua lỗ do không kiểm soát được các danh mục <br />
đầu tư… Vì thế, có thể xem nhiều DN có đề ra chiến lược kinh doanh nhưng không làm theo <br />
hoặc chiến lược kinh doanh sơ sài, không nghiên cứu kỹ lưỡng cũng có thể xem như không <br />
có chiến lược kinh doanh. Điều đó, đồng nghĩa với việc, trong những năm qua, rất nhiều DN <br />
Việt Nam không có chiến lược kinh doanh. Và, đó chính là nguyên do dẫn tới thất bại của <br />
DN.<br />
<br />
Thứ nhất, về công tác nghiên cứu thị trường<br />
<br />
Thực tế, có thể thấy, nhiều DN không thực hiện nghiên cứu thị trường không thường xuyên, <br />
định kỳ; không làm kỹ lưỡng, chuyên sâu. Xây dựng chiến lược kinh doanh vội vàng; đơn <br />
giản không dựa trên những căn cứ xác đáng. Điều này thể hiện trên những mặt sau:<br />
<br />
Không nắm được chiến lược kinh doanh đang thực hiện và sắp tới của đối thủ cạnh tranh <br />
của mình?<br />
<br />
Sản phẩm đơn vị sản xuất ra có đáp ứng nhu cầu thị trường?<br />
<br />
Điển hình như việc nhiều đơn vị kinh doanh bất động sản thời gian qua tập trung xây dựng <br />
căn hộ cao cấp trong khi nhu cầu cần của thị tr ường là căn hộ bình dân giá thấp. Kết quả là <br />
căn hộ cao cấp sản xuất ra không bán được; thị trường bất động sản “đóng băng” cũng một <br />
phần xuất phát từ nguyên nhân này.<br />
<br />
Không dựa trên điều tra; nghiên cứu; số lượng cụ thể… chỉ ước lượng đại khái, cảm tính.<br />
<br />
Thứ hai, nhiều đơn vị kinh doanh đa ngành, trong khi năng lực (vốn tự có, nhân lực…) chỉ <br />
đủ khả năng kinh doanh ngành cốt lõi. Trong quá trình hoạt động, có đơn vị chạy theo phong <br />
trào, kinh doanh thêm chứng khoán; đầu tư xây dựng bất động sản; ngân hàng… dẫn tới <br />
không kiểm soát được hoạt động của DN.<br />
<br />
Nhiều DN Việt Nam muốn “ngay lập tức” phát triển thành tập đoàn khổng lồ, trong khi tại <br />
các nước, phải mất đến hàng trăm năm mới có thể phát triển thành tập đoàn vững vàng. DN <br />
nào cũng đề ra hướng phát triển đa ngành, hướng tới trở thành tập đoàn đa ngành, đầu tư vào <br />
mọi lĩnh vực, trong khi khả năng tài chính lại chỉ ở mức vừa phải. Do đó, dẫn tới tình trạng <br />
“ăn xổi”, dễ thất bại.<br />
<br />
Hoặc có những DN chỉ phù hợp hoạt động, quy mô hoạt động trong địa phương (tỉnh, thành <br />
phố), nhưng với tâm lý muốn khuếch trương bằng mọi giá, đã mở rộng hoạt động trên phạm <br />
vi cả nước… Hiện trạng này dẫn đến nhiều khó khăn; chia cắt sức lực, tăng chi phí rất lớn <br />
dẫn đến giảm lợi nhuận.<br />
<br />
Thứ ba, DN chưa chú trọng xây dựng lợi thế cạnh tranh. Trong dài hạn, nếu không chú trọng <br />
tạo sự khác biệt của công ty; dễ bị cạnh tranh; từng thời gian thua kém đơn vị cùng ngành.<br />
<br />
Thứ tư, về kế hoạch sử dụng vốn. Từ việc không có kế hoạch kinh doanh, dẫn đến không <br />
có kế hoạch sử dụng vốn cụ thể và không thể chủ động về nguồn vốn. Cụ thể:<br />
<br />
Sử dụng vốn “vay ngân hàng” vượt quá sức doanh nghiệp. Có DN do “bị động” chạy theo <br />
kinh doanh đa ngành, trong khi thực lực lại vừa phải, do đó đa phần sử dụng vốn “vay ngân <br />
hàng”. Trong bối cảnh khó khăn triền miên, lại phải trả lãi suất cao (tại Việt Nam qua các <br />
năm 20092010 lãi suất cao có đến 17%/ năm)…, nên hết sức khó khăn. <br />
Hơn nữa, do không thể chủ động về nguồn vốn, nên DN không có kế hoạch trả vốn. Nhiều <br />
đơn vị đã sử dụng vốn vay ngân hàng gấp hàng chục lần vốn điều lệ; thay vì tối đa chỉ được <br />
phép gấp 2 lần. Đây chính là đầu mối dẫn đến doanh nghiệp phải đóng cửa, phá sản…<br />
<br />
Sử dụng vốn ngắn hạn, đầu tư dài hạn. Phát triển một dự án bất động sản từ 3 năm đến 5 <br />
năm, nhưng vay ngân hàng chỉ 6 tháng, 1 năm dẫn đến phải “đáo nợ” liên tục, tăng chi phí rất <br />
nhiều. Đồng thời, giảm rất nhiều thời gian dành cho kinh doanh.<br />
<br />
Không quan tâm dòng tiền mặt, không có nguồn tiền dự phòng. Gặp khủng hoảng kinh tế <br />
toàn cầu, bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước kéo dài, việc không chủ động dòng tiền mặt, quỹ <br />
dự phòng…, nhiều DN đã phải vay nợ “xã hội đen” và phải trả giá rất lớn.<br />
<br />
Thứ năm, kế hoạch xây dựng và phát triển nguồn nhân lực. Nhiều đơn vị không chủ động <br />
(không có kế hoạch) kế hoạch bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực, mà chỉ đơn thuần <br />
quan tâm đến trả lương cho cán bộ, công nhân viên, nên khả năng mất người khi: (i) Có đơn <br />
vị khác trả lương cao hơn; (ii) Gặp khi đơn vị gặp khó khăn.<br />
<br />
Thực tế, khó có thể có người giỏi, nếu không có kế hoạch chi tiết đào tạo, những người làm <br />
việc tại chỗ, gắn bó nhiều năm với công ty. Bên cạnh đó, cần cấm kỵ việc sử dụng họ hàng, <br />
thân quen năng lực rất yếu vào những vị trí chủ chốt của DN. Từ việc sử dụng này, dễ tạo <br />
không khí làm việc thiếu cạnh tranh, người giỏi khó được đề bạt, khiến họ nản chí không <br />
muốn cống hiến. Tinh thần làm việc toàn doanh nghiệp không cao.<br />
<br />
Bên cạnh đó, việc không có kế hoạch chú trọng tuyển bổ sung những người thực sự có năng <br />
lực chuyên ngành, nhất là đối với những cán bộ chủ chốt, phó phụ trách tài chính, phụ trách <br />
marketing…, nên phải giữ những người ban đầu kiêm nhiệm quá lâu. Điều đó, dẫn đến kết <br />
quả kinh doanh nhiều hạn chế. Trong quá trình cạnh tranh, đây cũng là nguyên nhân khiến <br />
DN bị thua sút đối thủ.<br />
<br />
Những vấn đề trọng tâm trong hoạch định chiến lược<br />
Quá trình điều hành hoạt động doanh nghiệp hơn 25 năm trên cương vị là người đứng đầu <br />
doanh nghiệp liên tục tại nhiều đơn vị khác nhau đã đúc rút cho tôi nhiều bài học kinh <br />
nghiệm quý. Vì thế, theo tôi, doanh nghiệp cần tập trung vào một số vấn đề quyết định sau:<br />
<br />
Một là, về công tác nghiên cứu thị trường.<br />
<br />
Hoạch định chiến lược kế hoạch kinh doanh phải dựa trên cơ sở tiến hành công tác nghiên <br />
cứu thị trường tỷ mỷ, nắm vững nhu cầu thực tế của thị trường; đối thủ cạnh tranh của mình <br />
là ai? phương thức, cách thức kinh doanh của họ ra sao?<br />
<br />
Thời gian qua, có nhiều doanh nghiệp thất bại vì công tác nghiên cứu thị trường làm không <br />
kỹ lưỡng, không chuyên sâu. Do đó, quyết định đầu tư ngành sản phẩm không đúng, kết quả <br />
là sản xuất dư thừa, hàng hóa bán không được; sản xuất không theo nhu cầu của thị trường.<br />
<br />
Hai là, xây dựng cách thức tổ chức bán hàng tối ưu.<br />
<br />
Vấn đề mang ý nghĩa quyết định cho sự thành công của công ty là cách thức tổ chức bán <br />
hàng; kênh phân phối hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp thành công khi xây dựng cách thức tổ <br />
chức bán hàng tối ưu bằng các chiến lược tiếp thị sản phẩm tốt, đưa sản phẩm đến tay <br />
người tiêu dùng qua các đại lý, các điểm bán hàng trên khắp các tỉnh, thành. Có thể nêu ở đây <br />
một số điển hình như công ty Vissan với hơn 300.000 điểm bán hàng, Vinamilk xây dựng trên <br />
500.000 điểm bán hàng trên cả nước…<br />
<br />
Ba là, xác định kinh doanh chuyên ngành hay đa ngành?<br />
<br />
Sau một thời gian thử nghiệm, công ty Vinamilk quyết định bỏ sản xuất mặt hàng cà phê <br />
(bán toàn bộ dây chuyền sản xuất cà phê), mà tập trung nguồn lực cho sản phẩm chính là <br />
“sữa”. Kết quả doanh thu các năm đều tăng vượt lên, lợi nhuận tăng lên, ngay cả trong thời <br />
kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới và bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước kéo dài. Trong khi đó, <br />
nhiều doanh nghiệp khác thất bại chỉ vì ngoài ngành chính, đầu tư thêm chứng khoán, Bất <br />
động sản, ngân hàng…<br />
Bốn là, nguồn vốn kinh doanh. Chúng ta kinh doanh dựa trên nguồn vốn nào? Cần xác định <br />
vay nợ hay không? Mức độ nợ tỷ lệ % trên vốn chủ sở hữu? Hoặc nhắm đến mời gọi hợp <br />
tác nguồn vốn để kinh doanh; hoặc từ nguồn mời gọi cổ đông (phát hành cổ phần); hay phát <br />
hành trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chuyển đổi… cũng như lộ trình đưa doanh nghiệp <br />
niêm yết trên thị trường chứng khoán có cần hay không?... Đó là các vấn đề mà DN cần quan <br />
tâm và trả lời bằng được trong quá trình phát triển của mình.<br />
<br />
Năm là, xây dựng lợi thế cạnh tranh của DN. Hãng tư vấn chiến lược BCG danh tiếng của <br />
Mỹ đã đưa ra: “Đối thủ muốn duy trì thế cạnh tranh lâu dài phải giữ vững lợi thế độc đáo <br />
bằng cách tạo ra khác biệt so với người khác. Quản trị sự khác biệt này chính là tinh hoa của <br />
chiến lược kinh doanh dài hạn”. Vì thế, hoạch định chiến lược kinh doanh cần phải chứng <br />
minh điểm khác biệt giữa công ty mình và các đối thủ cạnh tranh có thể qua: mẫu mã, bao bì, <br />
chất lượng, giá thành sản phẩm…<br />
<br />
Ví dụ: Công ty Cổ phần Đầu tư Nam Long xác định sự khác biệt, đầu tư dòng sản phẩm căn <br />
hộ bình dân: dòng sản phẩm Ehome. Toàn bộ thiết kế tập trung tạo căn hộ hữu dụng, sử <br />
dụng diện tích ít nhưng tiện dụng; giá thành sản phẩm rất thấp hợp nhu cầu người dân. Kết <br />
quả là Ehome 1,2,3,4 … hàng không đủ bán dù thị trường bất động sản đang “đóng băng”.<br />
<br />
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, trong từng giai đoạn, nhất là trong khi môi trường kinh doanh <br />
biến động mạnh, doanh nghiệp có thể phải xem xét lại, định lại chiến lược kinh doanh của <br />
mình, nhằm kịp thời thay đổi phù hợp với nhu cầu thị trường, phù hợp với điều kiện, năng <br />
lực mới. DN cũng cần thường xuyên tái cấu trúc, giảm thiểu chi phí, tăng thêm thị phần và <br />
lợi nhuận để tạo nền móng chuẩn bị cho thời kỳ hồi phục của nền kinh tế.<br />