intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vị trí địa - chính trị của châu Vị Long trong tuyến phòng thủ biên cương phía Bắc của vương triều Lý

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

59
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Vào thế kỷ X, châu Vị Long có vị trí địa - chính trị cực kỳ quan trọng của quốc gia Đại Việt. Trước thế kỷ X, trong thời gian phương Bắc đô hộ, nước ta bị chia thành quận, huyện. Có thể nói, cương vực của các huyện thời kỳ này rất rộng lớn, nhiều huyện có diện tích lớn hơn một tỉnh ngày nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vị trí địa - chính trị của châu Vị Long trong tuyến phòng thủ biên cương phía Bắc của vương triều Lý

VỊ TRÍ ĐỊA - CHÍNH TRỊ CỦA CHÂU VỊ LONG<br /> TRONG TUYẾN PHÒNG THỦ BIÊN CƯƠNG PHÍA BẮC<br /> CỦA VƯƠNG TRIỀU LÝ<br /> HÀ MẠNH KHOA*<br /> <br /> 1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.*<br /> Vào thế kỷ X, châu Vị Long có vị trí địa<br /> - chính trị cực kỳ quan trọng của quốc gia<br /> Đại Việt. Trước thế kỷ X, trong thời gian<br /> phương Bắc đô hộ, nước ta bị chia thành<br /> quận, huyện. Có thể nói, cương vực của các<br /> huyện thời kỳ này rất rộng lớn, nhiều huyện<br /> có diện tích lớn hơn một tỉnh ngày nay.<br /> Địa hình Tuyên Quang (nói chung) và<br /> Vị Long (nói riêng) khá phức tạp và mang<br /> tính chuyển tiếp rõ rệt. Với hơn 70% diện<br /> tích là núi, địa hình bị chia cắt bởi nhiều<br /> dãy núi cao (dãy Cao Khánh ở phía bắc,<br /> dãy Tam Đảo ở phía nam). Các dãy núi<br /> chính thường có dạng xuôi theo đứt gãy<br /> kiến tạo sông Hồng và sông Lô, song núi<br /> không kéo thành mạch dài, mà bị chia cắt<br /> thành các khối rời rạc để tạo ra những kiểu<br /> cấu trúc vòng cung mà tiêu biểu là cánh<br /> cung sông Gâm. Phía bắc tập trung nhiều<br /> dãy núi cao, sông ở đây cũng vì thế thường<br /> dốc và lắm thác ghềnh. Xuôi về phía nam<br /> núi càng thấp, mặc dù vẫn còn những ngọn<br /> núi nhô cao, vách thẳng đứng, nhưng ở khu<br /> vực này chủ yếu là đồi bát úp kiểu trung<br /> du. Ở đây có nhiều cánh đồng bằng phẳng,<br /> đó là bãi bồi bên sông Lô, sông Phó Đáy<br /> hoặc những thung lũng giữa núi khá rộng.<br /> Trong Hoàng Việt địa dư chí, Phan Huy<br /> Chú đã miêu tả vùng đất Tuyên Quang với<br /> *<br /> <br /> TS. Viện Sử học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.<br /> <br /> “núi khe chi chít, phần lớn là nơi rừng<br /> thiêng nước độc,… so với các trấn ở cõi<br /> ngoài thì đây là một vùng quá xa xôi”1.<br /> Trong Tuyên hành kí trình được viết vào<br /> thế kỉ XIX cũng đã miêu tả khá chi tiết về<br /> vùng đất Tuyên Quang:<br /> “Triều ta đất gọi Tam Tuyên<br /> Với Cao – Thái - Lạng về miền thượng du…<br /> Đất đồn phong chướng xưa nay<br /> Lên Tuyên là tiếng sợ thay cho người”.<br /> …“Cảnh đâu có cảnh lạ lùng<br /> Dễ thường nước nhược non bồng đâu đây<br /> Nước xanh hoa rủ cành cây<br /> Đá lô xô mọc chim bay lẩn chiều”2.<br /> Những ngọn núi cao như núi Chặm<br /> Chu, Pia Phương, Pia Hec, Khuổi Ma,<br /> Khuẩy Phầy, Thanh Tương… thuộc các<br /> huyện Hàm Yên, Chiêm Hóa, Nà Hang<br /> cùng rất nhiều đèo dốc hiểm trở. Những<br /> ngọn núi cao đã tạo thành nhiều hang<br /> động, nhiều khe vực. Địa hình phức tạp,<br /> núi non hiểm trở, sông suối uốn khúc lắm<br /> thác ghềnh tạo ra không ít khó khăn cho<br /> nhân dân địa phương trong cuộc sống sinh<br /> hoạt. Nhưng chính những dãy núi cao<br /> trùng điệp, những khe vực hiểm trở ấy lại<br /> là thành lũy ngăn bước quân giặc. Những<br /> hang động lớn là nơi ẩn nấp, ém quân,<br /> cũng là nơi cất giấu lương thực, vũ khí an<br /> <br /> 72<br /> <br /> toàn của bà con các dân tộc mỗi khi có giặc<br /> bên ngoài xâm lấn. Vị trí đắc địa ấy đã<br /> được phát huy trong cuộc kháng chiến<br /> chống thực dân Pháp của dân tộc sau này.<br /> Vào thế kỷ X, cương vực châu Vị Long<br /> ít nhất gồm ba huyện Chiêm Hóa, Hàm<br /> Yên và Na Hang của tỉnh Tuyên Quang<br /> ngày nay.<br /> Tuyên Quang nằm ở trung tâm của lưu<br /> vực sông Lô, sông Gâm chảy qua tỉnh theo<br /> hướng bắc - nam và nhập vào sông Lô ở phía<br /> tây bắc huyện Yên Sơn chỗ giáp ranh giữa ba<br /> xã Phúc Ninh, Thắng Quân và Tân Long.<br /> Tuyên Quang có diện tích 5.868 km², 1<br /> thành phố và 6 huyện là Chiêm Hóa, Hàm<br /> Yên, Lâm Bình, Nà Hang, Sơn Dương và<br /> Yên Sơn. Trong đó ba huyện Chiêm Hóa,<br /> Hàm Yên, Nà Hang vốn là đất của châu Vị<br /> Long thời Lý. Huyện Chiêm Hóa có diện<br /> tích 1.455 km 2, Hàm Yên có diện tích 907<br /> km2, Nà Hang có diện tích 1.461 km2. Như<br /> vậy, ba huyện này có tổng diện tích 3.823<br /> km2 chiếm hơn 65% diện tích toàn tỉnh.<br /> Trong thời kì phong kiến, trải qua các<br /> triều đại từ Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,<br /> Lê… Tuyên Quang là một vùng đất rộng<br /> lớn và đến thế kỷ XIX, cương vực của<br /> Tuyên Quang được sách Đại Nam nhất<br /> thống chí, viết như sau: “Đông tây cách<br /> nhau 251 dặm, nam bắc cách nhau 384<br /> dặm; phía đông đến biên giới châu Bạchthông tỉnh Thái-nguyên 103 dặm, phía tây<br /> đến địa giới huyện Trấn-yên và châu Thủyvĩ tỉnh Hưng-hóa 148 dặm, phía nam đến<br /> địa giới các tỉnh Hùng-quan và Sơn-dương<br /> tỉnh Sơn-tây 37 dặm, phía bắc đến địa giới<br /> phủ Khai-hóa tỉnh Vân-nam nước Thanh<br /> 347 dặm, phía đông-nam đến địa giới tỉnh<br /> Thái-nguyên 74 dặm, phía tây-nam đến địa<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 10/2012<br /> <br /> giới tỉnh Hưng-hóa 74 dặm, phía đông-bắc<br /> đến địa giới nước Thanh 222 dặm, phía<br /> tây-bắc đến địa giới tỉnh Hưng-hóa và địa<br /> giới nước Thanh 229 dặm; từ tỉnh lị đi về<br /> phía nam đến Kinh thành 1.399 dặm”3.<br /> Trong bài kí “Tuyên Quang phong thổ kí”,<br /> Nguyễn Văn Bân đã nhìn nhận: “Tuyên<br /> Quang nằm về phía bắc miền thượng du,<br /> có hình thế rồng cuộn hổ ngồi, giữ chắc<br /> nơi biên ải, làm cho thế nước vững bền,<br /> khiến cho đất đẹp một phương được nối<br /> tiếp tiếng hay từ vạn cổ”4. Theo Đại Nam<br /> nhất thống chí, Tuyên Quang trước thế kỷ<br /> XX “Mặt ngoài khống chế tỉnh Vân-nam,<br /> mặt trong liền Cao-bằng và Thái-nguyên,<br /> phía đông suốt đến Sơn-tây và Hưng- hóa,<br /> đều là miền thượng du xứ Bắc kì…, đấy là<br /> phên giậu của trung châu, cũng là nơi địa<br /> đầu quan yếu”5.<br /> Với cương vực đó, từ xưa Tuyên Quang<br /> (nói chung) và Vị Long (nói riêng) có vị trí<br /> địa - chính trị rất quan trọng, được coi “là<br /> chỗ biên thùy xa hơn nhiều”. Như vậy, rõ<br /> ràng đây là một vùng đất trọng yếu của đất<br /> nước, có vai trò quan trọng về chính trị ngoại giao và quân sự. Vùng đất Tuyên<br /> Quang trong suốt thời kì phong kiến được<br /> coi là phên giậu của quốc gia, là bức tường<br /> thành để bảo vệ cho kinh thành trước thế<br /> lực phong kiến phương Bắc và Vị Long<br /> chính là “lõi” của vị trí địa-chính trị quan<br /> trọng này.<br /> 2. Vị thế chính trị - kinh tế.<br /> Về đơn vị “châu” ở nước ta có từ thời<br /> thuộc Tùy. Thời gian tồn tại của nhà Tùy<br /> không dài, chỉ khoảng 37 năm, tính từ năm<br /> 581 cho đến năm 618. Nhà Tùy tiến hành<br /> chia lại các quận, huyện, lúc đầu quyết định<br /> bỏ đơn vị hành chính cấp quận, đặt cấp châu.<br /> <br /> Vị trí địa - chính trị của châu Vị Long…<br /> <br /> Nhưng chỉ ít năm sau, vào năm 607 dưới đời<br /> Tùy Dưỡng Đế, nhà Tùy lại bỏ đơn vị hành<br /> chính cấp châu và lập lại cấp quận.<br /> Năm 679, Đường Cao Tông chia đất<br /> Giao Châu ra làm 12 châu, trong đó có<br /> Thang Châu ở miền đất Tuyên Quang.<br /> Năm 905, Khúc Hạo nắm quyền cai<br /> quản đất nước. Thực hiện quyền tự chủ,<br /> ông đã cho chia lại các khu vực hành<br /> chính, thay toàn bộ các châu, huyện do nhà<br /> Đường cắt đặt trước đây thành những đơn<br /> vị hành chính mới, gồm có: Lộ, Phủ, Châu<br /> và Xã 6.<br /> Năm 1002, Vua Lê Đại Hành tiến hành<br /> sữa đổi các đơn vị hành chính trong cả<br /> nước "đổi mười đạo làm lộ, phủ, châu"7.<br /> Nhưng tên các lộ, phủ, châu và phạm vi<br /> của từng đơn vị hành chính này ra sao thì<br /> không thấy sử sách ghi rõ. Khi khảo cứu về<br /> địa danh của đất nước qua các đời, Đào<br /> Duy Anh nhận xét "nhà Lê đổi mười đạo<br /> làm lộ, phủ, châu. Hiện nay không rõ danh<br /> hiệu và vị trí các lộ, phủ, châu ấy như thế<br /> nào"8. Lần theo những điều ghi chép ít ỏi<br /> trong các sách như: Việt sử lược, Đại Việt<br /> sử ký toàn thư, Khâm Định Việt sử thông<br /> giám cương mục, Lịch Triều hiến chương<br /> loại chí, Đại Nam nhất thống chí, Phương<br /> Đình địa dư chí... có nhắc đến các đạo, lộ,<br /> phủ, châu... thời Tiền Lê, trong đó có<br /> huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang ngày<br /> nay gọi là Châu Vị Long9... và danh xưng<br /> đó có lẽ tồn tại trong các triều Đinh - Tiền<br /> Lê - Lý - Trần - Hồ. Đầu thế kỷ XV, khi<br /> thuộc Minh, châu Vị Long mới đổi thành<br /> châu Đại Man. Từ đó đến năm 1831, mới<br /> đổi thành châu Chiêm Hoá (nay là huyện<br /> Chiêm Hoá) và đến năm 1943 lại chia<br /> thành 2 huyện là Chiêm Hóa và Nà Hang10.<br /> <br /> 73<br /> <br /> Đến nay, chúng ta chưa thể biết rõ<br /> cương vực, quy mô tổ chức bộ máy chính<br /> quyền các cấp hành chính thời đó ra sao.<br /> Nhưng dù sao, vào thời Tiền Lê, bộ máy<br /> hành chính nhà nước từ trung ương đến địa<br /> phương đã bắt đầu được xác lập, thể hiện<br /> chức năng quản lý của chính quyền nhà<br /> nước ở trung ương đối với chính quyền cấp<br /> địa phương là lộ, phủ, châu, chứng tỏ sự nỗ<br /> lực của nhà Tiền Lê trong việc xây dựng nền<br /> hành chính mới để tăng cường sự quản lý đất<br /> nước và uy quyền của nhà nước quân chủ.<br /> Đến thời Lý, năm 1010, Lý Thái Tổ đã<br /> đổi 10 đạo thời Đinh, Lê thành 24 lộ, song<br /> các nhà nghiên cứu mới xác định được danh<br /> hiệu và vị trí của khoảng 20 lộ (xem Đào<br /> Duy Anh - Đất nước Việt Nam qua các<br /> đời). Các lộ ở trung châu cũng gọi là phủ.<br /> Những địa phương miền núi thì chia thành<br /> châu. Tại các châu thuộc miền núi thì các tù<br /> trưởng được làm Châu mục thế tập. Thời<br /> Lý, quan lại đứng đầu cấp phủ, lộ thời kỳ<br /> này là Tri phủ, Phán phủ11. Đứng đầu cấp<br /> châu là Tri châu, có những châu ở xa (biên<br /> giới) nhà Lý đều đặt chức Quan mục, thường dùng những hào trưởng (hay tù trưởng<br /> - TG) tại địa phương để giữ những chức<br /> đó12. Đối với những miền biên viễn xa triều<br /> đình, một mặt nhà Lý đã dùng chính sách<br /> “Ki mi” để ràng buộc và một mặt dùng các<br /> tù trưởng người địa phương theo chế độ thế<br /> tập để cai quản. Vào thời kỳ này, ở châu<br /> Qui Hoá và châu Đăng có họ Lê, ở châu<br /> Lạng có họ Thân, ở châu Vị Long có họ Hà,<br /> ở châu Phú Lương có họ Dương, châu<br /> Quảng Nguyên có họ Nùng v.v.. Chính sách<br /> của nhà Lý là cho phép họ thực sự được<br /> quản lý vùng đất của mình theo chế độ thế<br /> tập, nhưng phải thần phục triều đình và phải<br /> giữ chế độ cống phú đều đặn.<br /> <br /> 74<br /> <br /> Tuy vậy, những người đứng đầu các<br /> châu này luôn “nổi dậy” chống lại triều<br /> đình. Trên thực tế, về mặt quản lý hành<br /> chính thì chính quyền địa phương ở các<br /> châu xa miền biên viễn vẫn thuộc quyền tự<br /> quản hay tự trị của các tù trưởng hoặc châu<br /> mục. Vì vậy, đôi khi do sự bất bình nào<br /> đấy, tù trưởng các địa phương đã nổi dậy<br /> chống lại triều đình, thành xu hướng cát cứ<br /> hoặc tách ra thành lập vương quốc riêng.<br /> Dưới thời Lý, mỗi khi có tù trưởng địa<br /> phương nổi dậy, ảnh hưởng đến sự an bình<br /> của cộng đồng dân tộc, buộc triều đình<br /> phải dùng đến biện pháp bình định hoặc<br /> đánh dẹp khi cần thiết.<br /> Vào đầu triều Lý, trong vòng 50 năm<br /> đầu, tương ứng với hai đời vua Lý Thái Tổ<br /> (1010-1028), Lý Thái Tông (1028-1054),<br /> đã có khá nhiều cuộc nổi dậy mà biên niên<br /> sử thường ghi là những cuộc làm phản.<br /> Trước những cuộc “làm phản” này, các<br /> vua Lý thường phải thân chinh đi hoặc cử<br /> quần thần đi đánh. Dưới triều vua Lý Thái<br /> Tổ, trong vòng 18 năm biên niên sử ghi lại<br /> 10 vụ nổi dậy vào các năm 1011, 1012,<br /> 1013,1014, 1015, 1022, 1024, 1026, 1027,<br /> 1028 13. Trong số 10 vụ chỉ có 2 vụ là ở<br /> châu Hoan, châu Ái, còn lại đều xảy ra ở<br /> vùng núi phía bắc và đông bắc như ở các<br /> châu Vị Long, Đô Kim, Thường Tân<br /> (Tuyên Quang), Bình Dương (Hà Giang),<br /> Thất Nguyên (Thất Khê, Lạng Sơn)... Sang<br /> thời Lý Thái Tông, tính trong 26 năm, đã<br /> có tới 16 lần có các vụ nổi loạn và dẹp loạn<br /> vào những năm 1029, 1036, 1037, 1038,<br /> 1041, 1042, 1044, 1048, 1050, 1052,<br /> 1053 14. Trong số 16 vụ nổi loạn và dẹp loạn<br /> này thì cũng chỉ có 2 cuộc nổi dậy ở châu<br /> Hoan và châu Ái, còn đại bộ phận vẫn là các<br /> cuộc nổi dậy của những tộc người ở vùng biên<br /> giới phía bắc.<br /> <br /> Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 10/2012<br /> <br /> Ở khu vực châu Vị Long, năm 1013, tù<br /> trưởng là Hà Trắc Tuấn châu Vị Long nổi<br /> dậy. Lý Thái Tổ phải thân chinh đi đánh. Hà<br /> Trắc Tuấn bị thất bại, phải bỏ trốn vào rừng<br /> núi. Đến năm 1015, Hà Trắc Tuấn lại nổi<br /> dậy. Vua Lý sai Dực Thánh vương và Vũ<br /> Đức vương đem quân đàn áp và khi bắt được<br /> Hà Trắc Tuấn cuộc nổi dậy mới chấm dứt.<br /> Để góp phần vào việc củng cố khối đoàn<br /> kết dân tộc, bảo vệ quốc gia thống nhất vừa<br /> giành được, nhà Lý đã có nhiều biện pháp<br /> cũng như chính sách khá là mềm mỏng để<br /> thắt tình đoàn kết giữa các dân tộc sống<br /> trong ngôi nhà chung của quốc gia Đại Việt.<br /> Để tranh thủ tầng lớp thống trị miền núi,<br /> các vua nhà Lý đã dùng quan hệ hôn nhân<br /> ràng buộc những châu mục và tù trưởng có<br /> thế lực.<br /> Vua Lý Thái Tổ gả con gái cho tù trưởng<br /> động Giáp ở Lạng Châu (thuộc vùng Bắc<br /> Giang và Nam Lạng Sơn bây giờ) là Giáp<br /> Thừa Quý. Sau Thừa Quí đổi họ Giáp ra họ<br /> Thân. Con trai của Thừa Quý là Thân Thiệu<br /> Thái được tiếp nối làm Châu mục Lạng<br /> Châu. Đến thời Lý Thái Tông, Thân Thiệu<br /> Thái lại được nhà vua gả Công chúa Bình<br /> Dương cho vào năm 102915. Cháu của Thân<br /> Thừa Quý, tức con trai của Thân Thiệu Thái<br /> và công chúa Bình Dương là Thân Đạo<br /> Nguyên, năm 1066 lại được kết hôn với<br /> công chúa Thiên Thành16.<br /> Năm 1036, vua Lý Thái Tông gả hai<br /> công chúa cho hai châu mục người Mường<br /> là công chúa Kim Thành17 cho Châu mục<br /> Châu Phong (vùng Phú Thọ và Sơn Tây<br /> xưa) là Lê Tông Thuận18 và công chúa<br /> Trường Ninh cho Châu mục châu Thượng<br /> Oai (vùng Hoà Bình) là Hà Thiện Lãm19.<br /> Không chỉ gả con cho các châu mục để<br /> ràng buộc mà Lý Thái Tông còn lấy con<br /> <br /> Vị trí địa - chính trị của châu Vị Long…<br /> <br /> gái của Đào Đại Di ở châu Chân Đăng<br /> (vùng Hưng Hoá) làm phi cho mình. Và<br /> vua Lý Thánh Tông còn đem con gái nuôi<br /> là công chúa Ngọc Kiều (con gái của<br /> Phụng Càn vương Lý Nhật Trung) gả cho<br /> châu mục châu Chân Đăng họ Lê.<br /> Theo văn bia “Bảo Ninh sùng phúc tự”:<br /> “Ông nội của Thái phó được cưới con gái<br /> thứ 3 của Lý Thái Tổ Hoàng làm phu<br /> nhân”20. Nếu sự ghi chép trong văn bia<br /> trên là chính xác thì góp phần khẳng định<br /> một trong những chính sách chiến lược<br /> “nhu viễn” của nhà Lý do Lý Thái Tổ<br /> thực hiện là “dùng quan hệ hôn nhân” để<br /> lôi kéo và ràng buộc các thế lực vùng (nhất<br /> là vùng biên viễn) trong sự nghiệp xây<br /> dựng và phát triển quốc gia Đại Việt. Sử<br /> liệu cho biết Lý Thái Tổ lên ngôi năm<br /> 1010 và mất năm 1028. Như vậy, trước khi<br /> qua đời năm 1028, Lý Thái Tổ đã gả 2 con<br /> gái cho tù trưởng động Giáp ở Lạng Châu<br /> là Thân Thừa Quý và “Ông nội của Thái<br /> phó châu Vị Long”.<br /> Việc gả công chúa cho các châu mục<br /> vẫn còn được tiếp tục vào các đời vua sau<br /> đó, nhưng ít có dòng họ nào ở nước ta thời<br /> bấy giờ như họ Thân ở Lạng Châu và họ<br /> Hà ở Châu Vị Long được các Vua Lý dùng<br /> quan hệ “hôn nhân” để gắn kết nhằm mục<br /> đích xây dựng và phát triển đất nước.<br /> Sau những đóng góp của dòng họ Hà<br /> cai quản châu Vị Long trong việc xây dựng<br /> và phát triển vùng đất này và thể hiện rõ<br /> nhất trong cuộc tham gia cuộc tấn công tự<br /> vệ vào đất châu Ung nhà Tống năm 1074,<br /> năm 1082, vua Lý Nhân Tông đã gả công<br /> chúa Khâm Thánh cho châu mục châu Vị<br /> Long (thuộc vùng Chiêm Hoá Tuyên<br /> Quang ngày nay) là Hà Di Khánh21. Qua<br /> đó, phần nào đã nói lên thế và lực cũng như<br /> <br /> 75<br /> <br /> vai trò và vị trí uy tín của dòng họ này đối với<br /> quốc gia Đại Việt ở thế kỷ X.<br /> Với chính sách mềm mỏng và khôn<br /> khéo trên đây của các vua nhà Lý, đã đưa<br /> đến kết quả là phần nhiều các bộ lạc miền<br /> núi đã qui phục triều đình. Nhiều thủ lĩnh,<br /> nhiều tù trưởng đã theo về với triều đình và<br /> trở thành chân tay đắc lực của chính quyền<br /> trung ương, như họ Thân ở Lạng Châu, họ<br /> Hà ở Vị Long v.v.. Đồng bào các dân tộc ở<br /> các châu “miền biên viễn” tuy ít người,<br /> nhưng thực sự đã cùng với nhà Lý góp<br /> phần không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng<br /> quốc gia Đại Việt vững mạnh.<br /> Sử liệu còn cho biết, châu Vị Long còn<br /> là một tụ điểm thương mại lớn. Vào thế kỷ<br /> X, khi thương nhân nước ngoài đến vùng<br /> này buôn bán sai qui định đã bị Nhà nước<br /> cho thu giữ hàng hoá. Sử ghi, vào năm<br /> Nhâm Tý (1012) “người Man (Nam Chiếu)<br /> sang quá cột đồng, đến bến Kim Hoa và<br /> châu Vị Long (thuộc Chiêm Hoá, Hà<br /> Giang) để buôn bán. Vua sai người bắt<br /> được người Man và hơn 1 vạn con<br /> ngựa”22. Như vậy, châu Vị Long thời kỳ<br /> này không chỉ là vùng đất có vị trí chiến<br /> lược quan trọng của Đại Việt, có các thế<br /> lực “tù trưởng” hay “thủ lĩnh vùng” có<br /> tiềm lực kinh tế và chính trị mà điển hình<br /> là dòng họ Hà đang cai quản đất này mà ở<br /> đó còn là một trung tâm trao đổi hàng hóa.<br /> Chính vì có vị trí địa - chính trị quan<br /> trọng, nên từ thời Lý châu Vị Long (thế kỷ<br /> X) đến ngày nay, huyện Chiêm Hóa luôn là<br /> vùng đất in đậm những dấu ấn lớn lao của<br /> lịch sử. Trong thời kỳ kháng chiến chống<br /> Pháp (1945-1954), tháng 2 năm 1951, thôn<br /> Phú An, xã Kim Bình, huyện Chiêm Hóa<br /> được chọn là nơi tiến hành Đại hội Đảng<br /> toàn quốc lần thứ II từ ngày 11 đến 19<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2