intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

việt nam thời tây sơn-lịch sử nội chiến 1771-1802: phần 2 - nxb công an nhân dân

Chia sẻ: Nguyễn Thị Hiền Phúc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:157

46
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

phần 2 gồm các chương: họ nguyễn trung hưng, sự củng cố đôi bên ở thế giằng co, gia Định và phú xuân đối đầu,... mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: việt nam thời tây sơn-lịch sử nội chiến 1771-1802: phần 2 - nxb công an nhân dân

<br /> <br /> Tiết 12<br /> <br /> <br /> TIẾP VIỆN CỦA BÁ-ĐA-LỘC<br /> “Je ferai seul la révolution” * Các tay phiêu lưu Tây phương ở Việt<br /> Nam: vai trò, địa vị và ảnh hưởng của họ.<br /> Phút đâu tàu đã chạy lên,<br /> Buồm trương gió du [?] hai bên kéo lèo.<br /> Tới nơi Bến Nghé gieo neo,<br /> Dưới trên buồm cuốn xả lèo răng răng.<br /> Đùng đùng súng bắn liên thanh<br /> Chiêng cồng mừng rỡ vang râng dầy dầy.<br /> Hai bên tứ diện đông tây,<br /> Dưới trên thiên hạ dầy dầy đều coi.<br /> Mừng tàu rày đã tới nơi,<br /> <br /> [319]<br /> Mừng Thầy lại với Con người đã sang<br /> .<br /> Đó là những lời thuật chuyện đón rước Bá-đa-lộc và Hoàng tử Cảnh của<br /> một tác giả vô danh nào đó. Cả hai cùng đoàn tuỳ tùng và 4 giáo sĩ bước lên<br /> chiếc tàu La Méduse quá giang về. Ngày 28-7-1789 họ cập bến Vũng Tàu, ở<br /> [320]<br /> đó đã có Tôn Thất Hội đón rước<br /> . viên thuyền trưởng, Hầu tước De<br /> Rosily Meros cho bắn 15 phát súng, cho De Béhin và vài sĩ quan đưa lên.<br /> Luôn thể ông cũng tỏ một cử chỉ bặt thiệp: “Tôi tưởng có bổn phận phải<br /> thêrn vào cho sứ bộ nhỏ bé này 2.000 cân thuốc súng để cho cậu Hoàng tử<br /> không có dáng trở về với hai bàn tay không và để làm vui lòng Giám mục đã<br /> [321]<br /> tỏ vẻ ước muốn chúng lắm”<br /> .<br /> Hai chứng nhân ở hai địa vị có hai lối nhìn riêng về cuộc đón rước.<br /> Nhưng tất cả đều là sự thực bởi vì chúng lộ cho ta thấy nhưng khía cạnh<br /> khác nhau của sự thực. Sự thực là một bên ở phía Gia Định, ngoài tấm lòng<br /> của một người cha “quan sơn vạn lý hoài niệm”, nay hân hoan thấy mặt con,<br /> còn có những người dân lính, quan vua mừng rỡ được thấy bạn bè tiếp sức,<br /> đem từ phương xa lại sự tin tưởng thắng lợi ở ngày mai. Sự thực là đám<br /> người trở về đó có lúc cũng đã tin tưởng như đám người đón rước họ bây<br /> <br /> giờ, mà rốt lại lúc này chỉ là “một sứ bộ nhỏ bé”, đi không lại trở về không.<br /> Nhưng sự việc đã ném tung ra rồi thì nó sẽ mắc nối để lôi cuốn các sự<br /> việc khác xảy ra tiếp. Cảnh đi cầu viện, các nước Tây phương đều biết. Duy<br /> họ không can thiệp được vì chính họ đang phải lo gỡ rối cho họ, gỡ mối<br /> bòng bong mà chính nền văn minh họ đã tạo ra.<br /> Chính phủ đã không giúp ích gì được thì các tư nhân phân tích tình hình<br /> theo lối nhìn riêng của họ đã bày tỏ sự tán đồng can thiệp. “Người Pháp<br /> không can thiệp vào Nanh Hà thì thiếu dịp khác để thành lập một cơ sở vững<br /> chắc và quý giá trên một xứ sở sẽ đem lại cho quốc gia một nền thương mại<br /> độc quyền hơn 20 triệu đồng và đặc biệt là việc giao thương với Trung Hoa<br /> [322]<br /> mà khỏi cần qua Quảng Châu”<br /> . Chính khi những dư luận đó trở thành<br /> những đề nghị cụ thể thì Bá-đa-lộc mới có thể giận dỗi De Conway để nói<br /> thẳng vào mặt ông này là “Một mình tôi cũng đủ làm nên việc đảo lộn”.<br /> Trong chuyến từ Pháp về, Bá-đa-lộc ghé Ile de France viết thư cho De<br /> Montmorin: “Ở đảo này, tôi đã thấy các nhà cầm quyền sẵn sàng nhận lãnh<br /> quan điểm của Triều đình. Tất cả những gì có liên quan đến cuộc viễn chinh<br /> [323]<br /> ở Cochinchine đều phải tiên liệu từ chỗ này và đã xong rồi”<br /> . Thực vậy,<br /> Bá-đa-lộc tiếp tục đường về thì trong cuộc hội nghị ở Port Louis ngày 3-91788, các nhà cầm quyền ở các đảo Ile de France, Bourbon đã ra tuyên ngôn<br /> xin tự do giao thương với Cochinchine. Thế rồi trong một tờ trình gởi cho<br /> Quốc hội Pháp ngày 2-12-1790, dân chúng (?) các đảo đã nói: “Ở đây có<br /> những tay tình nguyện, những bọn Cafres, tàu bè khí giới cho cuộc viễn<br /> chinh đó. Nhiều nhà buôn yêu nước của thuộc địa này đã dâng cho Giám<br /> mục d’Adran tài nguyên của họ để giúp ông thi hành một dự tính thật có lợi<br /> [324]<br /> cho quốc gia Pháp”<br /> .<br /> Quần đảo Côn Lôn nằm ngoài biển là nơi thuận tiện nhất để đón chào các<br /> tàu thuyền Tây phương. Từ năm 1779, Nguyễn Ánh đã đặt ở đây những viên<br /> quan mang chứng minh thư của “P.J.G. Giám mục d’Adran” giới thiệu với<br /> các thuyền trưởng Tây phương, mời họ vào bến, cho tin tức. Chủ đích của<br /> Pigneau là đón tàu Pháp nhưng Gia Định không cần phân biệt điều đó mà chỉ<br /> [325]<br /> cần tàu Tây để giao thương thôi<br /> . Chính ở Côn Lôn là nơi vào tháng 91788 chiếc tàu La Dryade trong sứ mệnh dò tình hình Nam Hà đã thả lại Hồ<br /> [326]<br /> Văn Nghị và 1.000 khẩu súng mua cho Nguyễn Ánh<br /> . Lính thuỷ tàu Tây<br /> trốn xuống ở đây. Cũng ở đây vào cuối năm 1790 Nguyễn Ánh dùng làm nơi<br /> [327]<br /> nuôi ngựa cho quân đội dùng<br /> .<br /> Nhưng khi Gia Định đã bình yên thì Vũng Tàu hay chính Bến Nghé sẽ là<br /> nơi đón các tàu, thuyền tiếp viện. Bá-đa-lộc gom góp tiền bạc, khí giới lương<br /> <br /> thực chất lên các tàu ông thuê ở Ile de France và cả ở Pondichéry nữa nhờ sự<br /> giúp đỡ của các nhà buôn như đã biết. Nguyễn Ánh làm chủ Gia Định rồi sẽ<br /> có đủ tiền bạc mà đeo đuổi chiến tranh. Qua lời thư của De Guignes, Viên<br /> Lãnh sự Pháp ở Macao, ta thấy ông đã làm trung gian mua cho Nguyễn Ánh<br /> nhiều chiếc tàu. Và cũng từ Macao trong những tháng cuối năm 1789, 8, 9<br /> chiếc tàu đi buôn ở Cochinchine đã mang theo nhiều thứ khí giới quân dụng.<br /> Một trong những chiếc tàu đó là chiếc la Garonne đã bán cho sứ giả Nguyễn<br /> [328]<br /> ở Xiêm hai khẩu đại bác<br /> . Tất cả những chuyến mua bán đó làm cho<br /> Nguyễn Ánh có dưới quyền một số tàu chiến Tây Phương quan trọng. L.M<br /> Jean de Jesus Maria viết thư từ Chợ Quán ngày 4-3-1790 ghi nhận Ánh có<br /> “khoảng 10 chiếc tàu Bồ và 1 chiếc tàu Pháp tất cả đều là tàu buôn nhưng võ<br /> [329]<br /> trang với đầy đủ khí giới quân dụng”<br /> . Nhưng quan trọng hơn cả là việc<br /> có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định có đến 140 sĩ quan và 80 lính<br /> Pháp. Một bức thư của Bá-đa-lộc ngày 18-7-1794 nói đến 40 người Âu trong<br /> [330]<br /> bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tàu đồng<br /> . Và không phải chỉ<br /> có người Pháp mà thôi. Crawfurd vào Huế tháng 10-1822 thấy ở đó một bài<br /> [331]<br /> vị người Irlandais<br /> . M. Đức Chaigneau ghi nhận có cả người Anh,<br /> [332]<br /> Irlandais<br /> .<br /> Binh lính Pháp phần nhiều là thuộc các đội thuỷ quân tình nguyện, thu<br /> nhặt ở những gia đình trung lưu đã được hưởng một nền giáo dục tự do nên<br /> chịu sự quyến rũ của khung cảnh xa xứ lạ để lăn mình vào những chiếc tàu<br /> [333]<br /> đi đây đi đó<br /> . Số đông này kẻ trước người sau, có khi kẻ tới chán bỏ đi,<br /> người mới lại lăn vào, tựu trung có một số hoạt động hơn cả mà sử quan<br /> Nguyễn còn ghi lại là Đa-đột (Jean Marie Dayot), Ô-li-vi hay ông Tín<br /> (Alexis Olivier de Puynamel), Ba-nê-ô hay Nguyễn Văn Thắng<br /> (J.B.Chaigneau), Lê Văn Lăng (De Forçan), Ba-la-di (Laurent Barizy),<br /> [334]<br /> Nguyễn Văn Chấn (Philippe Vannier), tất cả đều được chức Cai đội<br /> .<br /> Dayot được phong làm Trí Lược hầu tháng 6-1790. trông coi chiếc tàu<br /> “Đồng Nai” và có dự trận thuỷ chiến Thi Nại 1792, là “linh hồn và chủ<br /> tướng của thuỷ quân Nguyễn” như Giáo sĩ La Bissachère đã nói. Có thể tin<br /> được điều này vì chính ông đã từng là chủ tàu Adélaid năm 1786. Nhân dịp<br /> theo thuỷ quân Gia Định đánh Tây Sơn, ông đã đi dò xét các hải cảng xem<br /> nông sâu, trong khi Olivier cũng làm việc tương tự định vị trí trên đất<br /> [335]<br /> liền<br /> .<br /> Với chức Vệ uý Thần sách Vệ ban và sau đó, Thuộc nội Vệ uý, làm Cai<br /> <br /> đội trong quân Thần sách, một thứ chủ lực quân, Olivier đã có mặt nhiều<br /> [336]<br /> nhất trong sử sách nhà Nguyễn<br /> . Chỉ là một binh nhì trên tàu La Dryade,<br /> ông trốn ở Poulo Condore ngày 19-9-1788 rồi theo Hồ Văn Nghị phục vụ<br /> Nguyễn Ánh khi mới 20 tuổi dư hơn tháng. Ông dùng hoạ đồ của Le Brun Khâm sai Cai đội Thạch Oai hầu - và cùng ông này xây thành Gia Định theo<br /> kiểu Vauban. Ông tổ chức quân đội - có lẽ trước hết là quân dưới quyền ông<br /> - theo lối Tây phương.<br /> Chaigneau, Thắng Toàn hầu, đến chậm nhất (1794) và lại ở Việt Nam<br /> sau rốt, đã thay J.M. Dayot vào cuối năm 1796 trông coi tàu Phi Long, có dự<br /> vào trận Thi Nại 1801, hoạt động ở Quảng Nam, Huế sau đó và trông coi<br /> [337]<br /> việc tiếp tế cho quân đội ở Phú Xuân (sắc ngày 16-3-1802)<br /> . De Forçan<br /> coi chiếc Phi Bằng trong chuyến tấn công Quảng Nam, Huế (1801). Barizy,<br /> con người sôi nổi, càu nhàu bất mãn nhất trong đám, đến Gia Định năm<br /> 1793. Ông đã từng được phong Thành Trí hầu, giữ việc tiếp tế cho quân đội<br /> bằng cách liên lạc mua bán với Ấn Độ Manille, Malacca. Ông sẽ giữ chiếc<br /> Thoại Phụng trong chuyến chiếm cửa Thuận An (1801). Vannier tới năm<br /> 1789 cùng với Felix Dayot - em J.M. Dayot, chỉ coi việc tiếp tế - ông coi<br /> chiếc tàu Phi Phụng với chức Cai cơ (1801) cho đến cuối năm 1802 thì được<br /> phong Chưởng cơ Chấn Võ hầu.<br /> Những người khác ít được biết hơn là J.M. Despiau, thầy thuốc trong<br /> quân đội (sắc ngày 21-4-1799), người đã săn sóc cho Pigneau lúc cuối cùng,<br /> và Desperles, viên thầy thuốc giải phẫu của tàu Le Pandour.<br /> Tất nhiên ta không quên vai trò của Bá-đa-lộc và những vị linh mục<br /> khác. Đám quan binh Tây phương hoạt động cho đến khoảng 1793-1794 thì<br /> rút đi gần hết. Có nhiều lý do, trong đó có lý do tin Cách mạng Pháp chuyển<br /> sang giai đoạn phản đế gây xáo trộn tư tưởng của họ và gây nghi ngờ cho<br /> Nguyễn Ánh. Nhưng chính yếu là lý do họ thất vọng khi phục vụ ở Gia<br /> Định.<br /> Chúng ta đã phân tích tâm lý đám người phiêu lưu Tây phương mong<br /> mỏi nối bước Dupleix, Clive tới địa vị sang giàu của Đông phương thần tiên.<br /> Họ cũng có thể thoả mãn chút ít nếu họ chịu phục vụ tới sau khi thắng trận<br /> như Chaigneau, Vannier, De Forçan được thăng chức, cấp lính tráng hầu<br /> hạ... Nhưng họ đến trong thời chiến tranh và phải phục vụ trong một xứ<br /> nghèo nàn, ở đó, chưa kể tới đâu, người lính vừa đem thân đánh giặc vừa<br /> phải nộp thuế, rút lương riêng để cung cấp quân nhu. Họ thất vọng là phải<br /> như Olivier đã nói năm 1793: “Chúng tôi đã phục vụ vô ích cho Chúa xứ<br /> Nam Hà”. Ông than phiền rằng làm việc cần mẫn, chiến thắng nhiều trận mà<br /> [338]<br /> không giàu có được chút nào<br /> .<br /> Đằng khác, chúng ta cũng nên lưu ý đến tư cách của bọn này. Thực lục<br /> <br /> kể đến trận đánh Quy Nhơn 1793, khi binh ra tới Bình Khang, có nói đến<br /> đám Tây-dương-nhân chung với lính Miên, lính Tàu đều tính “dữ tợn, hay<br /> [339]<br /> rượu, khó cầm”<br /> . Các L.M đương thời chỉ khen có Chaigneau còn thì<br /> chỉ trích lối sống sa đoạ của Olivier và của những người khác, sống “vô đạo<br /> như đồ đệ của Voltaire”. Không nên lấy làm lạ, đó là đặc điểm của lính đánh<br /> giặc mướn.<br /> Tuy nhiên, Nguyễn Ánh còn cần tới họ nên đã cho phép họ được buôn<br /> bán riêng lấy lợi khỏi thuế má. Olivier được buôn bán dọc bờ biển vùng<br /> Nguyễn; năm 1799 ông đi Malacca bán một thuyền cau được 3000 đồng.<br /> Despiau năm 1800 đã mua được của ông Chưởng dinh Hữu quân (?) một<br /> chiếc ghe chiến và xin phép Nguyễn Ánh mua muối, các vật dụng khác và 30<br /> [340]<br /> vuông gạo để đi Ấn buôn mang cờ hiệu Gia Định<br /> . Chính đó là một<br /> quyết định khôn ngoan của Ánh: làm việc cho họ mà đám phiêu lưu này vẫn<br /> có ích cho Ánh vì chính họ đã đóng vai trung gian cung cấp vũ khí cho Ánh,<br /> [341]<br /> tuyên dương uy thế của Ánh ở nước ngoài, nhất là các nước lân cận<br /> .<br /> Cũng ở nhiệm vụ giao dịch đó, chúng ta thấy họ cùng các linh mục là những<br /> kẻ dò la tin tức Tây Sơn rất đắc lực vì họ có mặt khắp nơi trong, ngoài nước,<br /> hiểu rõ tình hình vì ở lâu, biết đích xác sự việc, nhờ thói quen chuyên tâm<br /> chú ý quan sát của người Tây phương. Hãy nghe Olivier trong một bức thư,<br /> nhờ Letondal ở Macao dò la tin tức xung đột giữa quân Thanh và Tây Sơn<br /> (15-7-1789): “Chính vì muốn biết trong chi tiết mới nhất về trận đánh ấy mà<br /> Hoàng thượng hôm qua đã bảo tôi viết thư cho Cha, nhờ viên thuyền trưởng<br /> Antonio Vincenti. Ý định của Hoàng thượng là muốn biết có gì đã xảy ra<br /> trong trận đánh ấy, ý định người Tàu ra sao, lực lượng của họ thế nào. Ngài<br /> cho rằng nhờ nơi hiểu biết về người Trung Hoa của Cha mà Cha có thể cho<br /> [342]<br /> biết những tin tức chắc chắn hơn từ nơi nào khác...”<br /> . Cũng vậy, tin từ<br /> vùng Tây Sơn có thể vô tình tới Gia Định bằng những cánh thư của các giáo<br /> sĩ Labartette, Longer, Doussain ở Bố Chính, Thuận Hoá gởi cho Letondal ở<br /> Macao, Le Blandin ở Paris chẳng hạn.<br /> Nhưng quan trọng hơn nữa là việc quân nhân, giáo sĩ Tây phương có mặt<br /> ở Gia Định cũng tức là đã mở cửa cho văn minh Tây phương tràn vào.<br /> Những điều nói trên đã dẫn chứng một ít rồi. Chúng ta có thể nói thêm. Giáo<br /> sĩ De Labissachère cho biết Pigneau đã dịch từ chữ Pháp ra nhiều quyển sách<br /> nói về chiến thuật và cách phòng thủ cho Nguyễn Ánh đọc. Năm 1819,<br /> Chaigneau và Vannier cho một du khách Anh tới Huế biết là Bá-đa-lộc đã<br /> dịch ra tiếng Việt nhiều đoạn có ích nhất của tập Bách khoa và nhiều quyển<br /> sách khác dùng cho việc cai trị quốc gia. Chưa hết, Giáo sĩ Cadière còn tìm<br /> thấy một tấm bản đồ ở Nội các ghi tất cả những phần chính của một vị trí<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2