Vỏ hàu bình can, bổ âm

Con hàu hay còn gọi là hầu, vỏ của nó còn được gọi

là vỏ hàu, vỏ hà với tên thuốc là mẫu lệ. Thịt hàu có

hương vị rất thơm ngon, chứa nhiều chất bổ: protid,

chất béo, glucid, muối khoáng nên là món ăn được thị

trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Để có nguyên

liệu làm thuốc từ hàu, sau khi lấy phần thịt hàu làm

thức ăn, người ta thu lấy vỏ hàu, ngâm vào nước sạch

cho bở các chất bẩn bám phía ngoài, sau đó lấy bàn

chải cứng, chải nhiều lần theo các thớ vỏ. Rửa sạch,

phơi hoặc sấy khô. Nếu dùng dưới dạng mẫu lệ sống,

cho vỏ hàu vào túi vải dày, buộc đầu túi lại, dùng

chày gỗ đập thành mảnh vụn; nếu dùng dưới dạng bột nung, cho vỏ hàu vào lò nung ở nhiệt độ 600 - 700oC

khoảng 6 - 7 giờ liền. Để nguội, lấy ra, tán mịn.

Thành phần chủ yếu của mẫu lệ là canxi cacbonat,

canxi photphat, canxi sunfat và Mg, Al, Fe…

Vỏ hàu cho vị thuốc mẫu lệ.

Theo y học cổ truyền, mẫu lệ có vị mặn, sáp, tính hơi

hàn. Quy kinh can, vị, đởm và thận. Có công năng an

thần, bình can, tiềm dương, bổ âm, nhuyễn kiên, tán

kết (làm mềm các khối rắn). Dùng trị can dương

thịnh, gây chóng mặt, đau đầu, hoa mắt, mất ngủ; có

thể phối hợp với long cốt, bạch thược, bạch vi, cúc

hoa, hắc táo nhân… Trị di tinh, tảo tiết, ra nhiều mồ

hôi, mồ hôi trộm. Làm mềm các khối rắn bị kết lại

thành hòn cục trong cơ thể. Phối hợp với huyền sâm,

hạ khô thảo, hải tảo, bối mẫu... trị u xơ tuyến vú, lao

hạch… Phối hợp với ngũ vị tử, hương phụ trị di tinh,

băng lậu đới hạ, đau dạ dày, ợ chua. Cần lưu ý, trong

trường hợp dùng với tính chất làm tiêu các u, cục

(nhuyễn kiên)… thì nên dùng vị thuốc dưới dạng

sống (không qua nung). Khi qua nung, mẫu lệ tăng

cường tác dụng cố sáp, dùng tốt cho các chứng ra mồ

hôi trộm, mồ hôi nhiều, di tinh, hoạt tinh, băng lậu,

đới hạ; đặc biệt các trường hợp đau dạ dày ợ chua,

những trường hợp viêm loét dạ dày - tá tràng, ợ chua

do bài tiết dịch vị quá nhiều. Do vị thuốc chứa nhiều

muối canxi cacbonat, có thể trung hòa các axít trong

dịch vị. Liều dùng mỗi ngày từ 9 - 30g.

Mẫu lệ thường được dùng làm thuốc trị một số bệnh

sau:

Trị ra mồ hôi nhiều, mồ hôi trộm, đoản hơi: mẫu lệ,

rễ ma hoàng mỗi vị 3g, phù tiểu mạch 9g. Tất cả làm

thành bột thô, sắc uống, ngày một thang. Uống liền 3

- 4 tuần tới hết triệu chứng, có thể uống vài liệu trình.

Trị chứng dương hư ra nhiều mồ hôi: bá tử nhân 60g,

mẫu lệ, rễ ma hoàng, nhân sâm, bạch truật, bán hạ,

ngũ vị tử mỗi vị 30g, tiểu mạch 15g. Làm hoàn, mỗi

lần uống 10g. Uống liền 2 - 3 tuần, tới hết triệu

chứng, có thể uống vài liệu trình.

Trị di tinh, hoạt tinh, đau lưng, tai ù, chân tay vô lực:

tật lê, khiếm thực, liên tu mỗi vị 60g, long cốt (nung),

mẫu lệ (nung) mỗi vị 30g, thêm bột liên nhục làm

hoàn. Mỗi lần uống 9g, ngày 2 - 3 lần. Uống liền 2 -

3 tuần lễ, tới khi hết triệu chứng, có thể uống vài liệu

trình.

Trị khí hư bạch đới: mẫu lệ (nung), hoa hòe mỗi vị

40g. Dùng dưới dạng bột, ngày 12g, uống liền vài

tuần, đến khi hết triệu chứng, có thể uống thêm vài

liệu trình.

Bột mẫu lệ nung, còn được dùng làm phụ liệu trong

chế biến thuốc y học cổ truyền, nhất là phương pháp

“sao cách”, đối với các vị thuốc dẻo, dính, như các

loại cao động vật (cao ban long, cao ngũ cốt...).