
Vùng Chè Tân Cương
Với những di tích lịch sử
- văn hóa.

Tân Cương là một vùng đất cổ, cách trung tâm thành phố
Thái Nguyên 13km về phía Tây Nam. Xa xưa, Tân Cương
thuộc huyện Đông Hỷ, nay thuộc thành phố Thái Nguyên,
tỉnh Thái Nguyên.
Khi nhà Nguyễn lập tỉnh Thái Nguyên vào năm 1831 thì nơi
đây vẫn là một vùng rừng núi hoang vu thuộc địa phận tổng
Thịnh Đán, dân cư rất thưa thớt. Mãi đến đầu thế kỷ 20, một
số người nguyên là lính trong lực lượng quân đội Pháp đã
giải ngũ, họ không dám trở về quê hương bản quán nữa vì sợ
mang tiếng là những kẻ cầm súng đi lính đánh thuê, mà kéo
nhau vào đây khai khẩn đất rừng sinh sống, dần dà số người
đến lập nghiệp đông thêm, trong đó có ông Đội Năm vốn
cũng là sĩ quan quân đội Pháp về vườn, ông tên là Vũ Văn
Hiệp cũng về mở đồn điền để quy tụ và tạo nơi ăn chốn ở,
giúp đỡ cho những người lính cùng cảnh ngộ. Cũng cùng
thuở ấy, viên quan Án sát của tỉnh Thái Nguyên có tên là
Nguyễn Đình Tuân, ông Tuân xuất thân là nhà nho, đã từng

thi đỗ Đình nguyên ( Tiến sĩ) khoa thi năm Tân Sửu (1901).
Ông quê ở làng Trâu Lỗ, tổng Mai Đình, huyện Hiệp Hòa,
phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Làng Trâu Lỗ có tên nôm
là Sổ, bởi thế ông còn được gọi là Nghè Sổ ( Ông Nghè làng
Sổ). Nghè Sổ làm quan nhưng con đường hoạn lộ cũng gặp
nhiều trắc trở, bởi ông luôn luôn thể hiện khí phách của một
người trí sĩ, thương dân, thương cảm với tất cả những người
lính đang sinh sống và lập nghiệp cùng với Đội Năm ở chốn
miền sơn cưới. Quan Án sát lập tức giúp đỡ họ thành thiện
thủ tục pháp lý để đệ trình lên Chính phủ bảo hộ và Vua Bảo
Đại cho thành lập một đơn vị hành chính cấp xã mới, lấy tên
là xã Tân Cương vào năm 1926 ( Bảo Đại nguyên niên).
Thành lập xã xong, ông còn đích thân về tận Tân Cương tìm
đất, chọn hướng và hưng công xây dựng cho dân một ngôi
đình làm nơi thờ thần bản thổ, thành hoàng. Vơi những công
lao của ông với Tân Cương như thế , dân Tân Cương tin vinh
ông là Thành hoàng làng và thời sống ông ngay khi ông còn
ngồi trên chiếc ghế quan đầu tỉnh. Mỗi năm lễ hội , nhân dân

Tân Cương đem lễ vật ra tận công đường để cúng lễ ông,
Tiếc thay đình Tân Cương đã bị giặc Pháp ném bom, nay
không còn dấu tích gì.
Về địa lý, Tân Cương nằm ở giữa vùng chuyển của hai khu
vực địa hình là nói trung bình và đồi núi thấp (Ngân Sơn –
Sóc Sơn), xen kẽ có nhiều thung lũng hẹp, bằng phẳng. Hơn
thế lại kẹp trong hai vòng cánh cung khổng lồ Tam Đảo –
Ngân Sơn, tạo nên một vùng tiểu khí hậu như vậy rất thích
hợp cho cây chè phát triển, sinh trưởng tốt. Chất lượng cây
trồng hoàn toàn phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản đó là thổ

nhưỡng và khí hậu, bơi thế cây chè mọc ở Tân Cương có chất
lượng thơm ngon hơn những nơi khác là lẽ đương nhiên. Và
chắc hẳn rằng, cây chè cũng là một giống cây bản địa tự
nhiên có ở Tân Cương từ rất lâu đời rồi, nhưng chỉ đến khi có
mặt những người lính giải ngũ về đây sinh sống thì cây chè
mới được phát triển và trở thành cây trồng chính, đảm bảo
cuộc sống cho họ. Đặc biệt là từ khi xuất hiện ống “ thánh
sống” Nghè Sổ và Đội Năm Vũ Văn Hiệp thì cây chè nơi đây
cũng được phát triển hơn. Và chính nhờ hai ông này mà
người Việt Nam cũng như nước ngoài mới biết đến chè Tân
Cương là ngon và quý đến nhường nào. Tại cuộc thi đấu xảo
do chính quyền Pháp tổ chức vào năm 1935 ở Hà Nội, chè
Tân Cương được trao giải đặc biệt mang thường hiệu “ Cánh
Hạc”. Cánh Hạc là biểu tượng của nền văn hóa con Lạc cháu
Hồng. Chữ Hạc ở đây đã bị hiểu lầm là chữ Hạc ở Việt Trì,
Phú Thọ được di thực về là do một trong hai ông Nghè Sổ
hoặc Đội Năm. Vấn đề này, các nhà khoa học nông nghiệp
Việt Nam chưa có kết luận khoa học gì, nhưng dân gian

