intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xác định phán quyết trọng tài thuộc đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam

Chia sẻ: ViDoha2711 ViDoha2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

33
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày quy định của pháp luật Việt Nam về phán quyết trọng tài “nước ngoài”, khó khăn trong việc xác định quốc tịch của trọng tài ra phán quyết, chưa phù hợp với quy định của Công ước New York và xu hướng thế giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xác định phán quyết trọng tài thuộc đối tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam

  1. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT XÁC ĐỊNH PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THUỘC ĐỐI TƯỢNG CỦA THỦ TỤC CÔNG NHẬN VÀ CHO THI HÀNH TẠI VIỆT NAM Huỳnh Quang Thuận* * ThS. GV. Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Thông tin bài viết: Tóm tắt: Từ khóa: phán quyết trọng tài; trọng tài Việc phán quyết trọng tài có phải trải qua thủ tục công nhận và cho nước ngoài; quốc tịch trọng tài; công nhận thi hành để có giá trị thi hành hay không ảnh hưởng rất lớn đến và cho thi hành, Công ước New York. quyền và lợi ích của các bên có liên quan. Bởi lẽ, với thủ tục công nhận và cho thi hành, phán quyết trọng tài sẽ đối mặt với việc có Lịch sử bài viết: thể không được công nhận và cho thi hành, đồng nghĩa với việc Nhận bài: 02/10/2017 giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài trở thành vô nghĩa. Biên tập: 23/10/2017 Chính vì thế, việc có những quy định cụ thể và hợp lý để xác định Duyệt bài: 30/10/2017 phán quyết trọng tài nào là phán quyết trọng tài “nước ngoài” là điều vô cùng cần thiết. Article Infomation: Abstract: Keywords: Arbitration award; foreign That an arbitral award is whether or not subjects to the arbitration; national arbitration; procedure of recognition and enforcement to be effective recognition and enforcement, New York or not significantly affects the rights and interests of the Convention. concerned parties. Thus, with the procedure of recognition Article History: and enforcement, the arbitral award will face the possibility of not being recognized for enforcement, which means that the Received: 02 Oct. 2017 arbitration panel's dispute becomes meaningless. Therefore, Edited: 23 Oct. 2017 the specific and reasonable rules to determine which arbitration Approved: 30 Oct. 2017 award is the "foreign arbitration" are absolutely necessary. T rọng tài thương mại với những quả của nó là một phán quyết trọng tài. Tuy ưu điểm vượt trội của mình nhiên, các phán quyết trọng tài không đương đang ngày càng được các bên nhiên giống nhau về giá trị thi hành mà dựa trong quan hệ dân sự ưu tiên lựa chọn giải vào tiêu chí này, có thể phân chia phán quyết quyết các tranh chấp phát sinh, đặc biệt là trọng tài thành hai loại: (i) Loại thứ nhất, trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Với ngay khi ban hành sẽ ràng buộc các bên và phương thức này, tranh chấp giữa các bên có giá trị thi hành như là một bản án của Tòa sẽ được Hội đồng trọng tài giải quyết và kết án, được gọi là phán quyết trọng tài “trong Số 6(358) T3/2018 25
  2. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT nước”; (ii) Loại thứ hai, để được thi hành tại ngoài. Vấn đề đặt ra ở đây, hiểu như thế nào Việt Nam cần qua thủ tục công nhận và cho là phán quyết của trọng tài nước ngoài? thi hành, được gọi là phán quyết trọng tài Bộ luật TTDS 2015 không giải thích “nước ngoài”. khái niệm phán quyết của trọng tài nước Việc phán quyết trọng tài có phải ngoài mà viện dẫn đến quy định của Luật trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành Trọng tài thương mại năm 2010 (Luật để có giá trị thi hành hay không ảnh hưởng TTTM)2. Theo đó, phán quyết của trọng rất lớn đến quyền và lợi ích của các bên có tài nước ngoài là phán quyết do trọng tài liên quan. Bởi lẽ, với thủ tục công nhận và nước ngoài tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam cho thi hành, phán quyết trọng tài sẽ đối mặt hoặc ở trong lãnh thổ Việt Nam để giải quyết với việc có thể không được công nhận và tranh chấp do các bên thỏa thuận lựa chọn3. cho thi hành, đồng nghĩa với việc giải quyết Như vậy, pháp luật Việt Nam xác định phán tranh chấp của Hội đồng trọng tài trở thành quyết trọng tài “nước ngoài” dựa vào quốc vô nghĩa. Chính vì thế, việc có những quy tịch của trọng tài ra phán quyết, cụ thể nếu định cụ thể và hợp lý để xác định phán quyết như là phán quyết của trọng tài nước ngoài trọng tài nào là phán quyết trọng tài “nước thì dù được tuyên trong lãnh thổ hay ngoài ngoài” là điều vô cùng cần thiết. lãnh thổ Việt Nam đều được xác định là 1. Quy định của pháp luật Việt Nam về phán quyết trọng tài “nước ngoài”. Nói cách phán quyết trọng tài “nước ngoài” khác, phán quyết trọng tài thuộc đối tượng công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bao Như đã đề cập, phán quyết trọng tài gồm: (i) phán quyết của trọng tài nước ngoài “nước ngoài” được hiểu là những phán tuyên ngoài lãnh thổ Việt Nam; và (ii) phán quyết muốn được thi hành tại Việt Nam phải quyết của trọng tài nước ngoài tuyên trong trải qua thủ tục công nhận và cho thi hành. lãnh thổ Việt Nam. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (Bộ luật TTDS 2015), phán quyết 2. Khó khăn trong việc xác định quốc tịch trọng tài thuộc đối tượng của thủ tục công của trọng tài ra phán quyết nhận và cho thi hành bao gồm: (i) Phán Có thể thấy, pháp luật Việt Nam xác quyết của Trọng tài nước ngoài mà nước đó định phán quyết trọng tài “nước ngoài” dựa và Cộng hòa XHCN Việt Nam cùng là thành vào tiêu chí quốc tịch của trọng tài ban hành viên của điều ước quốc tế về công nhận và phán quyết. Vấn đề đặt ra đây là quốc tịch cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước của trọng tài được xác định như thế nào? ngoài; và (ii) Phán quyết của Trọng tài nước Luật TTTM 2010 giải thích trọng tài nước ngoài không thuộc trường hợp trên trên cơ ngoài là trọng tài được thành lập theo quy sở nguyên tắc có đi có lại1. Như vậy, với quy định của pháp luật trọng tài nước ngoài do định này, có thể thấy, đối tượng của thủ tục các bên thỏa thuận lựa chọn để tiến hành công nhận và cho thi hành theo pháp luật giải quyết tranh chấp ở ngoài lãnh thổ Việt Việt Nam là phán quyết của trọng tài nước Nam hoặc trong lãnh thổ Việt Nam4. Như 1 Khoản 1 Điều 424 Bộ luật TTDS 2015. 2 Khoản 3 Điều 424 Bộ luật TTDS 2015. 3 Khoản 12 Điều 3 Luật TTTM 2010. 4 Khoản 11 Điều 3 Luật TTTM 2010. 26 Số 6(358) T3/2018
  3. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT vậy, tiêu chí để xác định quốc tịch trọng tài tịch của trọng tài vụ việc lúc này không thể là việc trọng tài đó được thành lập theo pháp là quốc tịch của trọng tài viên vì các trọng luật nước nào, nếu được thành lập theo pháp tài viên có thể mang quốc tịch khác nhau, luật Việt Nam thì đó là trọng tài Việt Nam, cũng không thể xác định theo quy tắc tố tụng nếu được thành lập theo pháp luật nước vì các bên có thể tạo ra quy tắc tố tụng của ngoài thì đó là trọng tài nước ngoài. riêng mình. Như vậy, trong trường hợp này, Tuy nhiên, khi áp dụng tiêu chí này trên không có bất kỳ một tiêu chí cụ thể nào để thực tế sẽ gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, theo xác định khi nào trọng tài vụ việc là trọng tài cách tiếp cận hiện tại, trọng tài thương mại trong nước, khi nào trọng tài vụ việc là trọng tồn tại dưới hai hình thức cơ bản là trọng tài tài nước ngoài. vụ việc (còn gọi là trọng tài ad hoc) và trọng 3. Chưa phù hợp với quy định của Công tài thường trực (còn gọi là trọng tài quy chế). ước New York và xu hướng thế giới Trong trường hợp các bên lựa chọn trọng tài Điều 1 Công ước New York quy thường trực giải quyết tranh chấp, việc xác định: “Công ước này áp dụng đối với việc định quốc tịch trọng tài tương đối dễ dàng. công nhận và thi hành các quyết định trọng Bởi lẽ, trọng tài thường trực thường tồn tại tài được ban hành tại lãnh thổ của một quốc dưới dạng một trung tâm trọng tài có vai trò gia khác với quốc gia nơi có yêu cầu công trung gian giữa các bên tranh chấp và trọng nhận và thi hành quyết định trọng tài đó, tài viên. Trung tâm trọng tài sẽ có trụ sở làm xuất phát từ các tranh chấp giữa các thể nhân việc thường xuyên, có bộ máy tổ chức, có hay pháp nhân. Công ước còn được áp dụng danh sách trọng tài viên, có quy tắc tố tụng cho những quyết định trọng tài không được riêng và phải đăng ký hoạt động tại các cơ coi là quyết định trong nước tại quốc gia nơi quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, quốc việc công nhận và thi hành chúng được yêu tịch của trọng tài thường trực sẽ là quốc tịch cầu…”. Với quy định trên, có thể thấy Công của trung tâm trọng tài, được xác định theo ước New York đã xác định hai trường hợp pháp luật của quốc gia mà trung tâm trọng phán quyết trọng tài “nước ngoài” thuộc đối tài đó đăng ký hoạt động. tượng của thủ tục công nhận và cho thi hành: Ngược lại, nếu các bên lựa chọn trọng - Trường hợp thứ nhất áp dụng đối tài vụ việc để giải quyết tranh chấp thì việc với việc công nhận và thi hành các quyết xác định quốc tịch trọng tài là không đơn định trọng tài theo nơi ban hành phán quyết. giản. Bởi lẽ, khác với trọng tài thường trực, Ở đây, Công ước New York đã xác định trọng tài vụ việc chỉ tồn tại một lần, không phán quyết trọng tài nước ngoài trên cơ sở có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều lãnh thổ, tức là chỉ cần phán quyết được ban hành, trọng tài viên sẽ do các bên chỉ định hành trên lãnh thổ của một quốc gia khác bất kỳ và quy tắc tố tụng của trọng tài vụ thì đó được coi là phán quyết nước ngoài, việc để giải quyết vụ tranh chấp có thể do không phụ thuộc vào quốc tịch của trọng tài các bên thỏa thuận xây dựng hoặc lựa chọn ra phán quyết. Trong trường hợp này, nếu từ bất kỳ một quy tắc tố tụng nào của các pháp luật quốc gia quy định khác là trái trung tâm trọng tài. Vì thế, về cơ bản rất với Công ước, vì tiêu chí xác định bản chất khó xác định pháp luật nước nào sẽ được áp trong nước hay nước ngoài của quyết định dụng để thành lập trọng tài vụ việc. Quốc trọng tài là do Công ước đưa ra chứ không Số 6(358) T3/2018 27
  4. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT phải pháp luật của các nước thành viên5. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là - Trường hợp thứ hai áp dụng cho pháp luật Việt Nam hoàn toàn phù hợp với những quyết định trọng tài không được coi Công ước New York. Bởi lẽ, như đã đề cập là quyết định trong nước tại quốc gia nơi ở trên, Bộ luật TTDS 2015 và Luật TTTM việc công nhận và thi hành chúng được yêu 2010 chỉ coi phán quyết của trọng tài nước cầu. Như vậy, trong trường hợp này, pháp ngoài là đối tượng của thủ tục công nhận và luật của các quốc gia thành viên có thể quy cho thi hành tại Việt Nam. Điều này đồng định thêm những trường hợp ngoài quy định nghĩa với việc, phán quyết do trọng tài Việt tại Công ước New York mà pháp luật quốc Nam ban hành thì dù tuyên ở ngoài lãnh thổ gia đó xác định là phán quyết của trọng tài Việt Nam vẫn không được xác định là phán nước ngoài. Đó là trường hợp khi trọng tài quyết trọng tài “nước ngoài”, nói cách khác đưa ra quyết định không được xem là trọng là không cần thông qua thủ tục công nhận tài quốc gia nơi có trọng tài ấy. Ví dụ: quyết và cho thi hành tại Việt Nam. Trong khi đó, định của trọng tài khu vực Á-Phi ở Kua-la- theo quy định của Công ước New York thì lum-pơ (Ma-lai-xi-a) được coi là quyết định chỉ cần phán quyết được tuyên ngoài lãnh của trọng tài nước ngoài tại Ma-lai-xi-a khi thổ Việt Nam sẽ được coi là phán quyết quyết định ấy cần được công nhận và cho thi trọng tài “nước ngoài” và phải tuân theo thủ hành ở đó (bởi vì trọng tài ấy không phải là tục công nhận và cho thi hành nếu muốn có trọng tài của Ma-lai-xi-a)6. giá trị thi hành tại Việt Nam. Đối chiếu với pháp luật Việt Nam, Có thể thấy đây là sự mâu thuẫn giữa theo quy định của Bộ luật TTDS 2015 và pháp luật quốc gia và điều ước quốc tế trong Luật TTTM 2010, có thể thấy các trường việc quy định giải quyết cùng một vấn đề. hợp được coi là phán quyết trọng tài “nước Vấn đề đặt ra là phải giải quyết xung đột ngoài” tuy dựa vào tiêu chí quốc tịch của này như thế nào? Về cơ bản, nguyên tắc áp trọng tài ra phán quyết nhưng cũng không dụng pháp luật được sử dụng trong tất cả các trái với Công ước New York. Cụ thể, đối hệ thống pháp luật, đó là ưu tiên áp dụng với trường hợp phán quyết do trọng tài nước các quy định của điều ước quốc tế và Bộ ngoài ban hành ngoài lãnh thổ Việt Nam, luật TTDS 2015 cũng không phải là ngoại theo Công ước New York, đương nhiên được lệ. Khoản 3 Điều 2 Bộ luật TTDS 2015 quy coi là phán quyết trọng tài “nước ngoài”. định: “Bộ luật TTDS được áp dụng đối với Bởi lẽ, nơi ban hành quyết định trọng tài là việc giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố ở nước ngoài. Còn đối với trường hợp trọng nước ngoài; trường hợp điều ước quốc tế mà tài nước ngoài ban hành phán quyết trong Cộng hòa XHCN Việt Nam ký kết hoặc gia lãnh thổ Việt Nam thì đây cũng có thể coi nhập có quy định khác thì áp dụng quy định là trường hợp pháp luật quốc gia thành viên của điều ước quốc tế đó”. Điều này cho thấy, xác định thêm những trường hợp được coi là Bộ luật TTDS 2015 ưu tiên áp dụng những phán quyết trọng tài “nước ngoài” bên cạnh quy định của điều ước quốc tế khi có mâu quy định của Công ước New York. thuẫn giữa quy định điều ước quốc tế và Bộ (Tiếp theo trang 64) 5 Đỗ Văn Đại, Trần Hoàng Hải (2011), Pháp luật Việt Nam về Trọng tài thương mại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 415. 6 Nguyễn Trung Tín (2005), Công nhận và thi hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.172. 28 Số 6(358) T3/2018
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2