Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ góc độ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
lượt xem 2
download
Bài viết "Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ góc độ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ" đề cập đến nội dung cuộc cách mạng khoa học - công nghệ là điều kiện để xây dựng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; thực hiện những yêu cầu về tính xã hội, về công bằng, bình đẳng; đẩy mạnh chiến lược phát triển nguồn nhân lực; bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ góc độ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TỪ GÓC ĐỘ CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Phạm Huy Thành, Nguyễn Văn Hoàn Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Phạm Huy Thành, email: gvphthanh@gmail.com Tóm tắt: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động mạnh mẽ tới toàn bộ các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có đất nước Việt Nam. Đây là những điều kiện thuận lợi để Việt Nam rút ngắn con đường phát triển và làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Bài viết đề cập đến nội dung cuộc cách mạng khoa học - công nghệ là điều kiện để xây dựng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; thực hiện những yêu cầu về tính xã hội, về công bằng, bình đẳng; đẩy mạnh chiến lược phát triển nguồn nhân lực; bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Từ khóa: Khoa học; công nghệ; chủ nghĩa xã hội; phát triển; động lực. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Kể từ khi chủ nghĩa Mác ra đời cho đến nay, lịch sử của nhân loại đã có nhiều thay đổi to lớn. Với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội từ một học thuyết trở thành một thực thể chính trị - xã hội, chủ nghĩa Mác từ một “bóng ma ám ảnh châu Âu” đã trở thành một hiện thực hóa trên thực tế, mở ra một thời đại mới. Nhưng sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu trong những năm cuối thế kỷ XX là một tổn thất lớn lao của phong trào cách mạng thế giới, song không làm thay đổi tính chất của thời đại. Bởi vì sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết khoa học và cách mạng, nền tảng cho phong trào cộng sản quốc tế. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ như dự báo của Mác; loài người nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội theo quy luật tiến hóa lịch sử. Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh việc vận dụng sáng tạo các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với sự tiếp nhận những thành tựu khoa học và công nghệ đang làm thay đổi toàn diện đời sống xã hội của đất nước. Việc nhìn nhận các thành tựu khoa học và công nghệ với tư cách là nguồn 480
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” lực để đất nước ta đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng, với mục tiêu “Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 35-36). 2. NỘI DUNG 2.1. Đặc trưng của cách mạng khoa học công nghệ Thế giới đã trải qua ba cuộc cách mạng công nghiệp, mỗi cuộc cách mạng để lại dấu ấn phát triển cho mỗi quốc gia dân tộc. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với đặc trưng cơ bản là sự hợp nhất, giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ thuật số và sinh học không còn ranh giới. Vấn đề đó dẫn đến xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, IoT và các hệ thống kết nối Internet (IoS). Thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi mạnh mẽ cách thức sản xuất, chế tạo, năng suất lao động. Trong các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp sản xuất hiện đại với khả năng công nghệ được hình thành, các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể định dạng được quy trình sản xuất, từ đó đưa ra quyết định sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất mang tính truyền thống. Toàn bộ thế có sự kết nối cực lớn, hàng tỷ người trên thế giới thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận với cơ sở dữ liệu lớn (big data) để trao đổi từ văn hóa, chính trị, kinh tế. Điều đó, cho thấy cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với những tính năng xử lý thông tin chính xác, cùng với những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo sẽ tạo ra: công nghệ người máy, xe tự lái, công nghệ in 3D, IoT, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử, các ngành tự động hóa sẽ làm thay đổi thế giới một cách nhanh chóng. Cách mạng công nghiệp 4.0 được dự đoán sẽ mở ra kỷ nguyên mới cho các nước trên thế giới nếu xác định chủ trương “đi tắt đón đầu” về các cơ hội đầu tư cho công nghệ, làm tăng năng suất và tạo điều kiện cho sự gia tăng về đời sống vật chất và tinh thần. Các quốc gia nắm bắt được thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 thể hiện ở sự áp dụng thành công trong lĩnh vực robot, IoT, big data, điện thoại di động và công nghệ in 3D, kỹ thuật toán đưa vào sản xuất tạo ra năng suất lao động, nhiều ngành, nghề mới. Thế giới sẽ là chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, những thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây không chỉ được kế thừa mà còn được phát huy trên các lĩnh vực khi được ứng dụng vào sản xuất. Mặt khác, cách mạng 481
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG công nghiệp 4.0 còn tạo bước đột phá lớn về tốc độ phát triển, phạm vi và mức độ tác động chưa từng có trong lịch sử của trình sản xuất mang tính toàn cầu. Sự khác biệt giữa cuộc cách mạng 4.0 với các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây là từ quy mô, công nghệ, năng suất lao động, vị trí con người trong quá trình sản xuất đều phát triển nhanh hơn, rộng hơn, chất lượng hơn, trí tuệ hơn. Như vậy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm biến đổi sâu sắc nền công nghiệp ở các quốc gia cả về bề rộng và chiều sâu, tạo nên hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị mang tính chất toàn cầu. 2.2. Cách mạng khoa học và công nghệ: Động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây là cố gắng sử dụng tối đa các nguồn lực, nhưng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ dựa vào các nguồn lực đó, mà còn sử dụng năng lượng mới và công nghệ mới tạo ra hiệu quả cho quá trình sản xuất cả về góc độ kinh tế và môi trường. Do đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi cơ bản khái niệm đổi mới công nghệ, trang thiết bị trong các dây chuyền sản xuất. Các công nghệ cao, hiện đại như công nghệ nhúng, công nghệ phái sinh được sử dụng tạo ra lợi thế cạnh tranh trong sự phát triển của kinh tế. Bên cạnh đó, các thiết bị sử dụng trong sản xuất sẽ được tăng theo khả năng áp dụng công nghệ, giúp nhà sản xuất nâng cấp phần mềm để bổ sung các tính năng mới cho hệ thống thông minh, tạo ra sự thay thế cho các dây chuyền sản xuất trước đây chủ yếu phụ thuộc vào sức lao động của con người. Thế giới tạo ra nền sản xuất hàng hóa đa dạng, năng suất cao, ít sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn đáp ứng được nhu cầu của khách hàng từ mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Sự thay đổi đó, càng làm rõ hơn các nguồn lực trở thành động lực để đẩy nhanh chủ nghĩa xã hội hiện thực thay thế chủ nghĩa tư bản, trong đó có quá trình đổi mới ở Việt Nam. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc biệt là quá trình đổi mới thể hiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay với nội dung chủ yếu: Một là, xây dựng thành công cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội để dựa vào đó mà trang bị công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Hai là, tổ chức nghiên cứu, thu thập thông tin, phổ biến ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất, đời sống với những hình thức, bước đi, quy mô thích hợp. 482
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Xác định rõ tầm quan trọng của khoa học và công nghệ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, coi đây là nguồn lực giúp đất nước ta rút ngắn khoảng cách so với các nước trên thế giới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), khi bàn đến vai trò của khoa học và công nghệ, Đảng ta nhấn mạnh: Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới. Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển khoa học và công nghệ là “quốc sách hàng đầu” và giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Khoa học và công nghệ từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được tăng cường. Khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực hơn trong nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 63). 2.3. Phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta Hơn 35 năm đổi mới xây dựng đất nước, Đảng ta đã đề ra được đặc trưng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh mới, nhằm thể hiện tính chất ưu việt của một đất nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp. Việc xác định xây dựng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phù hợp với sự vận động của nền kinh tế và xu hướng tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ là một cách nhìn nhận đúng, thể hiện đặc trưng rõ hơn của chủ nghĩa xã hội. 483
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ngày nay, đã dẫn đến sự hình thành nền kinh tế tri thức, đây là cuộc cách mạng vĩ đại của lực lượng sản xuất. Thể hiện ở trình độ và tính chất lực lượng sản xuất đều thay đổi. Tri thức và khoa học công nghệ tồn tại dưới những hình thức nhất định, vừa là sản phẩm của sản xuất xã hội, vừa là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất. Sự phát triển của kinh tế tri thức cùng với cách mạng thông tin, tổ chức phân công lao động theo mô hình công ty xuyên quốc gia, xét đến cùng đòi hỏi của lực lượng sản xuất hiện đại xã hội hóa cao. Chính cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã đẩy nhanh hơn cho việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu hiện rõ nhất của quá trình đó, cùng với việc xây dựng lực lượng sản xuất hiện đại, sự tổ chức và phân công lao động tinh vi, khoa học có tính chất xã hội hóa cao của công ty xuyên quốc gia, mâu thuẫn gay gắt với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Sự bùng nổ của kinh tế số, kinh tế tri thức, sự tổ chức quản lý sản xuất khoa học kiểu công ty tập đoàn xuyên quốc gia,… đòi hỏi chế độ sở hữu mới đối với tư liệu sản xuất. Quan hệ sản xuất mới phải có tính chất xã hội cao thích ứng với xu thế xã hội hóa ngày càng phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội sự phù hợp với lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế số, kinh tế tri thức là chế độ sở hữu hỗn hợp mà nền tảng là chế độ công hữu, có nghĩa là xã hội chứ không phải tư nhân sở hữu trực tiếp các tư liệu sản xuất chủ yếu, kể cả trong lĩnh vực thông tin, sở hữu trí tuệ. Chính cuộc cách mạng khoa học và công nghệ tạo điều kiện, tiền đề để xây dựng lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Cho nên, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là tạo điều kiện cơ bản để cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế số, kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng, vững chắc, phục vụ lợi ích con người, trước hết là người lao động. Để xây dựng nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, Đảng ta xác định là phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học và công nghệ ngày càng cao, hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải từng bước xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lượng sản xuất, điều đó có nghĩa là phải hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì cần phải thực 484
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” hiện đồng bộ các vấn đề sau: giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường; phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường; nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời nhìn nhận động lực xuất phát từ khoa học và công nghệ: “Huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để khoa học và công nghệ thực sự là động lực chính của tăng trưởng kinh tế. Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 46). 2.4. Xây dựng chủ nghĩa xã hội: vì một xã hội lấy con người làm trung tâm Trong xu thế phát triển của khoa học và công nghệ, đã cho thấy bản thân khoa học và công nghệ là phương tiện để con người làm chủ thiên nhiên, xây dựng cuộc sống tốt đẹp của mình. Do đó, khoa học và công nghệ là thành tựu của toàn xã hội chứ không phải của riêng ai. Chính vì vậy, theo đúng quy luật hợp lý và công bằng thì toàn thể nhân loại đều được thừa hưởng các thành tựu khoa học và công nghệ. Những người có cống hiến nhiều thì được hưởng nhiều, những tài năng sáng tạo phải được thưởng xứng đáng. Khoa học và công nghệ càng ngày phát triển cao thì yêu cầu đòi hỏi tất yếu về mặt xã hội là sự công bằng, phát triển toàn diện của con người. Những hậu quả của xã hội sẽ để lại rất lớn, nếu như không giải quyết được vấn đề công bằng và bình đẳng trong sáng tạo khoa học công nghệ. Nhân loại đã phải đối diện với hàng tỷ người đói nghèo, thiếu phương tiện sinh hoạt tối thiểu, thiếu nhà ở và nước sạch, không dịch vụ y tế; trong khi đó khoa học và công nghệ hiện đại với sức sản xuất lớn hoàn toàn có thể giải quyết được. Nhưng do sự bất bình đẳng xã hội, một số bộ phận của xã hội sống trong hoàn cảnh tiện nghi thừa thãi, của cải lãng phí. Mặt khác, khoa học và công nghệ nếu khai thác đúng đắn sẽ giúp con người giải phóng khỏi những công việc nặng nhọc, thậm chí giải phóng con người khỏi hoạt động sản xuất trực tiếp. Nhưng với sự bất bình đẳng trong khoa học và công nghệ, đào tạo con người không phù hợp, đã làm cho hàng 485
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG triệu người mất công ăn việc làm, bị gạt ra khỏi hệ thống sản xuất, phải sống nhờ vào viện trợ, bố thí. Những khuyết tật đó chủ nghĩa tư bản không thể giải quyết được, chỉ có chủ nghĩa xã hội với đặc trưng cơ bản là giải phóng con người triệt để, khoa học và công nghệ sẽ là phương tiện mưu cầu hạnh phúc cho con người. Có thể nói cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và chế độ chủ nghĩa xã hội là một thể thống nhất trong chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chủ nghĩa hội với khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận” (Hồ, 1995, 131). Trong cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đặc trưng xây dựng chủ nghĩa hội được Đảng ta xác định: Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Từ nhận thức đó, trong các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất, là yếu tố cơ bản quyết định các nguồn lực khác; quyết định đến sự thành công hay thất bại của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói riêng. Tại Đại hội lần thứ VIII, Đảng ta khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 21). Kế thừa và tiếp thu những quan điểm đó, Đại hội lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 47). Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, không phải do cá nhân anh hùng nào, vì vậy, chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng dân, vì “có dân là có tất cả”. Tiếp tục kế thừa tư tưởng đó, Đảng ta luôn luôn xác định: Con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta. Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia. Thực tiễn lịch sử loài người đã và đang ngày càng chứng minh rằng coi trọng nhân tố con người và phát triển nguồn lực con người - nhất là chất lượng nguồn nhân lực - là bí quyết thành công của mỗi quốc gia dân tộc, ưu thế của sự phát triển bền vững. 486
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Để đưa đất nước phát triển, chủ động nắm bắt, sáng tạo, chiếm lĩnh thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong thời gian tới, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người với mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và chương trình đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 136). 2.5. Xây dựng nền văn hóa: vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa của nhân loại Khoa học và công nghệ có tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực văn hóa, con người. Kết nối Internet vạn vật, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây… giúp mọi người tiếp cận lượng thông tin đồ sộ của toàn nhân loại. Các phương tiện truyền thông xã hội (Facebook, Twitter, Youtube, Instagram, Tiktok,...) đã trở thành hiện tượng văn hóa mới thu hút mọi người dân; trở thành nơi diễn ra các hoạt động thông tin, văn hóa đa dạng và phong phú, chứa đựng nhiều giá trị và cả phản giá trị, lan tỏa sức mạnh mềm văn hóa và hạn chế, phá hoại sức mạnh mềm văn hóa quốc gia. Cần nhận thấy mặt trái của công nghệ, những thay đổi về cách thức giao tiếp, thông tin và văn hóa trên Internet cũng đặt con người và văn hóa xã hội gặp nhiều “nguy hiểm”, “bất trắc” khó lường... Chúng ta sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, nhất là trong các lĩnh vực an ninh mạng, an ninh văn hóa, an ninh con người, an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia... Các phương tiện truyền thông xã hội, mạng viễn thông, internet tạo thuận lợi cho giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời cũng diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt để bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ thể chế chính trị, an ninh quốc gia, an ninh văn hóa, an ninh con người... Mặt trái của khoa học và công nghệ gây ra sự bất bình đẳng về văn hóa, xã hội. Đồng thời, phá vỡ thị trường lao động truyền thống, có thể làm gia tăng mức chênh lệch về cơ hội tiếp cận công nghệ và phúc lợi xã hội về văn hóa của các nhóm dân cư; nó có thể làm gia tăng sự xâm lược, đồng hóa văn hóa của các thế lực thù địch, sự xâm nhập của các hiện tượng phản văn 487
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hóa, phi văn hóa, phi nhân tính, không phù hợp với nền tảng tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi cần có sự chủ động ứng phó và kiểm soát tốt. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tồn tại đa dạng trong thống nhất với cộng đồng 54 dân tộc anh em. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là một đặc trưng lớn, cho thấy quan niệm: Nước ta chưa có chủ nghĩa xã hội nếu như không xây dựng được trong xã hội có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cuộc cách mạng khoa học và cộng nghệ, cùng với quá trình toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã dẫn đến sự tiếp biến giữa nền văn hóa này với nền văn hóa khác được diễn ra theo nhiều hình thức khác nhau. Đây là “quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm” (Le et al., 2015, 9-10). Tuy nhiên, sự tác động của khoa học và công nghệ, cùng với quá trình hội nhập quốc tế đã đặt ra những thách thức cần giải quyết, như tư tưởng, thái độ sùng ngoại một cách lệch lạc; sự mai một bản sắc văn hóa, nhất là bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số; một số lối sống không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc… Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhận định: “Đạo đức, lối sống trong gia đình, học đường, xã hội có mặt xuống cấp đáng lo ngại, gây bức xúc cho xã hội… Môi trường văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục và truyền thống văn hóa dân tộc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 72). Trong quá trình tiếp thu các thành tựu của khoa học và công nghệ, cùng với hội nhập quốc tế, chúng ta cần xử lý tốt mối quan hệ giữa việc giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam với tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại. Để thực hiện được điều này, cần có sự đánh giá tổng thể hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam; qua đó, rút ra được những cái hay, cũng như những điểm chưa phù hợp với tiến trình xây dựng, phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Mặt khác, cũng cần nghiên cứu những giá trị văn hóa của thế giới, những yêu cầu của tiến trình hội nhập quốc tế; trên cơ sở đó, nghiên cứu lựa chọn, tiếp thu những giá trị phù hợp. Việc xây dựng, hoàn thiện hệ giá trị, văn hóa con người Việt Nam cần tính 488
- KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đến sự lựa chọn và lan tỏa của giá trị cốt lõi cần xây dựng là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, sáng tạo, hiện đại. Đại hội XIII khẳng định: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, môi trường văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 47). 3. KẾT LUẬN Việc tìm kiếm nguồn lực và xác định đúng nguồn lực trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta góp phần thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng. Khoa học và công nghệ được Đảng ta khẳng định là nguồn lực then chốt, góp phần quan trọng cho công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng với việc phát huy các thành tựu khoa học và công nghệ là một sự thống nhất không thể tách rời. Chính khoa học và công nghệ càng ngày càng làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng được Đảng ta đề ra trong Cương lĩnh bổ sung thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 2011. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban Kinh tế Trung ương. (2016). Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia Sự thật. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [4]. Hồ, C. M. (1995). Hồ Chí Minh: Toàn tập (Vol. 9). Chính trị quốc gia. [5]. Lê, T. L., Nguyễn, K. N., & Trần, A. T. (2015). Tác động của hội nhập quốc tế đến hệ thống pháp luật Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. [6]. Nguyễn, N. L. (2009). Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Chính trị quốc gia. 489
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Nguyên tắc ,bước đi ,biện pháp trong xây dựng chủ nghĩa xã hội
3 p | 1696 | 95
-
Những thành tựu nà hạn chế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
1 p | 404 | 82
-
Bài giảng Chính trị - Bài 4: Đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
20 p | 1041 | 71
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dùng trong các trường đại học và cao đẳng): Phần 2
148 p | 182 | 48
-
Bài giảng Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chương 10
22 p | 176 | 41
-
Bài giảng Chủ nghĩa xã hội khoa học - Chương 11: Vấn đề tôn giáo trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
27 p | 296 | 37
-
Bài giảng Chủ nghĩa xã hội khoa học - Chương 12: Vấn đề gia đình trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
30 p | 204 | 35
-
Tiểu luận Triết học Mác – Lênin: Anh (chị) hãy vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất với ý thức vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
9 p | 292 | 32
-
Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (dùng trong các trường đại học, cao đẳng)
179 p | 106 | 26
-
Bài giảng Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chương 1
28 p | 239 | 24
-
Bài giảng Chủ nghĩa xã hội khoa học: Chương 12
25 p | 134 | 14
-
Bài giảng Đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam
43 p | 38 | 11
-
Bài giảng Chủ nghĩa xã hội khoa học - Chương 13: Vấn đề nguồn lực con người trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
19 p | 90 | 10
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
11 p | 21 | 7
-
Bản lĩnh và trí tuệ của Đảng cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội (Lý luận và thực tiễn từ năm 1991 đến nay)
5 p | 8 | 6
-
Về công tác giáo dục ở khu tự trị Việt Bắc trong những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội (1956-1965)
10 p | 45 | 3
-
Giới trí thức thành phố Hồ Chí Minh và những vấn đề của người trí thức xây dựng chủ nghĩa xã hội - Nguyễn Qưới
8 p | 81 | 3
-
Ebook Một số vấn đề lý luận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay: Phần 2
118 p | 8 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn