Bài tham luận "Xây dựng Thương hiệu Nông sản Việt Nam - Đặc biệt đối với các Thương hiệu Tập thể" trình bày thực trạng và tình hình phát triển thương hiệu nông sản Việt Nam trong những năm gần đây. Nghiên cứu tập trung đánh giá mức độ nhận biết của người tiêu dùng về hệ thống nhận diện thương hiệu tập thể của các sản phẩm nông sản tại TP.HCM, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao nhận biết cho các thương hiệu này. Thương hiệu tập thể được định nghĩa là thương hiệu của một nhóm hoặc chủng loại hàng hóa, có thể do một cơ sở sản xuất hoặc các cơ sở sản xuất kinh doanh trong cùng khu vực địa lý (làng nghề truyền thống) hoặc là thương hiệu chung cho hàng hóa của các doanh nghiệp khác nhau trong cùng hiệp hội ngành. Các thương hiệu này thường do địa phương quản lý và phát triển. Trong giai đoạn 2016-2017, nông nghiệp luôn chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu kinh tế Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm 2016, nông nghiệp chiếm 16,32% cơ cấu kinh tế, kim ngạch xuất khẩu đạt 32,1 tỷ USD. Nông sản Việt Nam có sản lượng lớn, đa dạng, nhiều sản phẩm đặc trưng nổi tiếng như bưởi Tân Triều, nhãn lồng Hưng Yên, vú sữa Lò Rèn, chè Tân Cương, xoài cát Hòa Lộc, được xuất khẩu đi nhiều nước. Tuy nhiên, 80% nông sản chưa được xây dựng thương hiệu khi ra thị trường quốc tế, và 90% xuất khẩu dưới nhãn hiệu nước ngoài. Khảo sát của Hội Nông dân Việt Nam cho thấy chỉ có 36/173 doanh nghiệp nông nghiệp đăng ký thương hiệu trong nước và 5 đăng ký quốc tế. Nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp ngại vấn đề hàng giả, thủ tục pháp lý phức tạp và thiếu nguồn nhân lực. Nghiên cứu cũng khảo sát mức độ nhận biết của người tiêu dùng về hệ thống nhận diện thương hiệu nông sản Việt Nam tại BigC Gò Vấp và Coopmart Lý Thường Kiệt (17/10/2017 - 18/10/2018), đối tượng khảo sát là người tiêu dùng từ 22-60 tuổi. Kết quả cho thấy, người tiêu dùng từ 22-35 tuổi thường đọc kỹ thông tin trên nhãn mác sản phẩm trước khi mua, trong khi người tiêu dùng lớn tuổi hơn quan tâm đến nguồn gốc xuất xứ và kinh nghiệm cá nhân. Đa số người trẻ không biết tên thương hiệu nông sản, nhưng nhận biết được các đặc sản vùng miền như bưởi Tân Triều, nhãn lồng Hưng Yên. Họ cho rằng thương hiệu phải thuộc về doanh nghiệp cụ thể, sản phẩm đồng đều chất lượng và đóng gói nhãn mác rõ ràng. Một số ít người tiêu dùng nhớ đến các thương hiệu tư nhân như Nông Thị, Vinamit, Cầu Đất Farm. Các thương hiệu này có hoạt động quảng cáo, truyền thông trên các phương tiện đại chúng và Internet. Đối với nhóm khách hàng từ 36 tuổi trở lên, nhiều người biết đến Vissan, Vinamit và một số thương hiệu nông sản tập thể (trái cây). Đa số biết đến các thương hiệu tập thể sau khi được gợi ý. Về hệ thống nhận diện thương hiệu, người tiêu dùng chủ yếu biết đến tên thương hiệu, ít biết đến logo, khẩu hiệu, màu sắc. Các thương hiệu tư nhân được biết đến nhiều hơn về hình ảnh logo, bao bì sản phẩm. Khách hàng liên tưởng thương hiệu tập thể với chất lượng sản phẩm, nhưng không biết rõ đặc điểm để phân biệt. Khách hàng liên tưởng thương hiệu tư nhân với chất lượng, bao bì và màu sắc. Bài viết kết luận rằng hầu hết nông sản bán trong siêu thị chỉ có một số loại được đóng gói và có bao bì. Khách hàng ít quan tâm đến thương hiệu, mà quan tâm đến đặc điểm, tính chất, hương vị, giá thành và các chứng nhận về quy trình trồng. Các vấn đề gặp phải khi xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam là nông sản thường được đưa ra thị trường ở dạng thô, thiếu sự nhận biết của người tiêu dùng, và khó phân biệt giữa nông sản chất lượng, có thương hiệu với nông sản trôi nổi.