intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng tình huống dạy học sử dụng trực quan hỗ trợ học sinh trực giác toán học giải quyết vấn đề

Chia sẻ: Danh Nguyen Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

108
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong bài viết này, chúng tôi trình bày khái niệm trực giác toán học và vai trò hỗ trợ của trực quan trong việc giúp học sinh trực giác toán học nhằm giải quyết vấn đề, từ đó chúng tôi xây dựng ba tình huống dạy học với sự sử dụng trực quan giúp người học trực giác giải quyết vấn đề trong quá trình dạy học toán ở trường phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng tình huống dạy học sử dụng trực quan hỗ trợ học sinh trực giác toán học giải quyết vấn đề

VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 36-40<br /> <br /> XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG DẠY HỌC SỬ DỤNG TRỰC QUAN<br /> HỖ TRỢ HỌC SINH TRỰC GIÁC TOÁN HỌC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ<br /> Võ Xuân Mai - Trường Đại học Đồng Tháp<br /> Ngày nhận bài: 20/02/2018; ngày sửa chữa: 12/04/2018; ngày duyệt đăng: 20/04/2018.<br /> Abstract: In this article, author presents the concept of mathematical intuition and the supportive<br /> role of visualization to student’s mathematical intuition in the problem solving. Therefore, author<br /> builds suitable teaching situations with support of visualization to improve student’s mathematical<br /> intuition in solving problems while learning mathematics at high school.<br /> Keywords: Mathematical intuition, visualization, mathematical teaching situations, problem solving.<br /> 1. Mở đầu<br /> Trong dạy học toán, cách dạy của giáo viên (GV) và<br /> cách trình bày của phần lớn nội dung trong sách giáo khoa<br /> dễ làm cho học sinh (HS) nghĩ rằng toán học chỉ có các<br /> chứng minh, suy luận diễn dịch và bài tập rèn luyện. Tuy<br /> nhiên, trong toán học việc phát sinh một khái niệm hay<br /> mệnh đề mới không chỉ bắt đầu từ suy diễn, đó là cả một<br /> quá trình mà HS cần biết được cách các nhà toán học đã<br /> đạt được kiến thức toán học như thế nào. Do đó, trong quá<br /> trình dạy học, GV cần xây dựng các tình huống nhằm tạo<br /> cơ hội cho HS thấy một hình thái khác của toán học với tư<br /> tưởng trực giác, sáng tạo, giúp người học biết được quá<br /> trình hình thành kiến thức, trải nghiệm với việc phát hiện<br /> ra những mệnh đề mới, nhận thấy được ý nghĩa, vẻ đẹp<br /> của tri thức toán học trong quá trình tiếp cận kiến thức mới.<br /> Bài viết này trình bày ý tưởng xây dựng các tình<br /> huống dạy học toán bằng việc sử dụng trực quan nhằm<br /> hỗ trợ người học trực giác phát hiện, hiểu biết về vấn đề<br /> toán học và giải quyết vấn đề qua mối quan hệ hỗ trợ của<br /> trực quan với trực giác toán học (TGTH). Từ đó chúng<br /> tôi khuyến nghị việc xây dựng hợp lí các tình huống dạy<br /> học toán nói chung nhằm hỗ trợ việc phát triển khả năng<br /> TGTH cho HS góp phần cụ thể hóa định hướng phát triển<br /> năng lực người học trong giai đoạn đổi mới giáo dục.<br /> 2. Nội dung nghiên cứu<br /> 2.1. Khái niệm trực giác toán học<br /> Khái niệm TGTH có liên quan đến các lĩnh vực như<br /> triết học, tâm lí học, toán học và giáo dục học. Các nhà<br /> triết học như Bergson và Spinoza cho rằng có sự đối lập<br /> giữa trực giác với lập luận, logic, quan điểm này được<br /> nhận thấy trong khái niệm hiện đại về TGTH sau này.<br /> Các nhà toán học như Poincaré, Déscartes, Hadamard<br /> nhận định rằng TGTH là cách thức của chứng minh sự<br /> hiểu biết và các vấn đề khái niệm. Trong tâm lí học nhận<br /> thức, các nhà tâm lí đã cống hiến cho việc nghiên cứu<br /> tiến trình nhìn thấu được bên trong sự vật, định nghĩa là<br /> sự hiểu biết ngay lập tức được sự vật, kinh nghiệm “à há”<br /> <br /> 36<br /> <br /> sau khoảng thời gian giải quyết vấn đề không thành công.<br /> Nhà tâm lí học K. Hamond đã đóng góp to lớn vào<br /> nghiên cứu trực giác, ông định nghĩa trực giác bởi sự đối<br /> lập với tư duy phân tích “nghĩa thông thường của trực<br /> giác có sự trái ngược với quá trình nhận thức mà làm<br /> cách nào để đưa ra câu trả lời, giải pháp hay ý tưởng với<br /> việc sử dụng quá trình từng bước biện minh hợp lí và có<br /> ý thức” [1; tr 29]. Các nhà giáo dục học như E. Fischbein<br /> [2], R. M. Hogarth [3], V. M. Jagla [4] đã nghiên cứu<br /> việc vận dụng trực giác vào trong lĩnh vực giáo dục và<br /> khẳng định trực giác hoàn toàn có thể dạy học được, cụ<br /> thể, Jagla đã tìm tòi cách thức để bồi dưỡng trực giác và<br /> tưởng tượng trong dạy học, từ đó nâng cao giá trị sử dụng<br /> trực giác và tưởng tượng của GV trong quá trình dạy học.<br /> Tác giả V. Giardino cho rằng TGTH là loại nhận thức<br /> đặc biệt quan hệ giữa các nhà toán học và hoạt động làm<br /> toán của họ, ông cho rằng “TGTH là nhận thức ngay lập<br /> tức các đối tượng toán học. TGTH cũng liên quan đến sự<br /> khám phá của các chứng minh toán học: trực giác bao<br /> gồm một sự chuẩn bị một cách vô thức giống như là sự<br /> ấp ủ, và sau đó là một sự soi sáng bằng phương tiện mà<br /> chúng ta đạt được một kết quả mới” [5; tr 29]. Ben-Zeev<br /> và Star [6], Y. H. Cho và S. Y. Hong [7] đều có cùng<br /> quan niệm về TGTH, đó là “TGTH có thể được hiểu là<br /> sự nhận thức một cách rõ ràng và ngay lập tức các đối<br /> tượng toán học mà không cần sự lập luận phân tích và<br /> có ý thức” [7; tr 156]. Còn theo Fischbein, “TGTH là một<br /> hiện tượng hiển nhiên và đáng tin cậy về bản chất mà<br /> không cần đòi hỏi sự chứng minh đúng đắn hay sự hợp<br /> lí trong việc chấp nhận các yếu tố toán học” [2; tr 14].<br /> Trong tác phẩm của V. A. Krutexki, ông đã đưa ra<br /> kết quả về bản chất TGTH của người học như sau: trực<br /> giác có thể xem là sự bừng sáng đột ngột chưa nhận thức<br /> được; có thể là trực quan cảm tính; cũng có thể là kết quả<br /> của sự vận động các cách thức hành động khái quát và<br /> các cấu trúc rút gọn. Hiện tượng cuối này về thực chất,<br /> chỉ là quá trình quy nạp và hoàn toàn có ý thức. Krutexki<br /> cho rằng “Trong nhiều trường hợp, sự bừng sáng đột<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 36-40<br /> <br /> ngột của HS có năng lực có thể được giải thích bởi sự<br /> ảnh hưởng vô thức của kinh nghiệm quá khứ mà cơ sở<br /> của chúng là năng lực khái quát hóa các đối tượng, các<br /> quan hệ, các phép toán học và năng lực tư duy bằng các<br /> cấu trúc rút gọn” [8; tr 15-16].<br /> Như vậy, qua phân tích quan niệm về TGTH của các<br /> tác giả, chúng tôi hiểu TGTH là sự nhận thức ngay lập<br /> tức các đối tượng, các quan hệ toán học mà không cần sự<br /> chứng minh đúng đắn, rõ ràng hoặc do có sự giản lược<br /> những bước lập luận phân tích mà nắm bắt được ngay kết<br /> quả của vấn đề toán học.<br /> 2.2. Mối liên hệ giữa trực quan và trực giác toán học<br /> trong dạy học toán<br /> Con đường từ trực quan đến trừu tượng, từ trừu tượng<br /> đến thực tiễn cụ thể là con đường giúp con người nhận<br /> thức được kiến thức, lĩnh hội được thế giới, đã được<br /> khẳng định theo V. I. Lênin: Từ trực quan sinh động đến<br /> tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn<br /> là con đường biện chứng của nhận thức chân lí, của nhận<br /> thức thực tại khách quan. Toán học là khoa học mang<br /> tính trừu tượng cao nhưng cũng phản ánh tính thực tiễn<br /> đa dạng, toán học bắt nguồn từ thực tiễn và trở lại phục<br /> vụ vào cuộc sống nên trong hoạt động nhận thức toán học<br /> cần chú trọng giải quyết đúng đắn sự mâu thuẫn và thống<br /> nhất biện chứng giữa trực quan và trừu tượng. Do đó<br /> trong dạy học toán, khi tiếp xúc với vấn đề phức tạp, trừu<br /> tượng, quá trình nhận thức của HS diễn ra dễ dàng hơn<br /> nếu HS có thể thấy được những hình ảnh trực quan của<br /> vấn đề, hoặc sử dụng hình ảnh trực quan để thấu hiểu vấn<br /> đề phức tạp, hoặc tìm ra được mô hình cụ thể biểu diễn<br /> cho vấn đề làm cho vấn đề đó trở nên đơn giản, gần gũi<br /> hơn từ đó nhận thức được cách giải quyết hoặc phát hiện<br /> ý nghĩa của vấn đề.<br /> Theo V. A. Karpunin, “biểu hiện đặc trưng trước hết<br /> của trực giác như là sự bừng sáng (được biểu hiện khi có<br /> sự đột biến về chất trong quá trình nhận thức toán học),<br /> ngoài ra trực giác trong nhận thức toán học liên hệ với<br /> cảm nhận trực quan. Thuật ngữ cảm nhận trực quan<br /> mang tính nổi trội của cảm tính của nhận thức toán học,<br /> xem trực giác là sự bừng sáng được tiến hành sau khi đã<br /> xem xét nó qua cảm nhận trực quan. Chúng tôi chỉ ra các<br /> ý nghĩa này liên hệ chặt chẽ lẫn nhau nhưng không loại<br /> trừ nhau, không xem cái này nổi bật hơn cái kia trong<br /> một quan hệ nhất định nào đó” [9; tr 123]. Giardino cho<br /> rằng, TGTH cũng như trực quan toán học đặc trưng là<br /> một loại tiếp cận trực tiếp các yếu tố toán học và chúng<br /> dựa trên nền tảng kiến thức và kinh nghiệm mà cá nhân<br /> đã tích lũy được từ trước. Bằng những công cụ không<br /> chính thức, TGTH và trực quan có ý nghĩa quan trọng<br /> đối với việc khám phá, sáng tạo toán học, theo Giardino<br /> “nếu không có TGTH và trực quan toán học, thật khó tìm<br /> <br /> 37<br /> <br /> thấy một cách thức nào khác để xem xét sự đóng góp của<br /> lập luận không chính thức nói chung trong tiến trình<br /> nghiên cứu toán học” [5; tr 30]. Trực quan như là phương<br /> tiện cung cấp thông tin cho chủ thể hình thành biểu tượng<br /> từ đó thấy được cái chung, cái tổng quát của các đối<br /> tượng được cho thông qua các hình ảnh trực quan của nó<br /> giúp trực giác phát hiện vấn đề, hình thành kết luận mới.<br /> Tuy nhiên, bằng trực giác, các nhà toán học có thể nắm<br /> bắt tốt những gì họ không nhìn thấy (bằng mắt). Giardino<br /> khẳng định “TGTH và trực quan toán học được kết nối<br /> với nhau, thực ra, một cách khác để mô tả TGTH là khả<br /> năng của chức năng quan sát không ngừng, nhưng bằng<br /> phương tiện khác nhiều hơn bằng mắt” [5; tr 30].<br /> Như vậy, khi xem xét trực quan, chủ thể nhận thức<br /> quan sát và tri giác các đối tượng, quan hệ toán học, dựa<br /> trên vốn hiểu biết đã có mà hình thành các biểu tượng rồi<br /> xuất hiện trực giác bằng việc có thể nắm bắt ngay, hiểu<br /> được bản chất của đối tượng, quan hệ toán học đó mà<br /> không cần sử dụng các bước của lập luận logic. Do đó<br /> việc sử dụng trực quan có vai trò hỗ trợ đến sự hình thành<br /> TGTH của HS thông qua việc hình dung được hình ảnh<br /> trực quan hay phát hiện được mô hình tương thích của<br /> vấn đề toán học trừu tượng.<br /> 2.3. Xây dựng tình huống dạy học toán sử dụng trực<br /> quan nhằm hỗ trợ người học trực giác phát hiện bản<br /> chất vấn đề hay giải quyết vấn đề<br /> Việc sử dụng trực quan nhằm hỗ trợ người học trực<br /> giác phát hiện bản chất vấn đề cũng như giải quyết vấn<br /> đề được xác định ở mức độ “trực giác bằng cảm nhận<br /> trực quan” (intuition by visual perception), ở đây HS trực<br /> giác được đối tượng, quan hệ toán học qua việc quan sát<br /> hiện tượng bên ngoài của đối tượng, quan hệ toán học<br /> một cách có mục đích và ý nghĩa để chủ thể nhận thức<br /> thu nhận thông tin từ tình huống đã cho nắm bắt được đối<br /> tượng, quan hệ toán học. Đây chỉ là nhận thức bằng cảm<br /> nhận trực quan chứ chưa phải là sự hiểu biết sâu sắc rõ<br /> ràng về bản chất của vấn đề nên kết quả của trực giác này<br /> có thể dẫn đến nhận thức sai lầm. Tuy nhiên, chúng tôi<br /> cho rằng nhận thức sai cũng mang đến những ý nghĩa cần<br /> thiết trong giáo dục, “vai trò của trực giác trong dạy học<br /> toán là cung cấp cho người học những dự đoán mang<br /> tính giáo dục, hiển nhiên những dự đoán này có thể đúng<br /> hoặc sai; trong hai trường hợp đều có khả năng kích<br /> thích tư duy toán học của người học một cách hiệu quả,<br /> vì đối với dự đoán sai thì cũng có thể dẫn đến sự tiến<br /> triển nhất định trong quá trình nhận thức của HS”<br /> [10; tr 48]. Theo Ben-Zeev và Star, có hai hướng tiếp cận<br /> về bản chất của trực giác: một là, sự khám phá trực giác<br /> đúng đắn của loài người và hai là, nghiên cứu trực giác<br /> sai lầm hay nhận thức sai lầm. Piaget cho rằng “Bằng<br /> việc khám phá nguồn gốc của sai lầm, con người có thể<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 36-40<br /> <br /> học nhiều về sự biểu diễn tinh thần nhiều hơn cả bằng<br /> việc khảo sát biểu diễn đúng đắn. Bằng việc xem xét bản<br /> chất của sai lầm, chúng ta có thể làm tỏa ra chút ánh<br /> sáng về TGTH” [6; tr 38], Ben-Zeev và Star kết luận rằng<br /> “nhận thức sai lầm qua trực giác bằng cảm nhận trực<br /> quan cũng mang lại nhiều giá trị nói chung cho sự khám<br /> phá cách thức mà con người có thể hiểu và trình bày các<br /> vấn đề một cách bản chất” [6; tr 38].<br /> Do đó, khi xây dựng tình huống dạy học với công cụ<br /> trực quan nhằm hỗ trợ HS trực giác giải quyết vấn đề,<br /> GV cần chú trọng việc tạo niềm tin, động viên người học<br /> tự tiếp cận, khám phá, phát hiện vấn đề, tạo cơ hội cho<br /> HS được suy nghĩ, trải nghiệm nhiều hơn, coi trọng các<br /> năng lực tư duy tìm tòi, suy đoán, trực giác và vận dụng<br /> kiến thức giải quyết vấn đề. Theo Kapur, “khi GV cho<br /> phép HS giải quyết vấn đề toán học mà không có sự chỉ<br /> dẫn trực tiếp, HS được thể hiện vấn đề với nhiều cách<br /> khác nhau và linh hoạt khám phá các giải pháp đa dạng<br /> dựa trên kiến thức và kinh nghiệm đã có của họ. Dù trực<br /> giác đôi khi dẫn đến kết quả sai lầm, GV cũng nên<br /> khuyến khích HS sử dụng trực giác của họ trong việc thể<br /> hiện và giải quyết vấn đề bởi vì kinh nghiệm thất bại có<br /> thể sản sinh ra việc học tập có ý nghĩa” [7; tr 155]. Kết<br /> luận trong bài viết của mình, R. L. Wilder đã nhấn mạnh<br /> rằng “phương pháp dạy học hiện đại cần nhận ra được<br /> vai trò của trực giác bằng cách thay thế việc dạy “làm<br /> thế này, làm thế kia” bởi “điều gì nên làm tiếp theo”. Đó<br /> là cách tiếp cận để nền tảng trực giác sẵn sàng phát<br /> triển, với cách này sự hiểu biết và phê phán kiến thức có<br /> thể thấm nhuần đúng đắn trong HS” [11; tr 610].<br /> Để xây dựng tình huống dạy học bằng sử dụng trực<br /> quan nhằm hỗ trợ HS trực giác giải quyết vấn đề, GV chú<br /> ý lựa chọn các vấn đề, tri thức toán học thông qua các<br /> công cụ trực quan như hình ảnh, biểu đồ, sơ đồ, đồ thị,<br /> mô hình, ... để người học tự phát hiện hình thành kiến<br /> thức cũng như giải quyết vấn đề. Trước hết, GV cần xác<br /> định được không gian vấn đề (problem space) và những<br /> khó khăn nhận thức của HS, từ đó khuyến khích HS đưa<br /> ra phán đoán của mình về vấn đề; tạo cơ hội cho HS biểu<br /> diễn, giải thích sự hiểu biết về bản chất của các vấn đề<br /> toán học thông qua hình ảnh tiếp nhận được khi quan sát;<br /> giúp HS hình dung được hình ảnh, mô hình trực quan để<br /> giải quyết vấn đề. Trong tình huống dạy học đó, “khả<br /> năng học tập qua trực giác của HS được biểu hiện ở chỗ<br /> tạo sự kết nối giữa trực quan và trừu tượng, chuyển hóa<br /> được vấn đề đang xét với kiến thức toán học, định hướng<br /> được đường lối, phát hiện ý tưởng mới giải quyết vấn đề,<br /> hiểu biết và giải thích được ý nghĩa của vấn đề, mô tả và<br /> thảo luận các giai đoạn của quá trình giải quyết. Thông<br /> qua những hoạt động đó, người học đạt được cách thức<br /> giải quyết vấn đề hơn là kết quả, giải pháp của vấn đề.<br /> <br /> 38<br /> <br /> Điều này giúp họ vận dụng được vào những tình huống<br /> mới khi họ đối mặt với những vấn đề ngoài trường học”<br /> [12; tr 6]. Trên cơ sở đó, chúng tôi cho rằng có thể phát<br /> triển khả năng TGTH cho HS thông qua việc xây dựng<br /> tình huống dạy học bằng sử dụng trực quan như sau:<br /> - Xây dựng các tình huống chứa các hình ảnh trực<br /> quan cho trước hỗ trợ HS trực giác phát hiện bản chất<br /> vấn đề toán học.<br /> - Xây dựng các tình huống giúp HS hình dung được<br /> hình ảnh trực quan của vấn đề từ đó trực giác giải quyết<br /> vấn đề toán học.<br /> - Xây dựng các tình huống thực tiễn giúp HS trực giác<br /> phát hiện được mô hình trực quan của vấn đề từ các kiến<br /> thức toán học từ đó giải quyết vấn đề.<br /> Sau đây là ví dụ minh họa cho các tình huống dạy học<br /> đã đề xuất:<br /> Ví dụ 1. Sau khi HS học xong bài “Dãy số” (Đại số<br /> và Giải tích 11 nâng cao) [13], GV có thể cho HS tiến<br /> hành giải quyết vấn đề sau: “Hãy quan sát hình 1 và trả<br /> lời các câu hỏi sau: 1) Có bao nhiêu hình vuông trong<br /> mỗi bước trong hình trên?; 2) Hình dung hình ở bước tiếp<br /> theo? Số hình vuông trong bước tiếp theo đó bằng bao<br /> nhiêu?; 3) Dự đoán số hình vuông trong bước thứ 10?<br /> Tìm biểu thức biểu diễn số hình vuông cho bước thứ n?<br /> Kiến thức toán học nào thể hiện qua hình vẽ trên?”.<br /> - Không gian<br /> vấn đề của HS<br /> liên quan đến bài<br /> toán: Kiến thức<br /> và kinh nghiệm<br /> Hình 1<br /> đã có của HS về<br /> dãy số và các tính chất (dãy số tăng hoặc giảm, dãy số bị<br /> chặn), xác định các số hạng của một dãy số đã cho dưới<br /> dạng tổng quát hoặc truy hồi, phương pháp xét tính tăng,<br /> giảm, bị chặn của một dãy số đã cho.<br /> - Xác định khó khăn trong nhận thức của HS: HS đã<br /> biết về tính chất của dãy số dưới dạng toán học thuần túy<br /> tuy nhiên khó nhận ra được bài toán có liên quan đến kiến<br /> thức “Dãy số” được cho dưới dạng khác. Bài toán đòi hỏi<br /> HS phải thấy được tri thức toán học ẩn chứa và phát hiện<br /> ra quy luật của dãy số đó, đó là số hình vuông trong mỗi<br /> bước n chính là số hạng thứ n của một dãy số, chẳng hạn<br /> u1 = 7, u2 = 15, u3 = 27 là ba số hạng đầu của dãy, cần<br /> phát hiện ra biểu diễn tổng quát của dãy số đó thông qua<br /> hình ảnh trực quan đã cho.<br /> - Giải quyết vấn đề bằng trực quan: Qua hoạt động<br /> quan sát trực quan, HS có thể giải quyết được câu thứ<br /> nhất của bài toán một cách dễ dàng: số hình vuông tương<br /> ứng trong mỗi bước là 7, 15, 27. Tuy nhiên để giải được<br /> hai câu tiếp theo thì không đơn thuần là việc quan sát<br /> hình vẽ rồi đếm số hình vuông mà HS cần có sự xem xét<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 36-40<br /> <br /> kĩ lưỡng và hiểu được cách cho hình vuông trong mỗi<br /> bước như thế nào, tức là cần quan sát có chủ đích và có<br /> khuynh hướng bỏ qua những chi tiết không cơ bản từ đó<br /> tìm ra quy luật của hình để xác định được số hình vuông<br /> trong các bước tiếp theo.<br /> - Dự đoán kết quả của vấn đề: HS có thể dự đoán<br /> nhiều câu trả lời khác nhau (đúng hoặc sai) sau khi quan<br /> sát hình vẽ đã cho và hình dung hình vẽ với số hình<br /> vuông ở bước 4.<br /> - Hoạt động mô tả và thảo luận: HS giải thích tại sao<br /> lại đưa ra dự đoán và cùng thảo luận về phương án trả lời<br /> của mình từ đó tìm ra câu trả lời tốt nhất (về quy luật của<br /> các hình vuông).<br /> - Trực giác phát hiện tri thức và giải quyết vấn đề:<br /> Khi trao đổi cùng nhau, HS có thể phát hiện qua quan sát<br /> sự thay đổi của các hình vuông cùng màu để phát hiện<br /> quy luật của hình ở bước thứ n: số hình vuông màu tím ở<br /> bước 1, 2, 3 lần lượt là 1, 4, 9 như vậy số hình vuông ở<br /> bước n là n2 (quy luật di chuyển theo đường chéo hình<br /> vuông); số hình vuông màu xanh và màu đỏ ở bước 1, 2,<br /> 3 lần lượt là 1, 2, 3 do đó ở bước thứ n số hình vuông là<br /> n (quy luật di chuyển theo hàng dọc và hàng ngang), còn<br /> số hình vuông màu trắng giữ nguyên không thay đổi sau<br /> các bước. Từ đó HS suy ra hình ở bước thứ 4 (có thể vẽ<br /> ra hình đó) và số hình vuông trong bước đó. Việc hình<br /> dung ra được hình ở bước thứ 4 nhờ nắm bắt được quy<br /> luật của các hình đã cho thể hiện được khả năng trực giác<br /> của HS thông qua quan sát trực quan. Khái quát hóa quá<br /> trình, HS có thể nhận ra biểu thức biểu diễn số hình<br /> vuông ở bước thứ n là 2n2 + 2n + 3.<br /> - Kiến thức toán học vận dụng trong bài toán: Kiến<br /> thức toán học ẩn tàng trong hoạt động này chính là bài<br /> toán tìm số hạng bất kì của một dãy số.<br /> Nhận xét: Bài toán tìm số hạng của một dãy số được<br /> xây dựng qua ví dụ trên giúp HS thấy được bản chất của<br /> vấn đề toán học thông qua hình ảnh trực quan. Nếu chỉ<br /> đơn thuần phát biểu bài toán dạng tường minh của toán<br /> học thuần túy như “Cho dãy số (un) với un = 2n2 + 2n + 3.<br /> Tìm số hạng thứ 4 và số hạng thứ 10 của dãy số” thì bài<br /> toán trở nên quá đơn giản đối với HS lớp 11 (bài toán<br /> dạng tìm số hạng của dãy đã cho dạng tường minh như<br /> thế này có thể xem ở bài tập 9, 10, 15 trong [13; tr 105109]) vì với mức độ yêu cầu đối với HS là thay số vào<br /> biểu thức rồi tính toán, hoạt động này chỉ coi trọng kĩ<br /> năng tính toán. Nhưng ở đây thông qua hoạt động trực<br /> quan, HS không đơn giản cần có kĩ năng tính toán mà HS<br /> phải nắm bắt được trực quan để hiểu vấn đề, trực giác<br /> phát hiện ra quy luật cho của dãy số và hiểu được một<br /> biểu diễn khác của dãy số.<br /> Ví dụ 2. Sau khi học xong bài “Đường thẳng vuông<br /> góc với mặt phẳng” (Hình học 11 nâng cao) [14], GV<br /> <br /> 39<br /> <br /> cho HS giải quyết bài toán sau: “Xác định thiết diện của<br /> hình lập phương và mặt phẳng trung trực của một đường<br /> chéo của hình lập phương đó” giúp HS hình dung được<br /> hình ảnh trực quan của vấn đề và trực giác giải quyết vấn<br /> đề toán học.<br /> - Không gian vấn đề của HS liên quan đến bài toán:<br /> Vốn hiểu biết và kinh nghiệm đã có của HS về hai đường<br /> thẳng vuông góc, đường thẳng vuông góc với mặt phẳng,<br /> các định lí và tính chất liên quan đến quan hệ vuông góc,<br /> khái niệm mặt phẳng trung trực của một đoạn thẳng, cách<br /> xác định thiết diện của hình khi cắt bởi một mặt phẳng<br /> thỏa mãn yêu cầu cụ thể.<br /> - Tình huống nhận thức gây khó khăn trong bài toán<br /> đối với HS: dù HS đã biết cách xác định thiết diện của<br /> hình nhưng sau khi vẽ xong hình lập phương, HS chưa<br /> được cung cấp nhiều thông tin trong bài toán để thực hiện<br /> các bước tiếp theo, do đó gây khó khăn để người học có<br /> thể vẽ được các giao tuyến của mặt phẳng trung trực với<br /> các mặt của hình lập phương. Đối với bài toán thuộc loại<br /> dựng hình này, HS cần phải phát hiện các yếu tố quan<br /> trọng của hình cần dựng trước, từ đó mới có thể vẽ được<br /> hình đó. GV yêu cầu HS hình dung ra mặt phẳng trung<br /> trực của một đường chéo có tính chất gì đặc biệt, có quan<br /> hệ với các mặt phẳng nào không?<br /> - HS trực giác thấy ngay được kết quả của vấn đề<br /> thông qua việc hình dung được hình ảnh trực quan: Trong<br /> tình huống này bắt buộc HS phải tưởng tượng ra được<br /> hình, nhìn thấy được mặt phẳng trung trực của đường chéo<br /> cần dựng với những tính chất gì, xác định như thế nào<br /> trước rồi sau đó mới có thể thực hiện các thao tác phân tích<br /> và cụ thể trên hình vẽ trực quan. Cụ thể là, giả sử cần xác<br /> định thiết diện của hình lập phương ABCD.A’B’C’D’ và<br /> mặt phẳng trung trực () của đường chéo AC’. (Hiển<br /> nhiên HS có thể chọn bất kì đường chéo nào khác của hình<br /> lập phương). Mặt phẳng () đi qua tâm O của hình lập<br /> phương ABCD.A’B’C’D’ và vuông góc với đường chéo<br /> AC’. Liên tưởng đến kết quả bài toán đã biết trước đó: hai<br /> mặt phẳng (BDA’) và (B’D’C) song song với nhau và<br /> vuông góc AC’, hơn nữa (BDA’) và (B’D’C) chia AC’<br /> làm ba đoạn bằng nhau tại các trọng tâm G và G’ của hai<br /> tam giác BDA’ và B’D’C (kết quả của bài tập 37<br /> [14; tr 68]). Từ đó các em có thể nhận thấy được mối quan<br /> hệ giữa ba mặt phẳng này thông qua tưởng tượng và trực<br /> giác hình học, mặt phẳng () cần dựng song song với mặt<br /> phẳng (BDA’) và (B’D’C), do đó mặt phẳng () lần lượt<br /> đi qua trung điểm của các cạnh BC và CD, A’B’ và A’D’,<br /> BB’ và DD’ (vì () đi qua trung điểm O của AC’ và song<br /> song (BDA’), (B’D’C)).<br /> - Mô tả đường lối giải quyết vấn đề: Từ hoạt động<br /> hình dung được mặt phẳng trung trực có những yếu tố<br /> xác định, HS sẽ sử dụng hình ảnh trực quan để minh họa<br /> <br /> VJE<br /> <br /> Tạp chí Giáo dục, Số 431 (Kì 1 - 6/2018), tr 36-40<br /> <br /> cho sự hình dung đó. Yêu cầu HS mô tả các bước dựng<br /> hình: trong mặt phẳng (A’BCD’) vẽ đường thẳng qua O<br /> và song song với A’B cắt BC<br /> M<br /> B<br /> C<br /> và A’D’ lần lượt tại M, Q tiếp<br /> D<br /> N<br /> A<br /> tục dựng các giao tuyến của<br /> S<br /> () với hình lập phương từ đó<br /> O<br /> P<br /> suy ra thiết diện của hình lập<br /> B'<br /> C'<br /> R<br /> phương khi cắt bởi mặt phẳng<br /> trung trực của đường chéo A'<br /> D'<br /> Q<br /> AC’ là hình lục giác đều<br /> MNPQRS (hình 2).<br /> - Hoạt động kiểm chứng bằng suy diễn với các thao<br /> tác chứng minh bài toán: Cho HS chứng minh AC’<br /> vuông góc (BDA’) (hoặc AC’ vuông góc (B’D’C)) và<br /> chứng minh thiết diện đi qua các trung điểm là mặt phẳng<br /> trung trực của AC’: Gọi M, N, P, Q, R, S lần lượt là trung<br /> điểm của các cạnh BC, CD, DD’, A’D’, A’B’ và BB’. Ta<br /> có tứ giác AMC’Q là hình thoi nên M và Q thuộc mặt<br /> phẳng trung trực của AC’, tương tự cho các điểm còn lại.<br /> Vậy thiết diện cần tìm là lục giác đều MNPQRS.<br /> Nhận xét: Trong ví dụ trên, hoạt động hình dung thấy<br /> được ngay kết quả mặt phẳng trung trực đi qua các trung<br /> điểm của các cạnh hình lập phương thể hiện khả năng<br /> trực giác qua sự tưởng tượng hình ảnh trong não của HS,<br /> mà việc hình dung này đôi khi cũng có thể đưa ra kết quả<br /> sai lầm. Tuy nhiên, ta thấy rằng việc nhìn thấy trong đầu<br /> hình ảnh về đối tượng nhờ vốn hiểu biết và kiến thức kinh<br /> nghiệm đã có để nhận ra được đặc điểm của thiết diện<br /> giúp HS phát hiện đường lối giải quyết được bài toán, do<br /> đó suy ra được cách dựng thiết diện của hình lập phương<br /> và mặt phẳng trung trực của đường chéo. Như vậy, việc<br /> tưởng tượng ra được trong tâm trí một số tính chất hay<br /> nhờ trực giác hình dung ra được kết quả, sản phẩm cuối<br /> cùng mang yếu tố quyết định đối với những bài toán<br /> không mang tính quy trình. Nhờ sự kết nối giữa trí tưởng<br /> tượng và trực quan giúp phát hiện ra được chiến lược giải<br /> quyết, HS có thể thực hiện được các bước lập luận logic,<br /> phân tích dùng suy luận để kiểm chứng sau đó.<br /> 3. Kết luận<br /> Bài viết đã xây dựng các tình huống dạy học toán với<br /> việc sử dụng trực quan như các tình huống chứa các hình<br /> ảnh cho trước, các tình huống giúp HS hình dung được<br /> hình ảnh trực quan của vấn đề và các tình huống thực tiễn<br /> giúp HS trực giác phát hiện được mô hình trực quan của<br /> vấn đề. Với các tình huống dạy học đó, GV có thể giúp<br /> HS thể hiện khả năng dự đoán, suy luận trực giác cùng<br /> với việc được trải nghiệm nhiều hơn trong việc giải quyết<br /> vấn đề. Tuy nhiên, GV cần quan tâm đến việc thiết kế<br /> các tình huống hoạt động nhận thức cho HS sao cho đảm<br /> bảo sự thống nhất giữa các mặt đối lập giữa trực quan và<br /> tính logic chặt chẽ, chứ không quá lạm dụng trực quan,<br /> <br /> 40<br /> <br /> xác định đúng mức độ trực quan để HS nhận thức được<br /> cái trừu tượng giúp phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề.<br /> Tài liệu tham khảo<br /> [1] Birgerstam P. (2002). Intuition - The way to<br /> meaningful<br /> knowledge. Studies<br /> in<br /> Higher<br /> Education, Vol. 27(4), pp. 431-444.<br /> [2] Fischbein E. (1987). Intuition in Science and<br /> Mathematics: An Educational Approach. D. Reidel<br /> Publishing Company.<br /> [3] Hogarth R. M. (2001). Educating Intuition.<br /> University of Chicago Press.<br /> [4] Jagla V. M. (1994). Teachers’ Everyday use of<br /> Imagination and Intuition: In Pursuit of the Elusive<br /> Image. State University of New York Press.<br /> [5] Giardino V. (2010). Intuition and visualization in<br /> mathematical problem solving. Topoi, Vol. 29(1),<br /> pp. 29-39.<br /> [6] Ben-Zeev T. - Star J. (2001). Intuitive Mathematics:<br /> Theoretical and Educational Implications.<br /> Understanding and teaching intuitive mind: student<br /> and teacher learning, pp. 29-55.<br /> [7] Cho Y. H. - Hong S. Y. (2015). Mathematical intuition<br /> and Storytelling for Meaningful Learning. Disciplinary<br /> Intuitions and the Design of Learning Environments,<br /> Springer Science Singapore, pp. 155-168.<br /> [8] Krutexki V. A. (1973). Tâm lí năng lực toán học của<br /> học sinh. NXB Giáo dục.<br /> [9] Karpunin V. A. (1974). Tư duy hình thức và trực<br /> giác trong nhận thức toán học. NXB Đại học Tổng<br /> hợp Xtalincrat (Tiếng Nga).<br /> [10] Đào Tam - Võ Xuân Mai (2016). Hướng tới sự hiểu<br /> biết về trực giác và vai trò của trực giác trong dạy<br /> học toán. Tạp chí Giáo dục, số 389, tr 46-49.<br /> [11] Wilder R. L. (1967). The role of Intuition. Science,<br /> Vol. 156 (3775), pp. 605-610.<br /> [12] Nguyen Phuong Chi - Vo Xuan Mai (2017).<br /> Learning by intuiting - The way to solve unforeseen<br /> problems in mathematics education. Vietnam<br /> Journal of Science, Hanoi National University of<br /> Education, June 2017, pp. 3-8.<br /> [13] Đoàn Quỳnh (tổng chủ biên) - Nguyễn Huy Đoan<br /> (chủ biên) (2008). Đại số và Giải tích 11 nâng cao.<br /> NXB Giáo dục.<br /> [14] Đoàn Quỳnh (tổng chủ biên) - Văn Như Cương (chủ<br /> biên) (2009). Hình học 11 Nâng cao. NXB Giáo dục.<br /> [15] Đào Tam - Võ Xuân Mai (2016). Đảm bảo sự cân đối<br /> giữa tư duy trực giác và tư duy phân tích cho học sinh<br /> trong dạy học toán. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện<br /> Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 134, tr 46-49.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2