48
TRẦN VĂN NAM
XU HƯỚNG LỰA CH0N GÁI
BIỂU ĐẠT TRŨNG SỰ HÌNH
THÀNH ÁC BIỂU TRƯNG
NGHÊ THUẬT bÚA PA DA0
NAM BỘ
TRẤN VĂN NAM?
hìn từ góc độ kí hiệu học, biểu
Ấn ca đao là kí hiệu ngôn ngữ.
Một kí hiệu có hai mặt: "Cái biểu trưng
và cái được biểu trưng. Hai mặt này kết
hợp với nhau theo liên tưởng và theo
một quan hệ ước lệ. Chúng là "bất khả
quy" và bị "gán ghép" theo quy ước
(không yêu cầu nhau)" [2,85]. Theo
cách nhìn nhận này thì biểu trưng là
lấy một sự vật, hiện tượng (cái Ð, cái
biểu đạt) để biểu hiện có tính chất
tượng trưng một cái khác (cái A, cái
được biểu đạt). Chẳng hạn, con thuyền
là cái B, cái biểu đạt; chàng trai là cái
được biểu đạt, cái A. Thật ra đây là
cách nói đơn giản hóa vấn đề, bởi vì
"con thuyền" thật sự không xuất hiện
trong bài ca dao trên trang sách được
mà nó chỉ xuất hiện bằng từ "thuyền".
Trong quan hệ giữa từ "thuyền" và con
thuyền thật sự thì từ "thuyền" là cái
biểu đạt, con thuyền là cái được biểu
đạt. Cho nên cũng có thể nói, biểu
trưng nhìn từ giác độ kí hiệu học là
những siêu kí hiệu, bởi vì chúng là kí
hiệu của kí hiệu.
Ở) Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ.
Những hình ảnh biểu trưng trong
ca dao xuất hiện không phải ngâu
nhiên mà là theo cơ chế lựa chọn. Nhìn
nhận một cách tổng thể thì sự xuất
hiện của chúng theo xu hướng nhất
định, bởi vì sự lựa chọn hình ảnh này
hay hình ảnh kia ít nhiều gắn với thị
hiếu thẩm mĩ và đặc điểm tư duy của
tác gia dân gian.
Để tìm hiểu các biểu trưng nghệ
thuật trong ca dao Nam Bộ, bài viết
này đặt vấn đề trọng tâm là cái biểu
đạt, chúng tôi dùng quyển Ca døưo dân
ca Nam Bộ làm tư liệu khảo sát. Những
bài ca dao dẫn dưới đây được trích
trong tư liệu này.
1. Sự xuất hiện hông đồng đều
của các nhóm biểu trưng
Trước hết, theo khảo sát của chúng
tôi từng nhóm biểu trưng trong ca dao
Nam Bộ (sự xuất hiện của cái biểu đạt)
xuất hiện với số lượng không đồng đều,
cụ thể như sau:
Tổng cộng: 105 biểu trưng thuộc thế
giới tự nhiên (hiện tượng, vật thể tự
nhiên, các loài động, thực vật).
Tổng cộng: 51 biểu trưng thuộc thế
giới vật thể nhân tạo (những đồ dùng
cá nhân, dụng cụ sinh hoạt gia đình, xã
hội, công cụ sản xuất và phương tiện
giao thông, những công trình xây
dựng).
Tổng cộng: 35 biểu trưng thuộc thế
giới con người (những điển tích, nhân
vật lịch sử, văn hóa, các bộ phận cơ thể
người).
Số liệu trên cho thấy: số lượng biểu
trưng thuộc thế giới tự nhiên hơn gấp
đôi số biểu trưng thuộc thế giới vật thể
nhân tạo (105/51), gấp ba số biểu trưng
thuộc thế giới con người (105/35). Số
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
49
CC EễETTT TT ==EEỀ II ÑẼÑẼB_ẬỶẬ
lượng biểu trưng thuộc thế giới vật thể
nhân tạo lớn gấp gần 1,5 lần số biểu
trưng thuộc thế giới con người (51/35).
Như vậy, thứ tự ưu tiên lựa chọn giữa
các nhóm là: thế giới tự nhiên, thế giới
vật thể nhân tạo, thế giới con người.
Trong đó thế giới tự nhiên chiếm ưu thế
tuyệt đối. Xu hướng lựa chọn này cho
thấy tác giả ca dao Nam Bộ có ấn tượng
sâu sắc đối với thế giới tự nhiên.
Đây có thể là biểu hiện của lối suy
nghĩ của những con người sống gắn bó
với tự nhiên. Đó là một kiểu tư duy: so
sánh, đối chiếu giữa con người và đời
sống của họ với đời sống và đặc điểm
của thiên nhiên tạo vật.
Đặc điểm tư duy trên còn có thể
chứng minh bằng khuynh hướng lựa
chọn biểu trưng là những hình ảnh con
vật - một nhóm thuộc thế giới tự nhiên.
Xin lấy ví dụ từ cấu trúc so sánh của
các biểu trưng. Kiểu cấu trúc này
thường sử dụng từ và nhóm từ như:
“như, giả như, tỉ như, cũng như, giờ
như ...”. Các yếu tố này mang ý nghĩa
tương đương với “như”. Tác giả so sánh
chủ thể (thường là con người) với một
sự vật hiện tượng nào đó. Cấu trúc so
sánh sử dụng yếu tố “như” và các nhóm
từ gần gũi xuất hiện 327 lần, trong đó
có 52 lần, tác giả dân gian so sánh chủ
thể với các con vật, cụ thể như sau:
phụng hoàng xuất hiện 4 lần, loan 1
lần, rồng 2 lần, én 1 lần, nhạn 1 lần.
Đây là 5 loài chim quý xuất hiện 9 lần.
Tần số xuất hiện của các loài vật khác
như sau: cá 91 lần, tôm 1 lần, con tằm
1 lần, kiến vàng 1 lần, chim 5 lần, cò 3
lần, bướm 3 lần, ong 4 lần, châu chấu 1
lần, thỏ 9 lần, vượn 1 lần, hùm 1 lần.
Đây là những loài vật bình thường, gần
gũi (trừ vượn, hùm) có 19 loài xuất hiện
43 lần. Tổng cộng 2 nhóm là 17 loài.
Kết qủa này cho thấy, tác giả dân gian
có khuynh hướng ví mình với các con
vật bình thường, gần gũi.
Gắn bó, hòa mình với tự nhiên là
đặc điểm của cư dân nông nghiệp. Như
vậy, tác giả ca dao người Việt trong cả
nước nói chung cũng đã từng dùng
những hình ảnh thiên nhiên để biểu
đạt tâm tư tình cảm của mình. Yếu tố
thi pháp này một lần nữa là yếu tố nổi
bật trong ca dao Nam Bộ. Có phải
chăng, người nông dân Nam Bộ trong
quá trình khai phá vùng đất mới lại có
dịp đối mặt nhiều với môi trường tự
nhiên hơn là người nông dân đã định cư
lâu đời ở vùng đất cũ?
9. Xu hướng sử dụng đặc điểm
phổ quát của các hình ảnh
Trong quá trình biểu trưng hóa,
tác giả ca đao Nam Bộ có xu hướng sử
dụng các hình ảnh với những đặc điểm
phổ quát của chúng. Quan tâm đến đặc
điểm phổ quát của hệ thống đối tượng
dẫn đến kết quả là tập trung chú ý vào
hệ thống đối tượng có những đặc điểm
phổ quát. Trong một tập hợp các đối
tượng khi xếp chúng thành hệ thống
phải dựa trên một số tiêu chí nào đó.
Có thể quy ước như sau: hệ thống theo
cấp độ "lớn" là tập hợp các đối tượng
theo các tiêu chí chung nhất. Tập hợp
này là chủng loại. Hệ thống theo cấp độ
"vừa" là tập hợp các đối tượng thuộc
chủng loại nhưng chỉ xét theo một số
tiêu chí nào đó, hoặc nhấn mạnh một số
tiêu chí nào đó. Tập hợp này là tiểu
loại. Như vậy một chủng loại có nhiều
tiểu loại. Tiếp tục phân loại các đối
tượng thuộc tiểu loại sẽ được từng
nhóm đối tượng. Đây là hệ thống theo
30
TRẦN VĂN NAM
:———————>—ễễễ
cấp độ "nhỏ". Theo cách phân loại này,
hệ thống đối tượng theo cấp độ "lón"
chính là những đối tượng có chung
những đặc điểm phổ quát nhất.
Phân loại các biểu trưng theo "cái
biểu đạt", chúng tôi thấy rằng tác giả
ca đao Nam Bộ quan tâm nhiều hơn đối
với hệ thống các sự vật hiện tượng
thuộc cấp độ "lớn". Chẳng hạn, biểu
trưng "chim" xuất hiện với tần số cao
tuyệt đối so với các loài chim cụ thể:
"chim" xuất hiện 80 lần trong khi "cò”
10 lần, "chim quyên" 8 lần, "sáo" 6
lần... Biểu trưng "cá ù” xuất hiện với
tần số cao tuyệt đối so với các loài cá cụ
thể, "cá" 69 lần, "cá bống” 9 lần, "cá lí
ngư" 3 lần, "cá thu" 9 lần... Do vậy mà
các biểu trưng có nguồn gốc từ sự vật
hiện tượng thuộc cấp độ "lớn" được sử
dụng rộng rãi hơn, đa dạng hơn các
biểu trưng thuộc cấp độ "nhỏ".
Ví dụ: về biểu trưng chim và các
loài chim cụ thể trong việc biểu trưng
cho nhân vật trữ tình: "chim" được sử
dụng đa dạng hơn "rồng, hạc, cò..."
Chim biểu trưng cho con người sống
giữa cuộc đời rộng lớn, đây biến động.
Đó là con người đi xa, người có chí khí,
thường là người đàn ông. Đó là những
hình ảnh cánh chim hồng, chim trên
rừng, chim bay về rừng, chim bay, chim
trời, cánh chìm...
Bể sâu con cá 0ẫy 0uùng
Trời cao muôn trượng, cánh chỉm
hồng cao bay.
Chim chỉ người cao quý, người khôn
ngoan, nhất là người con gái trong
quan hệ tình cảm với các hình ảnh
”®chìm lạ, chim khôn, chim rừng”:
Chim bhôn đừng nệ biếng tàn
Gái bhôn chó thấy trai cơ hàn mà xa.
Hình ảnh “chim chạ, con chim ham
ăn” biểu trưng cho người thấp hèn,
người không xứng đáng:
Chí quyết lên non tìm con chim lạ
Dưới chốn thị thành chim chụạ thiếu
chi.
Chim biểu trưng cho chủ thể và đối
tượng tình cảm trong quan hệ lứa đôi,
biểu trưng cho tình yêu, với các hình
ảnh "chim bay về cội, chim buồn tình,
chìm có đôi có bạn, chim kia đủ cặp,
cặp chìm..."
Anh mong gởi cá cho chỉm
Chim bay ngàn dặm, cá chìm biển
Đông.
- “Chim đậu, chìm bay, chìm - ná”
biểu trưng cho đối tượng tình cảm, cho
mục tiêu cần đạt được:
Thùng thùng cắc cắc
Chim đậu không bắt
Để bắt chim bay
Dấn mình uô đám chông gai
Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân.
“Chim” biểu trưng cho người tự do
và người gặp cảnh tù túng với các hình
ảnh “chim nọ đang bay, chìm lồng”:
Qua như chim nọ đương bay
Em như cá nọ mặc rày lưới giăng.
- Vị‡ năm bờ mía ria lông
Cá chậu chỉm lồng bao thuở gặp
nhau.
- “Chim” biểu trưng cho người quay
về chốn cũ và do vậy thể hiện sự bình
yên, không khí thân thuộc qua các hình
ảnh “chim về cội, chim bay về cội, chim
bay về núi, chim - cây đa, chim lạc bầy
tìm cây”:
Chim ham trái chín ăn xa
Buôn tình nhớ lại cây đa muốn uề.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Chim bay uề cội, cá lội uề rừng
Muốn nên cơ nghiệp thì đừng bỏ em.
Trong khi đó việc sử dụng các biểu
trưng là hình ảnh của các loài chim cụ
thể diễn ra trên phạm vi hẹp hơn. Ví
dụ:
Rồng biểu trưng cho người cao quý
(có trường hợp là chung cuộc tốt đẹp).
Đó là những hình ảnh “cá ở cạn chờ khi
hoá rồng, hoá rồng lên mây”:
Báu chê anh quân tử lỡ thì
Anh tỉ như con cá ở cạn chờ bhi hoú
rồng.
Rồng trong các quan hệ “phụng -
rồng, rồng - mây" và hình ảnh “cặp
rồng” biểu trưng cho tình yêu và chủ
thể tình cảm trong quan hệ lứa đôi:
Ngày nòo nên ngãi uợ chồng
Đôi lứa ta như thể cá hóa rồng lên
mây.
Hình ảnh "hạc" xuất hiện 12 lần.
Trong quan niệm của người Việt, hạc là
loài chim quý, sống lâu cho nên nó chỉ
sự thiêng liêng, sự trường tồn. Nhưng
nét nghĩa này cũng ít được khai thác.
Một trưởng hợp "hạc" biểu trưng cho
nhân vật trữ tình:
Ba năm hạc đáo uề đình
Không cho hạc đậu tức mình hạc bay.
Việc sử dụng những đối tượng mang
đặc điểm chung, phổ quát (chúng loại)
làm cái biểu đạt nhiều hơn những đối
tượng thuộc tiểu loại là có lí do. Những
đối tượng thuộc chủng loại khi trỏ
thành biểu trưng, với những hình thức
phái sinh của nó, có khả năng tạo nhiều
nghĩa hơn những đối tượng thuộc tiểu
loại. Bởi vì đối tượng thuộc tiểu loại, với
những đặc điểm riêng biệt, sẽ giới hạn
phạm vi liên tưởng, so sánh, một bước
Đ]
quan trọng của quá trình biểu trưng
hóa nghệ thuật. Cho nên có thể nói
rằng, do khả năng tạo sự liên tưởng
rộng hơn nên giá trị sử dụng của cái
biểu đạt (là đối tượng thuộc chủng loại)
cao hơn.
3. Xu hướng sử dụng các cặp
biểu trưng
Tác giả cuốn Ca dao dân ca Nam
Bộ có xu hướng sử dụng các cặp biểu
trưng (sóng đôi, đối ứng). Có thể cho
rằng sự xuất hiện từng cặp các biểu
trưng phần nào phản ánh kiểu tư duy
lưỡng hợp. Kiểu tư duy này đã từng chi
phối nhận thức, lối suy nghĩ của người
Việt từ xa xưa. Một sự vật, hiện tượng,
một vấn để bao giờ cũng có hai yếu tố:
cái bên này và cái bên kia. Cho nên
trong vũ trụ có trời - đất, rồng - mây,
loan - phượng, thuyền - sông, trầu -
cău .: Ví dụ:
Trong thực tế, trầu là đây leo cau là
loại cây thân mộc. Khi ăn thì người ta
ăn lá trầu và trái cau. Trầu có vị cay
cau có vị chát. Hai vị nầy hòa quyện
vào nhau tạo nên một vị đặc trưng của
miếng trầu, cho nên trầu - cau từng
được tác giả ca dao dùng để biểu trưng
cho sự trọn vẹn:
Trầu uàng ăn uới cau sâu
Lấy chồng thua bạn mang sầu mà hư.
Ai từng mặc áo không bâu
Án cơm không đũa, ăn trầu không
cau ?
Từ góc nhìn của tư duy lưỡng hợp,
vũ trụ và con người (tiểu vũ trụ) đều
hình thành, phát triển, biến đổi với sự
vận động của hai yếu tố có quan hệ với
nhau. Bản thân con người cũng được
cấu thành bởi hai yếu tố này. Và một
cặp đôi nam nữ trong quan hệ yêu
52
TRẦN VĂN NAM
=——————_—————————————————_— ———————————— ˆ —————————E———————————————————————————————————
đương chính là một cặp lưỡng hợp. Do
vậy mà cặp loan - phượng: một con
trống, một con mái biểu trưng cho đôi
nam nữ, cho tình yêu:
Gà lạc bầy gà bêu chíu chít
Phụng lìa loan phụng lại biếng bay
Xa em từ mấy bữa rày
Cơm ăn không đăng áo gài hở bâu.
Lỗi căn duyên như đờn lôi nhịp
Biết bao giờ cho hiệp phụng loan
Ngày nay loan phụng lẻ bầy
Nam Vang kia xa xứ, khó gầy yến anh.
Thương em chưa cạn chung trà
Muốn gầy loan phụng, trời đà khiến xa
Lời thê bốn biển non ba
Mây giăng nước dợn, đôi ta đừng ỉia.
Trong bài ca dao sau đây, chỉ cần
hai hình ảnh "biển, sông" là đủ để biểu
trưng cho sự bền vững, cái không thay
đổi hay chí ít là rất khó thay đổi.
Nhưng tác giả dân gian lại dùng thêm
hai hình ảnh nữa: "núi, non". Như vậy
trong bài ca có biển - núi, sông - non.
Tư duy lưỡng hợp (hoặc lưỡng phân) là
tiền đề của triết lí âm dương: sông, biển
thuộc về âm, núi, non thuộc về dương:
Biển cạn sông cạn, lòng qua bhông cạn
Núi lở non mòn, ngỡi bạn bhông quên
Đường còn đi xuống ởi lên
Tình qua ngỡi bậu quyết nên uợ chồng.
Trời - đất là cặp âm dương tiêu biểu
trong văn hóa người Việt. Bát quái tiên
thiên, một mô hình về vũ trụ, có tám
quẻ thì bốn quẻ ở thế đối xứng về mặt
không gian: càn - khôn (Nam - Bắc), li
- khảm (Đông - Tây). Càn khôn tức là
trời đất, li khảm tức là lửa nước. Trong
đó càn, li thuộc dương, khôn khảm
thuộc âm. Khi bát quái hậu thiên xuất
hiện (mô hình hóa các hiện tượng xã
hội) thì càn khôn biểu trưng cho cha
mẹ. Như vậy trời đất là cha mẹ hiểu
theo nghĩa biểu trưng xuất phát từ bát
quái hậu thiên. Tuy nhiên, nghĩa này ít
được tác giả cuốn Ca dao đân ca Nam
Bộ sử dụng. Trời đất trong ca dao Nam
Bộ gắn với ý nghĩa trong bát quái tiên
thiên hơn. Do vậy, chúng thường biểu
trưng cho cái lớn lao. Và khi hòa nhập
với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên thì hai
hình ảnh này biểu trưng cho sự linh
thiêng. Vì lĩnh thiêng nên chúng chứng
giám cho những lời thể, cho lời nói chân
thực:
Mình có thương chặt tóc mình thê
Chỉ trời uạch đất chớ hề bỏ nhau.
4. Xu hướng dùng nhiều cái biểu
đạt để diễn tả một cái được biểu đạt
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy
nhiều biểu trưng mang cùng nét nghĩa
hoặc có ý nghĩa tương đồng. Nói cách
khác, nhiều cái biểu đạt dùng để chỉ
một cái được biểu đạt.
Ví dụ: Để chỉ đôi lứa gắn bó nhau,
tác giả dùng nhiều cặp hình ảnh như
sau:
Bồn - kiểng, bông - bướm, bướm -
hoa, bông cúc - bướm vàng, cá - nước,
cá - biển, chim đủ cặp, đũa bếp đủ đôi,
đũa bếp có đôi, đũa trong kho, đũa
vàng - mâm son, đũa vàng - mâm vàng,
khoá - chìa, kim - chỉ, loan - phụng,
nồi đồng - vung đồng, nút - khuy,
phụng - rồng, trầu - cau, trúc - mai,
vàng - ngọc, Kim Trọng - Thuý Kiểu,
Vân Tiên - Nguyệt Nga...
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng dù
cùng chỉ chung một cái được biểu đạt
nhưng trong từng cái biểu đạt vẫn chứa
những sắc thái riêng. Cùng là lứa đôi
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ĐÓ
“=5 X XX
gắn bó, nhưng các hình ảnh "bông -
bướm, bướm - hoa, bông cúc - bướm
vàng, hoa chanh - bướm trắng, hoa -
ong bướm ..." như toát lên sự đam mê
sắc hương, cho phép người đọc nghĩ tới
một thứ hạnh phúc trần tục trong quan
hệ lứa đôi:
Bông còn thơm con bướm còn đậu
còn đeo
Bông tàn nhụy rửa, con bướm đậu
cheo leo một mình.
Cũng thuộc nhóm hình ảnh này,
nhưng "hoa chanh - bướm trắng" lại là
một đôi quấn quít bên nhau của tình
yêu thuở ban đầu say đắm nhưng trong
sáng, thơ mộng như chưa vướng bụi
hồng trần:
Cây chanh lại nở hoa chanh
Để con bướm trắng bay quanh cả ngày.
Cũng là lứa đôi gắn bó, hình ảnh
"loan - phụng, phụng - rồng, vàng -
ngọc” lại gợi lên sự cao sang, quý phái,
"trúc - mai" như mang theo vẻ thanh
thoát, "trầu - cau" có cái gì đó cổ kính,
trầm lắng. Nhóm hình ảnh "khoá -
chìa, kim - chỉ, nút - khuy, nồi đồng -
vung đồng, đũa vàng - mâm son, đũa
vàng - mâm vàng ..." nhấn mạnh nét
tương hợp. sự xứng đôi. Nếu "khoá -
chìa, kim - chỉ, nút - khuy" là hình ảnh
của lứa đôi giản dị bình thường thì "nồi
đồng - vung đồng, đũa vàng - mâm son,
đũa vàng - mâm vàng, tô gấm - đũa
vàng" như có chút sang trọng hơn:
Em như nút anh như hhuy
Như Thuy Kiều - Kim Trọng biệt li
sao đành.
Chồng như anh, uợ đặng như nàng
Giả như tô gấm đũa uàng để bên.
Như vậy, trong thực tế tác giả dân
gian có lí do hết sức chính đáng để có
thể dùng nhiều cái biểu đạt cho một cái
được biểu đạt. Đó là, mỗi cái biểu đạt
đều là cái riêng trong quan hệ với cái
chung, đều vừa mang trong nó sắc thái
riêng độc đáo vừa chứa đựng những nét
nghĩa tương đồng với những cái biểu
đạt khác. Ngay như bài số (889) vừa
dẫn ở trên, tác giả sử dụng cùng lúc hai
cặp hình ảnh "nút - khuy" và "Thuý
Kiều - Kim Trọng". Hình ảnh hai nhân
vật trong Truyện Kiều ở đây có thể chỉ
được sử dụng để chỉ sự tương xứng về
tài sắc, là eơ sở của mối quan hệ lứa đôi
gắn bó. Dùng nhiều hình ảnh để diễn
đạt một nét nghĩa, có phải chăng điều
đó phản ánh một cách tư duy của tác
giả dân gian trong ca đao Nam Bộ. Một
hình ảnh biểu trưng nào đó trong một
bài ca có lẽ đã nhấn mạnh một khía
cạnh của vấn đề từ một góc nhìn mà
không thể chuyển tải hết tất cả những
nét tỉnh tế của cái được biểu đạt. Ở chỗ
này, cái biểu đạt khắc hoạ một nét của
đối tượng, ở chỗ kia cái biểu đạt khác
tiếp tục triển khai một đặc điểm, phẩm
chất nào đó... Cuối cùng, hệ thống các
biểu trưng bổ sung cho nhau diễn đạt
những đặc điểm hết sức phong phú, đa
đạng của từng đối tượng phản ánh và
rốt cục diễn đạt được đời sống tình cảm
vô cùng phong phú trong ca dao. Có
phải chăng, do khả năng phân tích vấn
đề chưa cao, tác giả ca dao không đi vào
phân tích tỉ mỉ đối tượng được phản
ánh bằng những luận lí chặt chẽ. Có
thể xem đây là sự thiếu hụt. Bù vào sự
thiếu hụt này, tác giả ca dao dùng
nhiều cái biểu đạt để vươn tới nhiệm vụ
phản ánh một cách trọn vẹn cái được
biểu đạt. Tạm gọi, đây là biểu hiện của
TRẦN VĂN NAM
=—————————————————_—— — ———————— ————————————————— “——————————————————————=————————=
lối tư duy hướng tới bù đắp các thiếu
hụt trong nhận thức về đối tượng.
Đặc điểm này cho phép rút ra
những kết luận có liên quan đến việc
phân tích ca dao. Phân tích ca dao là đi
vào tìm hiểu nhân vật trữ tình, tình
huống trữ tình, tâm trạng trữ tình. Mỗi
yếu tố vừa nêu trên cần được xem xét
qua hệ thống cái biểu đạt. Chẳng hạn,
cảnh nghèo khổ sẽ được tìm thấy trong
nhiều hình ảnh biểu trưng, được liệt kê
như sau:
Áo rách quần phèn, áo vá quàng, áo
vải mong manh, bèo trôi sông, chiếu
rách, có giường không chiếu, cơm thiu,
lo nồi mơi... thiếu nồi chiều, nhà đột cột
xiêu, nhà lá, nhà mo nang, nhà nhỏ,
nhà vách nát, nón rách.
Bảng liệt kê trên cho thấy, tác giả
cuốn Ca dưo dân ca Nam Bộ có xu
hướng dùng các vật thể nhân tạo để
biểu đạt cảnh nghèo. Điểm nổi bật
trong cách sử dụng là, nghĩa biểu trưng
của các sự vật hình thành trên cơ sở
tính chất, trạng thái của sự vật. Cụ thể
hơn, sự vật trong trạng thái xấu hoặc
nói như ngôn ngữ hiện đại là "xuống
cấp nghiêm trọng": áo rách quần phèn,
áo vá quàng, nón rách, chiếu rách, nhà
vách nát.
Cũng trong phần liệt kê trên, thì
"nhà, áo" có tần số xuất hiện cao. Nhà
là nơi ở, áo (cùng với quần, nón) là vật
che thân. Như vậy cái nghèo được thể
hiện qua trang phục và chỗ ở. Quan
niệm về nghèo, giàu như vậy có vẻ như
thiên về hình thức nhưng là cách nhìn
nhận thực tế:
Anh ơi, quần áo rách tả tơi mỗi nơi
một miếng
Đúứt chín đoạn lòng nghe một tiếng
anh than
Anh than nhà nhỏ nợ nhiều
Nồi mai thì có nổi chiều thì bhông.
Thật ra, người Việt rất col trọng cái
nhà, theo quan niệm "an cư lạc nghiệp”,
bởi vì có ở yên mới phát triển được nghề
nghiệp. Do vậy, cái nhà là tâm nguyện, là
mong ước cả đời người nên nó là biểu
hiện của tình trạng kinh tế một gia đình.
Áo quần là trang phục tức là vẻ bên
ngoài. Nhưng trong thực tế giao tiếp
khi chưa thực sự có điều kiện để có thể
hiểu biết, hiểu đúng một cá nhân thì
đành phải nhờ vào hình thức vậy:
"Quen sợ dạ, lạ sợ áo". Bởi vì trong cuộc
sống người ta đã quan niệm:
Hơn nhau tấm áo manh quần
Cởi ra mình trần ai cũng như di.
Tuy nhiên, yếu tế hình thức thường
không có ý nghĩa quyết định trong
trường hợp phải lựa chọn giữa hình
thức và nội dung:
Phải duyên áo rách cũng mang
Trái duyên cái áo nút uùng chẳng ham.
Trỏ lại mạch chính của vấn đề,
cảnh nghèo còn được biểu đạt bằng các
hình ảnh: "chiếu rách, có giường không
chiếu, cơm thiu, lo nồi mơi... thiếu nồi
chiều". Như vậy cái nghèo còn được
nhìn nhận qua góc độ của cái ăn, cái
ngủ. Ăn thiếu hoặc ăn không ngon, ngủ
không đủ ấm (chiếu rách, không chiếu)
là cảnh sống của người nghèo. Nghèo ở
đây là xét theo tiêu chí của người nông
dân Nam Bộ trong ca dao chứ thật ra
đó là cảnh sống của người đói (theo
quan niệm, chủ trương "xóa đói giảm
ˆ "
nghèo" của chúng ta ngày nay):
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Nghèo đến nôi có giường không chiếu
Lo nồi mới sớm lại thiếu nồi chiều.
Đến đây có thể sơ kết về vấn đề
"cảnh nghèo" qua hình ảnh biểu trưng
trong ca dao Nam Bộ. Tác giả đã tập
hợp một hệ thống cái biểu đạt dù không
nhiều (nếu so với tổng thể những cái
biểu đạt) để diễn đạt cái nghèo. Cái
nghèo được xem xét qua các tiêu chí:
điều kiện ở (kể cả ngủ), ăn, mặc. Các
yếu tố này ở mức độ thấp tức là nghèo.
Nếu giàu thường đi liền với sang thì
nghèo để lại hậu quả là hèn. Tác giả
cuốn Ca dao dân ca Nam Bộ cũng đã
biểu đạt cái hèn của người nghèo qua
hình ảnh "bèo trôi sông”:
Thiếp than cha mẹ thiếp nghèo
Thiếp than phận thiếp như bèo trôi
SÔNG.
Đến đây thì cái nghèo, cảnh nghèo
trong ca đao Nam Bộ như được phơi bày
một cách trọn vẹn nhờ vào sự "cộng
hưởng" năng lực biểu đạt của các biểu
trưng thông qua việc sử dụng nhiều cái
biểu đạt cho một cái được biểu đạt.
5. Xu hướng lựa chọn cơ sở biểu
trưng
Nghĩa biểu trưng của các nhóm
hình ảnh hình thành dựa trên các
phạm trù sau đây:
Từ tín ngưỡng dân gian, từ hình
dáng, kích thước của sự vật, hiện tượng,
từ phạm trù khoảng cách, từ tính chất,
trạng thái của sự vật, hiện tượng, từ
phạm trù di chuyển. thay đổi...
Có thể nói rằng, phạm trù tính chất
(phẩm chất, nhân cách) được ưu tiên
lựa chọn trong quá trình liên tưởng, đối
chiếu giữa cái biểu đạt và cái được biểu
DĐ
đạt của tác giả ea dao Nam Bộ. Ở bất kì
nhóm hình ảnh nào, phạm trù này cũng
có mặt để làm cơ sở hình thành nghĩa
biểu trưng. Điều này cho thấy, trong tư
duy của tác giả, phẩm chất của đối
tượng là cái luôn luôn được quan tâm:
Nói chỉ cao cách hhó nghe
Ngọc uàng bhó biếm, củi tre thiếu gì.
Thân em như thể xuyến uàng
Thân anh như múnh chiếu rách, bạn
hàng bỏ quên
May trời xuôi gió thổi lên
Cho manh chiếu rách nằm trên xuyến
Uòng.
Phạm trù tín ngưỡng, phong tục
cũng là cơ sở tạo nghĩa biểu trưng của
những hình ảnh thuộc thế giới tự nhiên
(hiện tượng, vật thể tự nhiên, các loài
thực vật, các loài động vật). Như vậy,
quá trình biểu trưng hóa nghệ thuật
trong ca đao đã chịu tác động trực tiếp
của những yếu tố văn hóa tỉnh thần.
Điều này càng rõ ràng hơn đối với các
biểu trưng có nguồn gốc điển tích. Có
thể nói, một bộ phận biểu trưng trong
ca đao Nam Bộ không đơn thuần là
biểu trưng nghệ thuật mà còn là biểu
trưng văn hóa:
Anh thương em thấy mặt thương
đành
Hay là ông Tơ bà Nguyệt để dành cho
anh.
Phạm trù đặc điểm sinh tồn, thói
quen được dùng làm cơ sở tạo nghĩa
biểu trưng của các hình ảnh thuộc thế
giới động vật và thực vật. Ỏ đây, vấn đề
sự sống và sống như thế nào của thế
giới tự nhiên cũng đã thu hút được sự
chú ý của tác giả ca dao Nam Bộ:
Em có chồng như cá ở ao
Anh uô không đặng biết bao nhiêu sầu.
Phạm trù chất liệu, phạm trù giá
trị sử dụng được dùng làm cơ sở tạo
nghĩa biểu trưng của các hình ảnh
thuộc tất cä các nhóm của thế giới vật
thể nhân tạo. Đối với một vật thể nhân
tạo, chất liệu là eơ sở của sự tồn tại, giá
trị sử dụng quyết định ý nghĩa của sự
tồn tại đó, và xét cho cùng, quyết định
sự tồn tại. Rốt cuộc, vấn đề "sức sống"
của những sản phẩm do con người làm
ra là vấn đề luôn được quan tâm:
Nhà anh nhà ngói
Nhà em nhà lá
Em đâu dám gú uợ chồng
Nồi đất mà đậy uung đồng di coi
Nàng nót mà hhông nghĩ lại coi
Bình sành mà người ta còn dùng
nắp thiếc
Sao nàng bhông xét không soi cho
tôi nhờ.
Tới đây có thể kết luận, có phải
chăng tác giả ca dao Nam Bộ, thông
qua các biểu trưng, đặc biệt quan tâm
và quan tâm trên một diện rộng đến
phẩm chất và sức sống của ngoại giới,
bao gồm cả thế giới tự nhiên lẫn thế
giới vật thể nhân tạo. _
T.V.N
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo Định Giang, Nguyễn Tấn Phát,
Trần Tấn Vĩnh, Bùi Mạnh Nhị (1984), Ca
dao dân ca Nam Bộ, Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh.
2 Hoàng Trinh (1992), Tư hí hiệu học
đến thi pháp học, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, Hà Nội.
TRẦN VĂN NAM