intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên hai mươi ba: TUYÊN MINH NGŨ KHI

Chia sẻ: Abcdef_44 Abcdef_44 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

75
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo tài liệu 'y học cổ truyền kinh điển - sách tố vấn: thiên hai mươi ba: tuyên minh ngũ khi', y tế - sức khoẻ, y dược phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Y học cổ truyền kinh điển - sách Tố Vấn: Thiên hai mươi ba: TUYÊN MINH NGŨ KHI

  1. Thiên hai mươi ba: TUYÊN MINH NGŨ KHI Sự dẫn vào các tàng c ủa năm vị: Toan vào Can, Tân vào Phế, Khổ vào Tâm, Hàm vào Thận, Cam vào Tỳ [1]. Năm khí gây nên bệnh: Tâm phát ra chứng nấc, Phế phát ra chứng khái: Can phát ra chứng nóä, muốn nóùi luôn. Tỳ phát ra chứng miệng thường phải nuốt nước miếng, Thận phát ra chứng hay v ươn vai và hắt hơi. Vị phát ra chứng khí nghịch, chứng ọe (ợ) và chứng khủng (sợ), Đại trường, Tiểu trướng phát ra chứng tiết (tả). Hạ tiêu ràn thành chứng thủy, Bàng quang không lợi thành chứng long (tiểu tiện vít, đau) hoặc bất c ước (tức tiểu tiện bất cấm), và di niệu (xón đái), Đởm phát ra chứng Nóä. Đó là năm bệnh của 5 Tàng, hợp với khí của năm hành [2]. Tinh của năm tàng cùng dồn lại, sẽ phát các chứng: Tinh khí dồn l ên Tâm thời thành chứng hay hỷ, dồn lên Phế thời thành chứng hay bị, dồn lên Tỳ thời thành chứng hay Uùy, dồn xuống Thận thời thành chứng hay khủng Năm chứng “dồn” đó, bởi vì hư mới có thể dồn [3]. Năm sự chết của năm Tàng: Tâm ghét nhiệt. Phế ghét hàn, Can ghét phong, Tỳ ghét thấp, Thận ghét táo [4].
  2. Năm Tàng hóa ra các chất lỏng: Tâm hóa ra hãn: Phế hóa ra thế (nước mũi), Can hóa ra lệ (nước mắt) Tỳ hóa diên (nước dãi). Thận hóa ra thóa (nước miếng) [5]. Sự cấm kỵ của năm Vị, vị Tân dẫn vào khí, khi m ắc bệnh không nên ăn nhiều vị tân, vị hàm dẫn vào huyết, huyết mắc bệnh không nên ăn nhiều vị hàm, vị khổ dẫn vào xương, xương mắc bệnh không nên ăn nhiều vị cam, vị toan dẫn vào Cân, cân mắc bệnh không nên ăn nhiều vị toan [6]. Các chứng bệnh phát ra ở 5 tàng: Thận âm mắc bệnh phát ra ở cốt, Tâm d ương mắc bệnh phát ra ở huyết, Tỳ âm mắc bệnh, phát ra ở nhục, Can d ương mắc bệnh phát về mùa Đông, Phế âm mắc bệnh phát về m ùa Hạ [7]. Năm sự rối loạn phát sinh bởi tà khí: Tà lấn vào Dương thời phát bệnh cuồng, tà lấn vào âm thời phát bệnh Tý, dương khí dồn lên thời phát chứng đau ở đầu, âm khí dồn lên thành chứng không nóùi được. Tà ở dương phận lấn vào âm thời bệnh nhân yên tĩnh, tà ở âm phận lấn vào dương thời bệnh nhân hay nóä [8]. Năm tà khí hiện ra mạch: Mùa Xuân hiện mạch của m ùa Thu, mùa Hạ hiện mạch của mùa Đông, mùa Trường hạ hiện mạch của mùa Xuân, mùa Thu hiện
  3. mạch của mùa Hạ, mùa Đông hiện mạch của mùa Trường hạ... Đó gọi là từ âm phận hiện ra dương phận đều là tà khí thắng, khó chữa [9]. Các thừ “tàng” của năm Tàng, Tâm tàng thần, phế tàng phách, Can tàng hồn, Tỳ tàng ý, Thận tàng Chí [10]. Các thứ sở chủ do năm Tàng: Tâm chủ về mạch Phế chủ về bà (da), Can chủ về Cân, Tỳ chủ về nhục, Thận chủ về cốt [11]. Năm sự thái quá (lao, nhọc) làm thương đến năm Tàng. Trong lâu làm thương đến huyết, nằm lâu làm thương đến khí, ngồi lâu l àm thương đến nhục, đứng lâu làm thương đến cốt, đi lâu làm thương đến Cân [12]. Năm mạch tương ứng với bốn mùa: mạch của Can Huyền, mạch của Tâm Câu, mạch của Phế Mao, mạch của Tỳ Đại, mạch của Thận Thạch [13].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2