intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Yêu cầu đặt ra đối với giảng viên toán ở các trường đại học sư phạm trong đổi mới chương trình giáo dục phổ thông

Chia sẻ: ViRyucha2711 ViRyucha2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

49
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết bàn về một số yêu cầu của giảng viên Toán ở các trường đại học sư phạm trong chương trình giáo dục mới và một số giải pháp nhằm bồi dưỡng giảng viên sư phạm Toán đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông môn Toán mới (dự kiến áp dụng từ năm học 2019 -2020).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Yêu cầu đặt ra đối với giảng viên toán ở các trường đại học sư phạm trong đổi mới chương trình giáo dục phổ thông

YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI GIẢNG VIÊN TOÁN<br /> Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRONG<br /> ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG<br /> Phạm Nguyễn Hồng Ngự1<br /> Tóm tắt: Mục tiêu của nội dung giáo dục môn Toán trong trương trình giáo dục<br /> phổ thông mới đã thay đổi; từ việc đào tạo chú trọng “nội dung” sang đào tạo chú<br /> trọng năng lực. Sản phẩm của giáo dục Toán ở phổ thông là những học sinh có năng<br /> lực Toán học và biết vận dụng kiến thức Toán học vào thực tiễn. Vì vậy giảng viên<br /> Toán ở các trường đại học sư phạm - người đào tạo thế hệ Thầy cô giáo dạy Toán phổ<br /> thông trong tương lai cũng phải thay đổi. Bài viết bàn về một số yêu cầu của giảng<br /> viên Toán ở các trường đại học sư phạm trong chương trình giáo dục mới và một số<br /> giải pháp nhằm bồi dưỡng giảng viên sư phạm Toán đáp ứng chương trình giáo dục<br /> phổ thông môn Toán mới (dự kiến áp dụng từ năm học 2019 -2020).<br /> Từ khóa: chương trình giáo dục phổ thông môn Toán mới, giảng viên sư phạm<br /> Toán.<br /> A. Đặt vấn đề<br /> Toán học là môn khoa học tự nhiên có nguồn gốc từ thực tế, thông qua lao<br /> động sản xuất mà con người xuất hiện nhu cầu giải quyết các vấn đề gặp phải và từ<br /> đó hình thành nên các khái niệm, công thức toán học. Khi Toán học phát triển lại<br /> quay trở lại giải quyết những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Quá trình này được<br /> vận hành mãi và tuân thủ theo quy luật vận hành của thực tiễn xã hội.<br /> Chính vì tầm quan trọng của Toán học mà từ xưa đến nay, Toán học luôn là môn<br /> học bắt buộc ở chương trình phổ thông từ tiểu học, trung học cơ sở đến trung học phổ<br /> thông (THPT). Chương trình giáo dục phổ thông mới tiếp tục khẳng định vai trò của<br /> môn Toán khi xem Toán là một trong những môn bắt buộc được dạy ở tất cả các lớp<br /> với thời lượng cao (lớp 10: 105 tiết, lớp 11: 140 tiết, lớp 12: 140 tiết). [2]<br /> Trường đại học sư phạm là cơ sở có nhiệm vụ chính là đào tạo giáo viên đủ<br /> nhân cách, đủ tri thức đáp ứng yêu cầu của chương trình đổi mới giáo dục. Có quan<br /> tâm đến chất lượng giảng viên ở các trường sư phạm thì mới hy vọng đào tạo nên<br /> những người giáo viên đầy đủ phẩm chất, năng lực trong tương lai.<br /> <br /> 1<br /> <br /> . ThS. Khoa Toán, trường Đại học Quảng Nam<br /> <br /> 1<br /> <br /> PHẠM NGUyễN HồNG NGỰ<br /> <br /> Đào tạo và bồi dưỡng năng lực cho giáo viên là vấn đề đã và đang được các nhà<br /> nghiên cứu trong nước và trên thế giới quan tâm, xem [1], [3], [4], [5], [6], [10], …Đặc<br /> biệt trong [3], Bùi Minh Đức đã đưa ra khung phẩm chất và năng lực nghề nghiệp của<br /> giảng viên ĐHSP nói chung gồm 9 tiêu chuẩn (01 tiêu chuẩn về phẩm chất và 08 tiêu<br /> chuẩn về năng lực), 21 tiêu chí và 79 các chỉ báo, chỉ số hành vi.<br /> Trong báo cáo này, chúng tôi nêu lên những yêu cầu đặt ra đối với giảng viên sư<br /> phạm Toán trong chương trình giáo dục phổ thông mới, và một số giải pháp trong việc<br /> bồi dưỡng giảng viên sư phạm Toán.<br /> B. Nội dung<br /> 1 . Nhiệm vụ của môn Toán trong chương trình giáo dục phổ thông mới<br /> Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể được Bộ giáo dục và đào tạo ban hành<br /> tháng 8 năm 2017, với mục tiêu đào tạo học sinh phát triển hài hòa về thể chất và tinh<br /> thần, trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập<br /> suốt đời; có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công<br /> dân có trách nhiệm, người lao động có văn hóa, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát<br /> triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại<br /> toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp mới. [2] Trong đó, quan niệm “năng lực” là<br /> thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập,<br /> rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc<br /> tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,… thực hiện thành công một loại hoạt<br /> động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.<br /> Ở bậc THPT, nhiệm vụ của giáo dục là giúp học sinh tiếp tục phát triển những<br /> phẩm chất, năng lực của người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự<br /> học.<br /> Giáo dục Toán học đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phát triển cho<br /> học sinh những năng lực chung và năng lực Toán học với các thành tố cốt lõi là: năng<br /> lực tư duy và lập luận toán học, năng lực mô hình hóa toán học, năng lực giải quyết<br /> vấn đề toán học, năng lực giao tiếp toán học, năng lực sử dụng các công cụ và phương<br /> tiện học toán. Đồng thời phát triển kiến thức, kỹ năng then chốt và tạo cơ hội để học<br /> sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn, tạo dựng sự kết nối<br /> giữa các ý tưởng toán học, giữa toán học với các môn học khác và giữa toán học với<br /> đời sống thực tiễn.[2]<br /> Như vậy, chương trình giáo dục phổ thông mới chú trọng vào việc kết nối toán<br /> học với thực tiễn, chúng ta không đào tạo những học sinh giỏi toán thuần túy mà đào<br /> tạo một học sinh biết vận dụng những kiến thức toán đã học vào thực hành, phục vụ<br /> chính cho nhu cầu của bản thân học sinh đó trong thực tiễn cuộc sống hằng ngày. Đây<br /> là xu hướng giáo dục chung mà các quốc gia tiên tiến trên thế giới như Úc, Singapore,<br /> 2<br /> <br /> PHẠM NGUyễN HồNG NGỰ<br /> <br /> Hà Lan, Nhật,… [9] đã và đang tiến hành. Một học sinh sau khi học xong chương<br /> trình giáo dục phổ thông mới sẽ có các năng lực cơ bản về Toán học như sau:<br /> Năng lực mô hình hóa Toán học: Là khả năng học sinh vận dụng tri thức toán<br /> học vào đời sống thực tiễn, kết nối được những tình huống diễn ra trong cuộc sống<br /> hằng ngày với tri thức toán học, biểu diễn tình huống thực tiễn bằng một mô hình toán<br /> học gắn với tri thức toán học đã biết nào đó.<br /> Năng lực giải quyết vấn đề: Là khả năng học sinh vận dụng hiểu biết Toán của<br /> mình, giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc sống như mua bán, trao đổi hàng<br /> hóa, hay khả năng học sinh vận dụng kiến thức toán học của mình giải quyết những<br /> vấn đề mà một bài toán đặt ra trong từng bước giải.<br /> Năng lực tư duy và lập luận Toán học: Là khả năng suy nghĩ, so sánh, phân<br /> tích, tổng hợp, trừu tượng, khái quát hay đặc biệt hóa các khái niệm, tính chất toán<br /> học; Sử dụng khả năng suy luận, lập luận của mình để tìm kiếm thuật giải, lời giải, hay<br /> tìm kiếm những quy luật toán học vận hành trong cuộc sống.<br /> Năng lực giao tiếp: Là khả năng học sinh trình bày những hiểu biết toán học<br /> hay hiểu biết cuộc sống của mình với người khác, trình bày, thuyết phục những người<br /> khác công nhận những kết quả, ý kiến của mình, lắng nghe và ghi nhận những hiểu<br /> biết Toán học của người khác.<br /> Năng lực sử dụng phương tiện, công cụ Toán học: Là khả năng lựa chọn những<br /> công cụ Toán học phù hợp với vấn đề thực tiễn hay toán học mà mình đang gặp phải,<br /> vận dụng linh hoạt, sáng tạo những phương tiện này trong quá trình giải toán hay áp<br /> dụng toán vào thực tiễn.<br /> Đây là nhiệm vụ nặng nề, xuyên suốt trong chương trình giáo dục phổ thông, ở<br /> tất cả các cấp học. Giáo viên Toán ở phổ thông - người thực hiện nhiệm vụ này, vì vậy<br /> mà cũng phải được yêu cầu cao về năng lực nghề nghiệp.<br /> 2. Vai trò và yêu cầu của giảng viên sư phạm Toán trong sự nghiệp đổi mới<br /> giáo dục<br /> Giảng viên sư phạm Toán là người đào tạo ra những giáo viên dạy toán trong<br /> tương lai; là thành phần nòng cốt trong việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giáo<br /> viên ở phổ thông, là người kết nối giữa chương trình phổ thông và người thực hiện<br /> chương trình phổ thông.<br /> Chúng ta không thể đòi hỏi một giáo viên Toán ở trường THPT trong tương lai<br /> hình thành và bồi dưỡng những năng lực Toán học nói trên cho học sinh của họ khi<br /> mà họ không có đủ các biểu hiện của năng lực Toán học. Vì vậy, người giảng viên sư<br /> phạm Toán, không những phải có đầy đủ các năng lực toán học mà còn có năng lực<br /> <br /> 3<br /> <br /> PHẠM NGUyễN HồNG NGỰ<br /> <br /> giảng dạy, truyền đạt hình thành cho sinh viên của mình phương pháp, cách thức tổ<br /> chức hoạt động dạy theo hướng tiếp cận năng lực.<br /> Mối quan hệ giữa năng lực nghề nghiệp của giảng viên sư phạm với năng lực<br /> của giảng viên phổ thông và năng lực toán học của học sinh phổ thông có thể được sơ<br /> đồ như sau:<br /> <br /> Nhiều xu thế giáo dục mới đã và đang được nghiên cứu trên thế giới cũng đã<br /> khẳng định rằng để đào tạo học sinh phổ thông đạt được các năng lực Toán học nêu<br /> trên thì phải có những người Thầy hiểu biết và có năng lực Toán học như thế. Dựa trên<br /> các nghiên cứu [1], [3], [4], [5], [6],… theo chúng tôi người giảng viên sư phạm Toán<br /> cần thỏa mãn các yêu cầu mà giáo dục đặt ra như sau:<br /> Trước hết phải có đạo đức, nhân cách, có cách hiểu, cách nhìn nhận đúng về sự<br /> cấp thiết của đổi mới giáo dục ở phổ thông hiện nay và ở cả trong chương trình đào<br /> tạo sinh viên sư phạm Toán. Chúng ta phải nhìn thấy được mục tiêu môn Toán hướng<br /> tới là chú trọng kết nối giữa kiến thức toán học với các môn học khác và với cuộc sống<br /> để thay đổi cách hiểu đối với những môn Toán mà mình được đảm nhiệm ở bậc đại<br /> học.<br /> Thứ hai là phải đảm bảo về chuyên môn, trình độ tri thức phù hợp. Mỗi giảng<br /> viên phải là người có khả năng truyền đạt chính xác các tri thức toán học đến sinh viên,<br /> theo hướng vận dụng tri thức Toán học vào thực tiễn và các vấn đề xã hội. Nếu chúng<br /> ta chỉ có các tri thức Toán học hàn lâm như trước đây, thì sẽ bỏ qua sự kết nối giữa<br /> toán học với thực tiễn, sẽ không bồi dưỡng được cho sinh viên những năng lực cấp<br /> thiết như năng lực mô hình hóa, năng lực giải quyết vấn đề.<br /> Thứ ba là có phương pháp giảng dạy phù hợp; chuyển đổi từ lối dạy học truyền<br /> thống, thụ động sang phương pháp dạy học tích cực, kiến tạo. Giảng viên phải đóng<br /> vai là giáo viên phổ thông, xem sinh viên như là các học sinh ở bậc phổ thông để tổ<br /> chức tiết dạy phù hợp. Thông qua những tiết học như thế, sinh viên sẽ hiểu được vai<br /> trò của người thầy, hiểu được công việc mình được đảm nhiệm trong tương lai, và việc<br /> dạy học sau này là sự tái hiện có sáng tạo các tri thức đã được học.<br /> Thứ tư là giảng viên sư phạm Toán cần có năng lực thích ứng [1]. Xã hội thay<br /> đổi không ngừng, vì vậy giáo dục cũng phải thay đổi để phù hợp với những yêu cầu<br /> 4<br /> <br /> PHẠM NGUyễN HồNG NGỰ<br /> <br /> của xã hội. Nếu giảng viên sư phạm không thích ứng với những thay đổi đó để thay<br /> đổi mình, vận hành tư duy theo lối tư duy mới sẽ bị cô lập, bị tụt hậu và không đào tạo<br /> được thế hệ giáo viên mới đáp ứng yêu cầu của xã hội.<br /> Thứ năm là có khả năng tự bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, kỹ<br /> năng sử dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ trong giao tiếp. Với xu hướng hội nhập<br /> như hiện nay, người giáo viên cần có kỹ năng mềm để khai thác được nguồn tư liệu<br /> quý báu từ các cơ sở giáo dục đào tạo trong và ngoài nước, trên mạng truyền thông,...<br /> Đồng thời trong quá trình giảng dạy, sẽ gặp những bài toán thực tiễn được mô hình<br /> hóa thành những bài toán với các công thức phức tạp, cồng kềnh; việc sử dụng các hỗ<br /> trợ từ công nghệ sẽ rất hữu ích cho sinh viên - người giáo viên sau này. Từ đó hình<br /> thành cho sinh viên năng lực giao tiếp, năng lực tư duy sáng tạo, hay năng lực sử dụng<br /> công cụ, phương tiện toán học.<br /> 3. Một số giải pháp nhằm bồi dưỡng giảng viên sư phạm Toán theo xu<br /> hướng giáo dục mới<br /> Hiện nay, các giảng viên sư phạm Toán vẫn chưa coi trọng sự đổi mới chương<br /> trình giáo dục ở phổ thông, xem đó là việc của Bộ giáo dục và Sở giáo dục, các trường<br /> phổ thông, hoặc cho rằng đổi mới giáo dục là việc của các giảng viên thuộc tổ phương<br /> pháp giảng dạy, không liên quan gì đến các giảng viên ở bộ môn khoa học cơ bản. Hơn<br /> nữa, chương trình đào tạo sinh viên sư phạm Toán hiện nay chủ yếu là đào tạo các môn<br /> khoa học cơ bản; sinh viên chỉ học một số môn liên quan đến việc giảng dạy ở năm 3<br /> - 4 (chiếm tối đa 1/3 tổng số thời lượng giảng dạy ở bậc đại học) và chỉ có thời gian 23 tháng được trải nghiệm làm giáo viên phổ thông ở đợt kiến tập và thực tập. Vì vậy<br /> sẽ rất khó cho sinh viên nếu ngay khi ra trường trực tiếp tham gia vào chương trình<br /> giảng dạy theo đổi mới giáo dục.<br /> Muốn đào tạo người Thầy cho công cuộc đổi mới giáo dục thì người giảng viên<br /> sư phạm cần phải được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng các năng lực cần thiết, phù hợp. [3]<br /> [4]<br /> Bồi dưỡng nâng cao năng lực cho giảng viên các trường đại học sư phạm Toán<br /> là việc làm cần thiết, thường xuyên. Để bồi dưỡng giảng viên sư phạm Toán theo<br /> hướng đáp ứng được nhu cầu của chương trình giáo dục mới, cần sự đồng lòng hỗ trợ<br /> của toàn xã hội.<br /> Trong quá trình nghiên cứu, trăn trở với sự đổi thay của giáo dục trong thời đại<br /> mới, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm bồi dưỡng năng lực cho giảng viên sư<br /> phạm Toán như sau: (Tất nhiên, đây mới chỉ là những ý kiến đề xuất theo quan điểm<br /> của chúng tôi; những giải pháp này cần được thực nghiệm sư phạm trong thời gian tới<br /> để đạt được mục tiêu nghiên cứu).<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
50=>2