Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2013<br />
<br />
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC<br />
<br />
YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI NĂNG SUẤT NGHỀ NUÔI CÁ LỒNG BÈ<br />
TẠI VÙNG BIỂN NAM DU, TỈNH KIÊN GIANG<br />
FACTORS AFFECT THE PRODUCTIVITY OF CAGE FISH FARMING<br />
IN THE NAM DU COASTAL, KIEN GIANG PROVINCE<br />
Ong Nhất Oanh1, Phạm Hồng Mạnh2<br />
Ngày nhận bài: 24/10/2012; Ngày phản biện thông qua: 20/12/2012; Ngày duyệt đăng: 15/5/2013<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bài viết này nhằm phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, tỉnh<br />
Kiên Giang thông qua việc sử dụng hàm sản xuất Cobb - Douglas để xây dựng mô hình nhằm lượng hóa mức độ ảnh hưởng<br />
của các yếu tố nghiên cứu tới năng suất nuôi của các hộ nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du. Kết quả phân tích cho thấy<br />
mật độ thả giống, chi phí thức ăn, chi phí lao động, tỉ lệ sống, khoảng cách đặt lồng nuôi, kinh nghiệm và rủi ro là những<br />
yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nuôi của hộ, có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, 5% và 10%. Trong khi đó, thời gian nuôi, vốn<br />
đầu tư, tập huấn, đối tượng nuôi và tiếp cận tín dụng không ảnh hưởng tới năng suất nuôi.<br />
Từ khóa: hiệu quả nghề nuôi, nghề nuôi cá biển, hàm sản xuất<br />
<br />
ABSTRACT<br />
This study aims to analyze the factors affecting productivity fish farming in sea cages Nam Du, Kien Giang through<br />
the use of production function Cobb-Douglas to build a model to quantify the impact of these factors to study yield of cage<br />
fish farmers in the Nam Du. Analysis results showed that stocking density, feed costs, labor costs, survival rate, distance<br />
put cages, experiences and risk factors significantly affect the yield of the household and statistical significance at 1%, 5%<br />
and 10%. Meanwhile, the culture period, investment capital, training, objects and access to credit does not significantly<br />
affect the yield. On this basis, the study also proposes a number of policies and measures to improve the efficiency of fish<br />
farming cages in Nam Du, Kien Giang.<br />
Keywords: efficient farming, fish farming, production function<br />
<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Kiên Giang là tỉnh, thuộc vùng đồng bằng sông<br />
Cửu Long với bờ biển dài trên 200 km, Kiên Giang<br />
có tiềm năng rất phong phú để phát triển kinh tế<br />
biển, trong đó vùng ven bờ có độ sâu 20 - 50m và có<br />
hơn 100 đảo lớn nhỏ là tỉnh có nhiều tiềm năng phát<br />
triển kinh tế biển tại Đồng bằng Sông Cửu Long [8].<br />
Nghề nuôi cá lồng bè trên biển ở Kiên Giang<br />
gần đây phát triển nhanh, đặc biệt là ở đảo Hòn<br />
Mấu, Hòn Ngang (xã Nam Du), Hòn Củ Tron (xã<br />
An Sơn), Hòn Tre (xã Hòn Tre) huyện Kiên Hải;<br />
quần đảo Hải Tặc thuộc xã Tiên Hải, thị xã Hà Tiên<br />
hay quần đảo Bà Lụa, thuộc xã Sơn Hải, huyện<br />
<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
Kiên Lương... Theo Chi cục Nuôi trồng thủy sản<br />
Kiên Giang [2] trong năm 2005, toàn tỉnh chỉ có<br />
131 lồng bè trên biển nuôi cá mú, cá bớp, với sản<br />
lượng khoảng 90 tấn/năm, thì đến năm 2008, số<br />
lồng bè nuôi cá đã tăng lên 546 lồng, với sản lượng<br />
693 tấn/năm và hiện nay lên đến 925 lồng, sản lượng<br />
hơn 1.200 tấn/năm. Chỉ tính trong 5 năm (2005 - 2009),<br />
số lồng bè nuôi cá trên biển ở Kiên Giang đã tăng<br />
hơn 7 lần và sản lượng thủy sản thu hoạch tăng hơn<br />
13,3 lần. Kết quả này chứng tỏ, nghề nuôi cá lồng<br />
bè trên biển đang phát triển đúng hướng [2].<br />
Kiên Hải là một trong những huyện có hoạt<br />
động nuôi cá lồng bè trên biển phát triển mạnh của<br />
<br />
Ong Nhất Oanh: Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh Kiên Giang<br />
TS. Phạm Hồng Mạnh: Khoa Kinh Tế - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 135<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
tỉnh Kiên Giang [3]. Tuy nhiên, nuôi cá lồng bè ở<br />
khu vực này đã và đang gây ra nhiều vấn đề cho<br />
các hộ nuôi tại khu vực này, như: hoạt động nuôi<br />
còn mang tính tự phát, các yêu cầu về kỹ thuật nuôi<br />
chưa được thông tin đầy đủ, số lồng bè thủy sản<br />
tăng quá nhanh dẫn đến chất lượng nguồn nước<br />
suy giảm,... Điều này đã dẫn đến năng suất nuôi của<br />
các hộ tại khu vực này bị giảm sút [6]. Việc đánh giá<br />
năng suất nghề nuôi cũng như xác định các yếu tố<br />
ảnh hưởng tới năng suất của nghề nuôi cá lồng bè<br />
trên địa bàn là rất cần thiết nhằm xác định những<br />
vấn đề cần quan tâm nhằm cải thiện năng suất và<br />
hiệu quả nghề nuôi tại khu cực này góp phần thúc<br />
đẩy hoạt động nghề nuôi cá lồng bè phát triển ổn<br />
định và lâu dài.<br />
II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP<br />
NGHIÊN CỨU<br />
1. Cơ sở lý thuyết<br />
Nuôi trồng thuỷ sản là quá trình hoạt động liên<br />
quan đến các vấn đề sinh học. Quá trình sản xuất<br />
liên quan đến việc sử dụng các nguồn lợi ở nước,<br />
lao động, và quản lý để tạo ra các sản phẩm thuỷ<br />
sản đáp ứng cho nhu cầu của con người và xã hội.<br />
Trong quá trình sản xuất, các nhà khoa học [1], [4],<br />
[6], [7] thường quan tâm đến sản lượng khi các yếu<br />
tố đầu vào như thức ăn, con giống, quản lý chất<br />
lượng nước,… Trong khi đó, các nhà kinh tế quan<br />
tâm đến cả hai sản lượng và năng suất.<br />
Hàm số sản xuất là mối quan hệ kỹ thuật giữa<br />
các yếu tố đầu vào và sản phẩm làm ra tại một thời<br />
điểm nhất định với một công nghệ nhất định. Sản<br />
phẩm nuôi trồng thủy sản thường đa dạng và là kết<br />
quả của hàng loạt các yếu tố đầu vào. Chất lượng<br />
và năng suất của sản phẩm làm ra được quy định<br />
bởi việc sử dụng mỗi yếu tố đầu vào cũng như mối<br />
quan hệ tương tác giữa chúng. Hàm số sản xuất<br />
thủy sản được biểu diễn dưới dạng [3]:<br />
Y = f(X1, X2, X3, ..., Xn)<br />
Trong đó: Y - Sản lượng thủy sản<br />
X1 - Lượng thức ăn<br />
X2 - Kích cỡ thả<br />
X3 - Tỷ lệ sống<br />
X4 - Mật độ thả<br />
Xn - Các biến số liên quan đến tăng trưởng của cá<br />
2. Mô hình nghiên cứu<br />
Xuất phát từ cơ sở lý thuyết [3] và tổng quan<br />
các công trình nghiên cứu thực nghiệm liên quan<br />
[1], [4]. Mô hình nghiên cứu đề xuất được đề nghị<br />
như sau:<br />
Để thấy được sự ảnh hưởng của các nhân tố<br />
<br />
136 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Số 2/2013<br />
đến năng suất nuôi cá lồng bè, nghiên cứu đã sử<br />
dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas để ước lượng.<br />
Hàm sản xuất Cobb – Douglas có dạng:<br />
W = A. MATDOα1 .THOIGIα2 .TH_ANα3 .VON_DTα4<br />
.LADOα5 .TILSOα6 .KCAHα7 .KNGα8 TAPHUANα9<br />
.RUIROα10 .TDUNGα11 .DTGNUIα12<br />
Các biến trong mô hình bao gồm:<br />
Trong đó:<br />
W: năng suất cá lồng bè nuôi thương phẩm của<br />
hộ nuôi (triệu đồng/m3 lồng nuôi)<br />
Mật độ thả giống (MATDO): Mật độ thả giống<br />
của hộ nuôi (con/m3). Mật độ thả giống là số lượng<br />
giống hoặc trọng lượng giống được thả trên một<br />
đơn vị diện tích mặt nước hay lồng bè nuôi. Để xác<br />
định mật độ thả thích hợp cho diện tích nuôi hay<br />
lồng nuôi và từng phương thức nuôi, các yếu tố<br />
cần quan tâm là diện tích mặt nước, nguồn thức<br />
ăn, năng lực của người nuôi… Nhiều thí nghiệm<br />
trên thế giới đã kết luận rằng năng suất nuôi tỷ lệ<br />
thuận với mật độ giống thả, tới một điểm cực đại thì<br />
năng suất bắt đầu giảm [9]. Vì vậy, với các yếu tố và<br />
nguồn lực sẵn có của người nuôi thì nhân tố này sẽ<br />
có một mối quan hệ dương (+) với năng suất nghề<br />
nuôi cá lồng bè.<br />
Thời gian nuôi (THOIGI): Thời gian nuôi/vụ<br />
của hộ nuôi tính bằng tháng. Vì chu kỳ sinh trưởng<br />
của cá tương đối dài và do nhu cầu của thị trường<br />
về trọng lượng cá thu hoạch phải đạt từ 0,8 kg<br />
trở lên, do vậy, đối với cá mú và cá bóp phải đạt<br />
từ 7kg trở lên nên để đảm bảo cá thu hoạch đạt<br />
được trọng lượng theo yêu cầu nên các hộ nuôi<br />
phải nuôi với thời gian từ 10 tháng đến 12 tháng.<br />
Việc nuôi đạt thời gian nói trên hoặc dài hơn<br />
không những đáp ứng được nhu cầu thị trường<br />
mà còn tăng sản lượng, tăng năng suất trên cùng<br />
một diện tích. Vì vậy, nghiên cứu kỳ vọng rằng<br />
tăng thời gian nuôi/vụ sẽ làm tăng thêm năng suất<br />
nuôi của hộ.<br />
Chi phí thức ăn (TH_AN): Là biến thể hiện chi<br />
phí thức ăn/vụ nuôi, tính bằng triệu đồng/m3 lồng<br />
nuôi. Thức ăn là nhân tố không kém phần quan<br />
trọng trong hoạt động nuôi. Thức ăn cá tạp tươi<br />
hay thức ăn công nghiệp có chất lượng sẽ thúc đẩy<br />
nhanh quá trình tăng trưởng, phát triển của cá giúp<br />
cho người nuôi rút ngắn thời gian nuôi, giảm chi<br />
phí. Do vậy nghiên cứu kỳ vọng rằng biến này sẽ có<br />
quan hệ đồng biến với sản lượng nuôi.<br />
Vốn đầu tư (VON_DT): Là lượng vốn mà hộ<br />
nuôi bỏ ra để đầu tư cho hoạt động nuôi, tính bằng<br />
triệu đồng/m3 lồng nuôi. Vốn là một yếu tố được trực<br />
tiếp sử dụng vào quá trình sản xuất; việc đầu tư bài<br />
bản, đúng, đủ nguồn thức ăn, bảo dưỡng lồng bè<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
định kỳ sẽ mang lại kết quả cao. Do vậy, nghiên cứu<br />
kỳ vọng quy mô vốn đầu tư sẽ làm tăng năng suất<br />
nuôi cá lồng bè của hộ.<br />
Chi phí lao động (LADO): Chi phí lao động trên 1<br />
đơn vị diện tích nuôi (triệu đồng/m3 lồng nuôi/vụ nuôi).<br />
Tỉ lệ sống (TILSO): Tỉ lệ sống của giống thả/m3<br />
lồng nuôi.<br />
Khoảng cách (KCAH): Là biến thể hiện khoảng<br />
cách đặt lồng nuôi so với bờ của hộ nuôi, tính bằng<br />
mét (m). Đây là yếu tố mang tính kỹ thuật, có tác<br />
động rất quan trọng đối với lợi nhuận của nghề<br />
nuôi cá lồng bè ở quần đảo Nam Du. Hoạt động<br />
nuôi trồng thủy sản phụ thuộc lớn vào điều kiện môi<br />
trường nước. Do vậy, những hộ càng nuôi xa bờ thì<br />
càng có điều kiện đảm bảo cho môi trường nước<br />
không bị ô nhiễm. Trên thực tế, nơi đây ngư dân đặt<br />
lồng bè đan xen với khu vực neo đậu tàu thuyền,<br />
nên sẽ bị ảnh hưởng do các chất thải ra từ tàu đánh<br />
cá và giảm sản lượng nuôi. Vì thế, nghiên cứu kỳ<br />
vọng khoảng cách đặt lồng có tác động tích cực tới<br />
hiệu quả nghề nuôi.<br />
Kinh nghiệm (KNG): Là biến thể hiện số năm<br />
hoạt động nghề nuôi cá lồng bè, kỳ vọng mang dấu<br />
(+). Kinh nghiệm được tích lũy qua nhiều năm từ<br />
những vụ nuôi, học hỏi kinh nghiệm của bạn bè,<br />
càng trải qua nhiều vụ nuôi thì người dân sẽ càng<br />
hiểu rõ được đối tượng nuôi của mình. Những kinh<br />
nghiệm đó sẽ giúp cho người nuôi nắm bắt kịp thời<br />
và xử lý một cách có hiệu quả trong vụ nuôi, biết<br />
được mùa vụ thích hợp, thời điểm thả giống, cách<br />
cho ăn và quản lý chăm sóc lồng nuôi,…<br />
Tập huấn (TAPHUAN): là biến dummy, nhận giá trị<br />
1 nếu chủ hộ nuôi được tập huấn và nhận giá trị 0 cho<br />
trường hợp ngược lại. Vấn đề tập huấn kỹ thuật nuôi có<br />
vai trò rất quan trọng vì nuôi cá lồng bè mới là phương<br />
pháp mới cần áp dụng khoa học kỹ thuật để thực hiện<br />
vụ nuôi nhằm đạt hiệu quả cao. Việc hiểu được tầm<br />
quan trọng khi thả nuôi đúng thời vụ, xây dựng lồng bè,<br />
chọn con giống, cho ăn hợp lý... đều là những bước<br />
quyết định đến kết quả sản xuất sau cùng. Do vậy,<br />
nghiên cứu kỳ vọng rằng những hộ được tập huấn kỹ<br />
thuật sẽ có tác động tích cực đến hiệu quả nghề nuôi.<br />
Rủi ro (RUIRO): Là biến dummy, thể hiện thiệt<br />
hại từ quá trình nuôi, nhận giá trị 0 nếu hộ không<br />
gặp thiệt hại, nhận giá trị 1 nếu hộ gặp phải rủi ro.<br />
Trong nghiên cứu, kỳ vọng của biến này ảnh hưởng<br />
xấu (-) đến năng suất nuôi của hộ.<br />
Tín dụng (TDUNG): là biến dummy, thể hiện<br />
khả năng tiếp cận tín dụng của hộ, nhận giá trị 1<br />
nếu hộ tiếp cận được các nguồn vốn tín dụng chính<br />
thức, giá trị 0 cho các trường hợp khác. Trong<br />
nghiên cứu, kỳ vọng của biến số này mang dấu (+).<br />
<br />
Số 2/2013<br />
Đối tượng nuôi (DTGNUI): là biếm dummy,<br />
nhận giá trị 1 nếu hộ nuôi cá mú, và giá trị 0 nếu<br />
hộ nuôi cá bớp. Trong các đối tượng nuôi, nuôi cá<br />
bớp có mức độ rủi ro thấp hơn cá mú. Yếu tố này có<br />
tác động xấu (-) đến năng suất nuôi của hộ. Do vậy,<br />
nghiên cứu giả định rằng những hộ nuôi cá mú năng<br />
suất nuôi sẽ giảm so với nuôi cá bớp.<br />
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu<br />
Đối tượng nghiên cứu là những hộ nuôi cá lồng<br />
bè tại vùng biển Nam Du, Kiên Giang với hai đối<br />
tượng nuôi chủ yếu là bá bớp và cá mú trong thời<br />
gian từ tháng 7 năm 2010 đến tháng 12 năm 2011.<br />
Nghiên cứu sử dụng nhiều phương pháp khác<br />
nhau, như: phương pháp điều tra thực địa, phương<br />
pháp thống kê và phân tích kinh tế lượng.<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
1. Khái quát về mẫu nghiên cứu<br />
Điều tra 150 hộ nuôi cá lồng bè tại vùng biển<br />
đảo Nam Du, số mẫu thu về đạt chất lượng nghiên<br />
cứu là 128 mẫu. Trong 128 chủ hộ nuôi thì nữ giới<br />
chỉ chiếm tỉ lệ 15,6%, số chủ hộ nuôi là nam giới<br />
chiếm tỉ lệ 84,4%. Tuổi của chủ hộ nuôi cũng rất đa<br />
dạng, nhưng tập trung chủ yếu trong độ tuổi từ 30<br />
đến dưới 50, chiếm tỉ lệ 77,4%, số chủ hộ có độ tuổi<br />
dưới 30 và trên 50 chỉ chiếm tỉ lệ nhỏ dưới 30%.<br />
Tuổi chủ hộ nhỏ nhất là 27, lớn nhất là 57 và trung<br />
bình là 41,5 tuổi. Đối tượng nuôi của chủ hộ chủ yếu<br />
là cá bớp, với tỉ lệ chiếm trên 70% tổng số hộ nuôi.<br />
Số hộ nuôi cá mú chiếm 20,3% và số hộ nuôi cả hai<br />
loại cá này chỉ chiếm 8,6%.<br />
Hoạt động nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi<br />
cá biiển nói riêng phụ thuộc khá nhiều vào các yếu<br />
tố về con giống, mật độ thả giống… Qua khảo sát<br />
tại các hộ nuôi này cho thấy mật độ thả cá mú trung<br />
bình là 6,23 con/m3 thể tích lồng, trong khi đó mật độ<br />
thả cá bớp trung bình là 2,47 con/m3 thể tích lồng.<br />
Tỉ lệ sống của cá mú trung bình là 83.67%, trong khi<br />
tỉ lệ sống của cá bớp cao hơn nhiều, trung bình là<br />
97,11%. Số lần cho ăn đối với các đôi tượng nuôi<br />
này ít nhất là 1 lần/ngày và nhiều nhất là 2 lần/ngày.<br />
Trung bình mỗi hộ nuôi cho cá ăn đạt 1.96 lần/ngày.<br />
Thời gian nuôi của cả hai đối tượng tương đối dài,<br />
thời gian nuôi ngắn nhất là 240 ngày và dài nhất<br />
là 360 ngày, trung bình thời gian nuôi của các đối<br />
tượng này là 285 ngày/vụ nuôi.<br />
Khoảng cách từ địa điểm đặt lồng nuôi tới bờ<br />
đối với các hộ này cũng rất khác nhau. Khoảng cách<br />
lồng nuôi tới bờ ngắn nhất là 50m, dài nhất là 400m<br />
và trung bình là 168,75m. Một số chỉ tiêu kỹ thuật về<br />
hoạt động nuôi được thể hiện trong bảng 1.<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 137<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 2/2013<br />
<br />
Bảng 1. Một số chỉ tiêu kỹ thuật về hoạt động nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du, Kiên Giang<br />
ĐVT<br />
<br />
Nhỏ nhất<br />
<br />
Lớn nhất<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
2.00<br />
<br />
20.00<br />
<br />
6.23<br />
<br />
Mật độ thả mú<br />
<br />
Con/m<br />
<br />
3<br />
<br />
Mật độ thả bớp<br />
<br />
Con/m<br />
<br />
3<br />
<br />
1.00<br />
<br />
6.00<br />
<br />
2.47<br />
<br />
Tỉ lệ sống cá mú<br />
<br />
%<br />
<br />
15.00<br />
<br />
97.00<br />
<br />
83.67<br />
<br />
Tỉ lệ sống cá bớp<br />
<br />
%<br />
<br />
90.00<br />
<br />
100.00<br />
<br />
97.11<br />
<br />
Lần/ngày<br />
<br />
1.00<br />
<br />
2.00<br />
<br />
1.96<br />
<br />
Số lần cho ăn<br />
Khối lượng 1 lần cho ăn<br />
Thời gian nuôi<br />
Khoảng cách lồng nuôi tới bờ<br />
<br />
Kg<br />
<br />
16.00<br />
<br />
800.00<br />
<br />
151,34<br />
<br />
Ngày<br />
<br />
240<br />
<br />
360<br />
<br />
285<br />
<br />
m<br />
<br />
50<br />
<br />
400<br />
<br />
168,75<br />
<br />
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra<br />
<br />
2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng suất<br />
của nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du,<br />
Kiên Giang<br />
Để phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới năng<br />
suất nghề nuôi cá lồng bè tại vùng biển Nam Du,<br />
tỉnh Kiên Giang, tác giả đã sử dụng biến số năng<br />
suất (tính theo giá trị) làm biến đo lường. Biến số<br />
này được xem xét trong mối quan hệ giữa các biến<br />
số nghiên cứu thông qua kiểm định tương quan và<br />
<br />
phân tích mô hình kinh tế lượng. Kết quả phân tích<br />
cho thấy, hầu hết các yếu tố của mô hình hồi qui có<br />
dấu như dự đoán và có ý nghĩa thống kê ở mức ý<br />
nghĩa 1%, 5% và 10%, ngoại trừ 5 yếu tố không có<br />
ảnh hưởng rõ ràng tới năng suất nuôi, bao gồm:<br />
thời gian nuôi, vốn đầu tư, tập huấn, đối tượng nuôi<br />
và tiếp cận tín dụng. Kết quả phân tích ban đầu mô<br />
hình về yếu tố ảnh hưởng tới năng suất của hộ nuôi<br />
được thể hiện trong bảng 2.<br />
<br />
Bảng 2. Kết quả phân tích hồi qui yếu tố ảnh hưởng tới năng suất nuôi cá lồng bè<br />
tại vùng biển Nam Du, Kiên Giang<br />
Tên biến<br />
<br />
Hệ số hồi qui chưa<br />
chuẩn hóa<br />
<br />
Giá trị thống kê<br />
<br />
Hệ số hồi qui chuẩn<br />
hóa<br />
<br />
t<br />
<br />
Sig.<br />
<br />
2,523<br />
<br />
0,013<br />
<br />
0,200<br />
<br />
3,226<br />
<br />
0,002<br />
<br />
-0,218<br />
<br />
-0,031<br />
<br />
-,555<br />
<br />
0,580<br />
<br />
Chi phí thức ăn<br />
<br />
0,456<br />
<br />
0,557<br />
<br />
9,513<br />
<br />
0,000<br />
<br />
Vốn đầu tư<br />
<br />
0,039<br />
<br />
0,068<br />
<br />
,892<br />
<br />
0,374<br />
<br />
Chi phí lao động<br />
<br />
-0,242<br />
<br />
-0,231<br />
<br />
-2,347<br />
<br />
0,021<br />
<br />
Tỉ lệ sống<br />
<br />
0,435<br />
<br />
0,433<br />
<br />
3,964<br />
<br />
0,000<br />
<br />
Khoảng cách<br />
<br />
0,369<br />
<br />
0,227<br />
<br />
4,172<br />
<br />
0,000<br />
<br />
Kinh nghiệm<br />
<br />
0,356<br />
<br />
0,240<br />
<br />
2,544<br />
<br />
0,012<br />
<br />
Tập huấn<br />
<br />
0,044<br />
<br />
0,032<br />
<br />
,589<br />
<br />
0,557<br />
<br />
Rủi ro<br />
<br />
-0,364<br />
<br />
-0,233<br />
<br />
-2,364<br />
<br />
0,020<br />
<br />
Tín dụng<br />
<br />
0,023<br />
<br />
0,015<br />
<br />
0,141<br />
<br />
0,888<br />
<br />
Đối tượng nuôi<br />
<br />
0,077<br />
<br />
0,045<br />
<br />
0,407<br />
<br />
0,685<br />
<br />
(Constant)<br />
<br />
2,489<br />
<br />
Mật độ thả giống<br />
<br />
0,310<br />
<br />
Thời gian nuôi<br />
<br />
R2 Adjust<br />
F- Statistic<br />
Durbin-Watson<br />
<br />
0,663<br />
21,791 (sig.= 0,000)<br />
2,289<br />
<br />
Nguồn: Tính toán từ dữ liệu điều tra<br />
<br />
Từ kết quả phân tích cho thấy, mô hình nghiên<br />
cứu đã giải thích sự ảnh hưởng của các yếu tố tới<br />
năng suất nuôi cá lồng bè là 67,10%, các giả thuyết<br />
<br />
138 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
hồi qui đều không bị vi phạm. Trong các yếu tố<br />
nghiên cứu thì chi phí thức ăn và tỉ lệ sống có ảnh<br />
hưởng lớn nhất tới năng suất nuôi. Mật độ giống thả<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
và rủi ro là những yếu tố có ảnh hưởng thấp nhất tới<br />
năng suất nuôi tại khu vực này.<br />
Mật độ thả giống: Yếu tố này có tác động thuận<br />
chiều tới năng suất nuôi của hộ và có ý nghĩa thống<br />
kê ở mức ý nghĩa 1%. Trong hoạt động nuôi trồng<br />
nói chung và nuôi biển nói riêng thì mật độ thả giống<br />
có ý nghĩa rất quan trọng, nó phản ánh số lượng<br />
con giống trên 1 đơn vị diện tích. Tùy vào đối tượng<br />
nuôi, đặc điểm của môi trường mà có mật độ giống<br />
thả khác nhau. Đối với hoạt động nuôi biển tại khu<br />
vực đảo Nam Du do mới phát triển gần đây nên điều<br />
kiện môi trường biển có thể còn thích hợp cho đối<br />
tượng nuôi này phát triển, do vậy hộ nuôi có điều<br />
kiện để tăng năng suất từ hoạt động nuôi của mình.<br />
Thời gian nuôi: Biến số này có tác động ngược<br />
chiều tới năng suất nuôi của hộ. Thời gian nuôi là<br />
yếu tố đảm bảo cho đối tượng nuôi phát triển theo<br />
chu kỳ sinh học. Tăng thời gian nuôi ở thời kỳ đầu<br />
của chu kỳ sinh học thì trọng lượng cá nuôi càng<br />
tăng nhanh. Tuy nhiên, nếu thời gian quá dài thì<br />
trọng lượng nuôi lại không tăng, thậm chí còn giảm.<br />
Điều này hoàn toàn phù hợp với chu kỳ sinh học của<br />
đối tượng thủy sản. Tuy nhiên, biến số này trong<br />
nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%.<br />
Chi phí thức ăn: Yếu tố này có tác động thuận<br />
chiều với năng suất nuôi của hộ và có ý nghĩa thống<br />
kê ở mức 1%. Thức ăn là yếu tố quan trọng hàng<br />
đầu trong hoạt động nuôi trồng thủy sản, số lượng<br />
thức ăn được cung cấp đầy đủ thì cá nuôi sẽ phát<br />
triển tốt và trọng lượng nuôi sẽ tăng nhanh, ngược<br />
lại cá nuôi sẽ kém phát triển, ảnh hưởng tới sản<br />
lượng thu hoạch của hộ nuôi. Điều này cũng được<br />
thể hiện trong chi phí nuôi của hộ. Trong các khoản<br />
chi phí thì chi phí cho thức ăn của hộ chiếm rất lớn,<br />
gần 50% so với tất cả các khoản chi phí khác.<br />
Chi phí lao động: có tác động thuận chiều đến<br />
năng suất nuôi. Lao động là 1 trong các yếu tố<br />
cơ bản đảm bảo cho hoạt động sản xuất. Khi lao<br />
động của hộ nuôi được đảm bảo thì các công đoạn<br />
trong hoạt động nuôi được thực hiện nhanh chóng<br />
từ khâu chuẩn bị giống, kỹ thuật nuôi đến các hoạt<br />
động khác. Điều này đã làm cho năng suất nuôi<br />
tăng. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh kinh tế, khi số<br />
lao động nuôi tăng thêm sẽ làm cho năng suất biên<br />
giảm dần theo qui luật vốn có của lao động. Trong<br />
nghiên cứu cho thấy trong điều kiện nuôi hiện tại,<br />
yếu tố lao động có lại có ảnh hưởng xấu đến năng<br />
suất nuôi của hộ và biến số này có ý nghĩa thống kê<br />
<br />
Số 2/2013<br />
ở mức ý nghĩa 5%.<br />
Tỉ lệ sống: Tỉ lệ sống của giống thả nuôi có ý<br />
nghĩa rất quan trọng đảm bảo cho hộ nuôi nâng cao<br />
năng suất của mình. Tỉ lệ giống thả sống tùy thuộc<br />
vào khá nhiều yếu tố, từ chất lượng con giống, điều<br />
kiện môi trường sống và chăm sóc… Trong hai đối<br />
tượng nuôi thì tỉ lệ sống của cá bớp là cao, trong khi<br />
đó tỉ lệ sống của cá mú là thấp hơn nhiều. Kết quả<br />
phân tích mô hình cho thấy, tỉ lệ sống của giống thả<br />
có tác động lớn nhất và có ý nghĩa thống kê ở mức<br />
ý nghĩa 5%.<br />
Khoảng cách: kết quả nghiên cứu, biến khoảng<br />
cách có dấu như kỳ vọng. Khoảng cách từ lồng<br />
nuôi tới bờ có tác động thuận chiều với năng suất<br />
nuôi. Xét về mặt lý thuyết, khoảng cách càng xa<br />
bờ thì điều kiện môi trường nuôi biển ít bị ô nhiễm,<br />
sự thay đổi thường xuyên các dòng hải lưu là điều<br />
kiện thuận lợi để cho cá nuôi phát triển và vì vậy sẽ<br />
tạo điều kiện cho gia tăng năng suất nuôi. Điều này<br />
hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của mô<br />
hình. Yếu tố này không có ý nghĩa thống kê ở mức<br />
ý nghĩa 1%.<br />
Kinh nghiệm: Kinh nghiệm nuôi có tác động<br />
thuận chiều tới năng suất nuôi của hộ. Đối với nghề<br />
cá ở Việt Nam nói chung và hoạt động nuôi nói riêng<br />
thì hoạt động sản xuất này phụ thuộc khá lớn vào<br />
kinh nghiệm thực tiễn của hộ. Những hộ càng có<br />
kinh nghiệm nuôi lâu năm thì càng rút ra được nhiều<br />
bài học thực tiễn từ quá trình nuôi cá lồng bè và khả<br />
năng làm cho năng suất nuôi của hộ gia tăng. Điều<br />
này hoàn toàn phù hợp với kết quả của mô hình<br />
nghiên cứu đó là kinh nghiệm nuôi của hộ có tác<br />
động tích cực tới năng suất nuôi và có ý nghĩa thống<br />
kê ở mức 10%.<br />
Rủi ro: Trong kết quả phân tích cho thấy, yếu tố<br />
rủi ro có tác động xấu tới năng suất nuôi của hộ và<br />
có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 5%. Phần lớn<br />
những hộ nuôi cá mú có mức độ thiệt hại từ hoạt<br />
động nuôi khá cao, trong khi đó tỉ lệ thiệt hại do nuôi<br />
cá bớp lại thấp hơn nhiều. Chính điều này đã làm<br />
ảnh hưởng tới năng suất nuôi của hộ.<br />
Tập huấn: Trong mô hình nghiên cứu yếu tố<br />
này có tác động dương tới năng suất nuôi của hộ.<br />
Những hộ có điều kiện được tập huấn về kỹ thuật<br />
nuôi từ các cơ quan chuyên trách ngành thủy sản<br />
sẽ có điều kiện để nâng cao kiến thức, và do vậy có<br />
điều kiện để áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào hoạt<br />
động nuôi của mình. Tuy nhiên, trong mẫu điều tra<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 139<br />
<br />