Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp & Tình hình Việt Nam phong kiến giữa TK 19_1
lượt xem 35
download
Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp & Tình hình Việt Nam phong kiến giữa TK 19 1.1.1. Pháp âm mưu thôn tính Việt Nam từ lâu Sau các cuộc phát kiến địa lí lớn ở thế kỉ XV và XVI, chủ nghĩa Tư bản và các nước phương Tây được xác lập và đẩy mạnh các cuộc xâm lăng thuộc địa. Việc cướp đoạt châu Mỹ và phương Đông trong thế kỉ XVI đã làm cho Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trở thành các quốc gia giầu mạnh nhất Sang thế kỉ XVII, Hà Lan mạnh lên, cũng đến...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp & Tình hình Việt Nam phong kiến giữa TK 19_1
- Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp & Tình hình Việt Nam phong kiến giữa TK 19 1.1.1. Pháp âm mưu thôn tính Việt Nam từ lâu Sau các cuộc phát kiến địa lí lớn ở thế kỉ XV và XVI, chủ nghĩa Tư bản và các nước phương Tây được xác lập và đẩy mạnh các cuộc xâm lăng thuộc địa. Việc cướp đoạt châu Mỹ và phương Đông trong thế kỉ XVI đã làm cho Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trở thành các quốc gia giầu mạnh nhất Sang thế kỉ XVII, Hà Lan mạnh lên, cũng đến Hội An (1636) và Phố Hiến lập thương điếm. Để gây thanh thế và ảnh hưởng ở Việt nam, Hà lan đã can thiệp vào cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, giúp Trịnh đánh Nguyễn (1642-1643) nhưng việc không thành. Đầu thế kỉ XVIII người Anh có mặt ở Phố Hiến, Thăng Long. Đến đầu thế kỷ XIX (1802) Anh cho quân chiếm đảo Côn lôn, phái binh lính người Mã Lai (Ma-lai-xi-a) đến đóng giữ. Năm 1803, binh lính Mã Lai đã phối hợp với viên quan trấn thủ người Việt Nam nổi dậy tiêu diệt
- quân Anh, lấy lại đảo. Trong cuộc chạy đua sang phương Đông, tư bản Pháp ngày càng chú ý tới Việt nam thông qua các tài liệu của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp cũng như của những giáo sĩ Pháp mà người tiêu biểu là A-lếch-xăng-đơ- Rốt (Alexndre de Rhodes). Đờ-Rốt đến Việt nam từ 1624, ở Việt Nam khoảng 17 năm, tích cực truyền bá đạo thiên chúa ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc: Sau thời kỳ phục vụ vua Bồ Đào Nha, năm 1645 A-lếch-xăng-đờ-Rốt mở cuộc vận động lập các tòa giám mục Pháp ở Viễn đông và hệ thống công giáo bản xứ. Năm 1664 Hội truyền giáo hải ngoại Pháp được thành lập ở Paris. Trong các năm tiếp theo, các giáo hội tích cực hoạt động, vừa truyền đạo, vừa buôn bán, vừa tích cực chuẩn bị lập một dự án xâm lăng Việt Nam. Sau chiến tranh 7 năm giữa Anh và Pháp (1756-1763), nước Pháp thua trận, phải nhường sự chiếm đoạt Ấn Độ cho Anh, Pháp chỉ còn được làm chủ một số thị trấn ven biển. Từ đó tư bản Pháp càng muốn có các thuộc địa ở Viễn đông, nhất là tại Việt nam, nơi mà các giáo sĩ của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp và các thương gia của công ty Đông Ấn Pháp đã từng quen biết từ thế kỷ XVII.
- Cho dù Công ty Đông ấn của Pháp sau đó bị giải thể, các tàu buôn Pháp không qua lại buôn bán nữa, song các giáo sĩ Pháp vẫn lén lút vào Việt Nam hoạt động. • Tại Đàng Ngoài một số giáo sĩ đội lốt thương gia ở lại Phố Hiến tiếp tục truyền giáo • Ở Đàng Trong, một số giáo sĩ dưới sự chỉ đạo của Bá đa lộc (Pignau de Béhaine), người đã từng phụ trách một chủng viện ở Hòn Đất (Kiên giang), vẫn lén ở lại miền Tây đất Gia Định. Nhờ vậy sau khi chúa Nguyễn bị phong trào nông dân Tây Sơn đánh đổ, giám mục Bá Đa Lộc đã nảy ra ý đồ giúp Nguyễn Phúc Ánh với hy vọng đi trước các nước châu Âu khác, chiếm lấy Việt Nam nhằm khuếch trương thế lực công giáo. Về phần mình,sau khi đã cầu cứu phong kiến Xiêm, để cho quân Xiêm tàn phá đất Việt Nam từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Vĩnh Long rồi quân Xiêm bị Nguyễn Huệ tiêu diệt ở Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường), năm 1785 Nguyễn Ánh đã quay sang cầu xin bọn thực dân Tây Âu giúp đỡ.Tại thời điểm đó, chẳng những Pháp mà còn cả Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đều có phái nhân viên đến liên lạc với Nguyễn Ánh, đề nghị được ”viện trợ”. Bản thân Nguyễn Ánh cũng có ý định sang Batavia (In-đô-nê-xi-a) để cầu viện Hà Lan hoặc sang Goa (Ấn độ) cầu
- viện Bồ Đào Nha, nhưng cuối cùng do có mối quan hệ từ trước, ông ta quyết định nhờ vả người Pháp. Cuối năm 1784, được sự ủy nhiệm của Nguyễn Ánh, Pi nhô đờ Bê hen (Bá đa lộc) đã đem theo ấn tín và người con trai của Ánh là Nguyễn Phúc Cảnh (hoàng Tử Cảnh) lúc đó mới 6 tuổi đi cầu viện Pháp. Trong một tài liệu nói về cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh, được trích trong một bức thư do Bá Đa Lộc viết vào tháng 12/1784 có một đoạn như sau: ”Sau khi sửa chữa xong thuyền... chúng tôi giong buồm về đảo Pulo Punjan (Phú Quốc) để từ đó vượt qua vịnh Xiêm-la. Ở đây một lần nữa chúng tôi đã gặp nhà vua Đàng trong; ông kể lại cho nghe lí do vì sao ông đã sang Xiêm. Họ mượn cớ giúp ông trở lại ngôi vua và lợi dụng danh nghĩa ông để cướp bóc dân chúng. Chính vào thời điểm này, nhà vua đã giao cho tôi chăm sóc người con trai mới lên 6 tuổi mà tôi hiện đem theo đây... sau đó chúng tôi vượt vịnh Xiêm La đến Malaque ngày 19 tháng 12”. Ngày 28/11/1787 giữa Pi-nhô-đờ-Bê-hen đại diện cho Nguyễn Ánh và Bá tước Mông-mô-ranh, đại diện cho Hoàng đế Pháp Lu-i XVI đã kí kết một bản hiệp ước mang tên ”Hiệp ước tương trợ tấn công và phòng thủ” tại Véc-Xây, trong đó người Pháp cam kết gửi binh lính, lương thực, tầu bè, súng đạn sang giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại quyền bính. Đổi lại, Pháp được sở hữu Đà Nẵng, đảo Côn Lôn và được độc quyền buôn bán
- tại Việt nam. Hiệp ước 1787 đã không được thực hiện bởi lẽ ngay sau đó, vào năm 1789 cách mạng Pháp bùng nổ,người Pháp bỏ lỡ cơ hội can thiệp ngay vào Việt nam. Tuy nhiên chúng vẫn không từ bỏ âm mưu của mình và âm mưu đó đã được coi là “quốc sách” để rồi hết chính phủ này đến chính phủ khác ở Pháp thay nhau theo đuổi. Tuy chính phủ Pháp bỏ lỡ cơ hội để thâm nhập vàoViệt nam sau khi ký hiệp ước 1787 nhưng bọn tư bản Pháp ở Ấn Độ Dương vẫn ra sức ủng hộ kế hoạch của Pi-nhô-đờ-Bê-hen, bởi kế hoạch này nếu được thực hiện sẽ đem lại nhiều quyền lợi cho giới tư bản tài phiệt. Chúng đã gửi tàu chiến, sĩ quan, kĩ sư, binh lính, vũ khí đạn dược sang giúp Nguyễn ánh lấy lại đất Gia Định. Bản thân Pi-nhô-đờ-Bê-hen cũng tham gia chinh chiến trong đội quân của Nguyễn Ánh chống Tây Sơn từ Gia Định bến Bình Định cho đến chết như một viên tham mưu trưởng. Sau khi đánh thắng Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh tái lập vương triều Nguyễn. Tuy vậy, nguy cơ bị Pháp nhòm ngó vẫn chưa hết. Sau cách mạng Pháp và chiến tranh châu Âu kéo dài từ 1792 đến 1814 tình hình nước Pháp trở lại yên tĩnh. Giai cấp tư sản Pháp đã lớn mạnh, chúng tiếp tục tìm cách xâm nhập Việt Nam.
- Năm 1812 Na-pô-lê-ông Bô-na-pac sau khi xem các giác thư của bọn thực dân hoạt động tại Viễn Đông đã ra lệnh nghiên cứu lại hiệp ước Véc-xây (1787). Song ngay năm sau, Hoàng đế Na-pô-lê-ông đệ nhất bị đổ - âm mưu xâm lăng Việt nam của Pháp vì thế chưa thực hiện được. 1.1.2. Bối cảnh thế giới và tình hình nước Việt Nam phong kiến giữa thế kỷ XIX Thế kỉ XVIII và XIX là thế kỉ có đầy rầy những biến động đối với thế giới và khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt nam. Ở phương Tây, giai cấp tư sản các nước lần lượt nắm chính quyền. Công thương phát triển mạnh, khoa học kỹ thuật trong thế kỉ ánh sáng gặt hái được nhiều thành công. Vào những năm 60-70 của thê kỉ XVIII cách mạng Anh đã nổ ra. Cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ thành công đã đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hàng hoá của tư bản các nước ùn ùn được chở ra nước ngoài và cũng tới tấp chở về những vàng, bạc châu báu, hương liệu và các sản vật quý hiếm. Khi thị trường thương mãi đã trở nên chật hẹp, các nước tư bản phương
- Tây bắt đầu đua nhau kéo sang phương Đông, vừa để bán sản phẩm của nền công nghiệp, vừa đầu tư vốn để kiếm lời trong các ngành kinh doanh, khai thác nguyên liệu và nguồn nhân công rẻ mạt. Vận mạng của các dân tộc bị chủ nghĩa tư bản thực dân phương Tây đe doạ. Giữa lúc đó, trật tự phong kiến ở các nước châu Á đang lung lay trước mâu thuẫn không thể điều hoà giữa giai cấp phong kiến nắm quyền và nông dân trong nước. Cuộc chạy đua xâm chiếm các nước phương Đông làm thuộc địa đã dần dẫn xác lập vị trí của thực dân Anh và Pháp ở vùng này. Cuộc chạy đua xâm chiếm các nước phương Đông làm thuộc địa đã dần dẫn xác lập vị trí của thực dân Anh và Pháp ở vùng này. Tại Trung quốc từ giữa thế kỷ XVII giai cấp thống trị Hán tộc đã phải khuất phục trước sự thống trị của phong kiến ngoại tộc. Nhà Mãn Thanh lên cầm quyền. Trước nguy cơ bị phương Tây xâm lược, phong kiến Trung Quốc vẫn khư khư ôm lấy mớ lý thuyết sáo rỗng cũ kĩ, cho Trung Quốc là trung tâm của nền văn minh thế giới. Đối nội thì ra sức củng cố chế độ chuyên chế độc tài, đối ngoại thì bành trướng và bế quan toả cảng.
- Trong khi đó thì nước Việt Nam cũng không có gì khá hơn, cũng lại lăn theo vết xe đổ Trung Quốc, dập theo kinh nghiệm Trung quốc để chìm đắm trong giấc ngủ phong kiến ngàn năm. Về chính trị luật pháp: Sau khi lên ngôi, Gia Long cho củng cố chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền. Trên hết có hoàng đế, nắm tất cả quyền bính; có Cơ mật viện bàn quốc sự lớn lao, nhưng ý kiến quyết định cuối cùng vẫn là ý kiến của nhà vua. Hoàng đế tự xưng là Thiên tử - Con trời, thay trời trị dân. Vua có uy quyền tuyệt đối, cho ai sống thì được sống, bắt ai chết thì kẻ đó phải chết. Ý vua là phép nước và nước là nước của vua. Trong thực tế, vua là một địa chủ lớn nhất, có toàn quyền quyết định trong việc sử dụng ngân khố nhà nước, có quyền tước đoạt bất kì caí gì, của bất cứ ai nếu nhà vua muốn. Lúc đầu thời Gia Long, ở Bắc kì và Nam Kì có đặt chức khâm sai tổng trấn thay mặt vua trông nom, về sau triều đình trực tiếp với tay xuống các địa phương. Các hàng quan đầu tỉnh đều do Nhà nước bổ nhiệm, thông qua thi cử. Ở vùng thượng du, triều đình không có khả năng trực
- trị thì thông qua các tù trưởng để nắm quyền. Từ Minh Mạng trở đi, tính tập quyền ngày càng cao. Nhà vua tự mình”châu phê", soạn thảo các văn bản, và sắp đặt mọi việc. "Vua sáng suốt về việc chính trị, những tờ sớ dâng lên, vua đều xem hết và trước mặt chỉ bảo cho; hễ việc gì quan trọng tâu lên thì phần nhiều là vua tự nghị soạn lấy, hoặc bảo ra rồi giao phó cho, hoặc châu phê vào. Bản châu phê bắt đầu từ đấy mới có". Để cai trị những vùng thôn quê rộng lớn, nhà Nguyễn chú trọng tận dụng tầng lớp địa chủ phú hào và chuyển bộ phận này thành công cụ thừa hành đắc lực của quan lại từ cấp tri huyện trở lên và được coi là ”dân quan". Và như vậy, trong khi đám quan lại ở triều đình tự biến mình thành gia nhân trung thành của nhà Nguyễn, thì đám quan lại ở địa phương đã trở thành những kẻ ”cuớp ngày", được dung dưỡng, bợ đỡ, tha hồ đục khoét nhân dân. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ tâu rằng: "Quan lại nhũng tệ chỉ mới hai ba phần, còn điêu hào làm hại đến bảy tám phần; cuớp của giết người, giết vợ cuớp con mà trên vẫn không biết, vẫn không tội vạ gì".
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
ĐỀ CƯƠNG ÔN THI ĐẠI HỌC MÔN LỊCH SỬ NĂM 2012 - BÀI 12
9 p | 299 | 114
-
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam
13 p | 501 | 60
-
ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ XÂM LƯỢC (1945 - 1975)
69 p | 290 | 30
-
Từ chiến dịch Việt Bắc đến chiến dịch Biên giới Thu- Đông
8 p | 197 | 25
-
Lịch sử lớp 7 bài 14
5 p | 401 | 22
-
Lịch sử lớp 7 - Ba lần kháng chiến chống quân xâm lược mông – nguyên (thế kỷ XIII)
4 p | 276 | 15
-
Tích cực chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài
5 p | 143 | 11
-
Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp & Tình hình Việt Nam phong kiến giữa TK 19_2
10 p | 96 | 9
-
Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp & Tình hình Việt Nam phong kiến giữa TK 19_3
10 p | 134 | 8
-
GIÁO ÁN LỊCH SỬ 7_TIẾT22
7 p | 122 | 7
-
Đề cương ôn tập giữa học kì 2 môn Lịch sử lớp 7 năm 2022-2023 - Trường THCS Nguyễn Đức Cảnh
5 p | 19 | 6
-
Giáo án Lịch sử lớp 11: Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ năm 1858 đến trước 1873)
12 p | 119 | 3
-
Bài giảng Lịch sử lớp 12 - Bài 23: Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược; nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973) (Tiết 3)
49 p | 45 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn