intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

26
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này mô tả những kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ khuyết tật được tổng hợp bằng phương pháp tổng quan diễn ngôn và phân tích nội dung từ 39 bài viết xuất bản từ 2010 đến nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn

  1. HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2021-0069 Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4AB, pp. 145-159 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn ẢNH HƯỞNG CỦA Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ TỚI TRẺ EM KHUYẾT TẬT: NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN DIỄN NGÔN Phạm Thị Bền1, Phạm Thị Vân2, và Bùi Thị Anh Phương1 Khoa Giáo dục Đặc biệt, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1 2 Công ty Thiết bị, Dịch vụ Giáo dục và Hợp tác Quốc tế VietSpeech Tóm tắt. Ô nhiễm không khí là một trong những vấn đề toàn cầu có ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội, tới các nhóm cộng đồng dân cư khác nhau và tới hệ sinh thái của động vật và thực vật. Những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới cộng đồng yếu thế trong xã hội như trẻ khuyết tật cũng được xem xét. Bài viết này mô tả những kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ khuyết tật được tổng hợp bằng phương pháp tổng quan diễn ngôn và phân tích nội dung từ 39 bài báo xuất bản từ 2010 đến nay. Phân tích nội dung cho thấy các nghiên cứu được thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển, cỡ mẫu khảo sát lớn theo các độ tuổi từ lúc mang thai tới 19 tuổi theo thiết kế nghiên cứu trường diễn, lát cắt ngang và hồi cứu hồ sơ. Ô nhiễm không khí được xác định dựa vào các chỉ số của Ni-tơ đi-ô-xít, các bon đen, dạng vật chất dạng hạt mịn như PM1, PM2.5, PM10, lưu huỳnh đi-ô-xít, hi-đờ-rô các-bon thơm dạng vòng, ben zen, và ô dôn tầng bình lưu. Kết quả của các nghiên cứu cho thấy ô nhiễm không khí có ảnh hưởng tới nguy cơ cao mắc rối loạn phổ tự kỉ, tăng động giảm tập trung chú ý, khuyết tật trí tuệ, rối loạn hành vi và cảm xúc bao gồm cả hội chứng trầm cảm và loạn thần ở trẻ em. Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra ô nhiễm không khí còn có ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển trí não và sức khoẻ thể chất của trẻ em như suy yếu sự phát triển thần kinh của thai nhi, mất cân bằng não sớm, viêm nhiễm, thay đổi cấu trúc não bộ của thai nhi. Việc chỉ ra mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với tình trạng khuyết tật của trẻ em cho thấy ô nhiễm môi trường được xem xét như một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực tới nguyên nhân gây khuyết tật cũng như tác động tới mức độ nghiêm trọng của khuyết tật ở trẻ em. Việc chỉ ra mối quan hệ này góp phần thúc đẩy việc bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm bao gồm cả ô nhiễm không khí ở phạm vi quốc gia và toàn cầu. Từ khoá: ảnh hưởng, ô nhiễm không khí, trẻ khuyết tật, nghiên cứu tổng quan diễn ngôn. 1. Mở đầu Ô nhiễm không khí là một vấn đề môi trường của toàn cầu hiện nay. Ô nhiễm không khí được xác định do sự biến đổi lớn của môi trường không khí theo hướng có hại cho con người, động vật, thực vật, môi trường tự nhiên và công trình xây dựng. Các thành phần của không khí có sự biến đổi là do khói, bụi, hơi hoặc các khí lạ [1]. Ô nhiễm không khí có thể xuất phát từ nguồn ô nhiễm tự nhiên như hoạt động của núi lửa, bão bụi, cháy rừng, bụi nước biển, metan, tác nhân sinh học, mùi sinh ra do sự phân huỷ tự nhiên của các chất hữu cơ,… và nguồn ô nhiễm Ngày nhận bài: 22/7/2021. Ngày sửa bài: 20/8/2021. Ngày nhận đăng: 2/9/2021. Tác giả liên hệ: Phạm Thị Bền. Địa chỉ e-mail: ben.phamthi@hnue.edu.vn 145
  2. Phạm Thị Bền, Phạm Thị Vân, và Bùi Thị Anh Phương nhân tạo từ các hoạt động của con người như quá trình sản xuất công nghiệp, sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải, chất thải và các nguồn khác,… [2]. Các chất gây ô nhiễm không khí bao gồm: nitơ đi-ô-xít (nitrogen oxides, NO2), lưu huỳnh đi-ô-xít (sulfur oxides, SO2), các-bon mô-nô-xít (carbon monoxide, CO), chì (lead), ô-zôn tầng bình lưu (ground-level ozone) và vật chất dạng hạt hay bụi mịn (particle matter, PM) bao gồm PM1, PM2.5 và PM10 [3]. Ô nhiễm không khí gây nên những thiệt hại về kinh tế, năng suất cây trồng, giảm đa dạng sinh học và hệ sinh thái nước ngọt [2]. Trên cơ sở tổng quan, Ghorani và cộng sự [1] đã liệt kê các ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới con người, bao gồm: nguy hại sức khoẻ, các rối loạn hô hấp, mất chức năng tim mạch, các bệnh mạn tính. Do tiếp xúc với độc khí, các nguy hại sức khoẻ xảy ra ở hệ hô hấp, tim mạch, nhãn khoa, da liễu, tâm thần kinh, huyết học, miễn dịch, sinh sản và ung thư. Ô nhiễm không khí cũng được coi là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ tử vong sớm ở người do các bệnh lí như: viêm phổi, đột quỵ, bệnh tim thiếu máu cục bộ, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, và ung thư phổi [4]. Ô nhiễm không khí cũng được cho là nguyên nhân tăng nguy cơ mắc và tăng mức độ tiến triển của các bệnh lí khác ở người như: hen suyễn, phì đại tâm thất, bệnh Alzheimer, bệnh Parkinson ở người già, các bệnh lí về mắt và võng mạc, bệnh về da, béo phì ở người trung và cao niên, các bệnh về giọng, vô sinh ở nam giới, viêm dây thần kinh, và các rối loạn tâm lí như hung hăng, lo lắng, trầm cảm, rối loạn tâm thần và hoạt động tội phạm [1, 2, 5]. Do những ảnh hưởng tiêu cực và nguy hại của ô nhiễm không khí, các quốc gia và khu vực đều đề xuất những giải pháp giảm thiểu, kiểm soát cũng như những chiến lược trong phạm vi quốc gia, lãnh thổ và toàn cầu để cải thiện chất lượng không khí, giảm thiểu ô nhiễm không khí. Cùng với người già, trẻ em là một trong những nhóm dễ mắc các bệnh lí do ô nhiễm không khí [1]. Ô nhiễm không khí ảnh hướng tới việc giảm tăng trưởng thai nhi và sinh nhẹ cân ở trẻ em, bệnh bạch cầu ở trẻ em, viêm phế quản mãn tính, những vấn đề về hành vi, tình trạng thừa cân và béo phì, rối loạn dị ứng, bệnh phổi,…[1]. Giống như mọi trẻ em, một bộ phận trẻ em là trẻ khuyết tật cũng chịu những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí. Khuyết tật là chỉ tình trạng khiếm khuyết hay thiếu hụt về cấu trúc và chức năng cơ thể có ảnh hưởng tới các hoạt động và sự tham gia của cá nhân trong môi trường. Tình trạng khuyết tật cũng được xem xét trong mối quan hệ với các yếu tố cá nhân và môi trường [6]. Việc xem xét ảnh hưởng của môi trường sống, trong đó có vấn đề ô nhiễm môi trường bao gồm cả ô nhiễm không khí trong mối quan hệ với khuyết tật cũng được quan tâm trong nhiều nghiên cứu trên thế giới trong những năm gần đây. Tuy nhiên, những nghiên cứu về mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với trẻ khuyết tật ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Phương pháp nghiên cứu Bài viết này tìm hiểu về ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật. Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu này, phương pháp nghiên cứu tổng quan diễn ngôn được sử dụng để thu thập dữ liệu. Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn là một nhánh của nghiên cứu tổng quan. Khác với nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp, nghiên cứu tổng quan diễn ngôn hữu ích khi nhận diện trên một diện rộng về vấn đề cần quan tâm nghiên cứu. Tổng quan diễn ngôn được thực hiện khi không có điều kiện xác định được tất cả những tài liệu hữu ích từ các cơ sở dữ liệu số một cách có hệ thống cũng như không xác định được chất lượng của nghiên cứu với những tiêu chuẩn chọn vào và loại ra [7]. Để tìm kiếm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng một số nguồn tài liệu quốc tế và trong nước. Thứ nhất, chúng tôi sử dụng nguồn tài liệu sẵn có và miễn phí từ Google 146
  3. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn Scholar (https://scholar.google.com) để tìm kiếm cả tài liệu tiếng Anh và tiếng Việt. Thứ hai, chúng tôi sử dụng thêm cơ sở dữ liệu số PubMed để tìm kiếm các tài liệu tiếng Anh. Thứ ba, chúng tôi sử dụng nguồn tài liệu mở của thư viện quốc gia Việt Nam (https://www.nlv.gov.vn), Tạp chí khoa học Việt Nam trực tuyến (http://www.vjol.info/index.php/index/index), và cơ sở truy cập mở thư viện số tài nguyên nội sinh của Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội (http://repository.vnu.edu.vn/) để tìm kiếm các tài liệu tiếng Việt. Các từ khoá được sử dụng để tìm kiếm cho tài liệu tiếng Việt là: “ô nhiễm không khí”, “khuyết tật”, “trẻ”, “ảnh hưởng”. Bằng các từ khoá đã xác định để tìm kiếm trên các cơ sở dữ liệu trên, chúng tôi không tìm được tài liệu nào công bố bằng tiếng Việt trực tiếp viết về chủ đề ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến trẻ khuyết tật. Các từ khóa được sử dụng để tìm kiếm cho tài liệu tiếng Anh là: “air pollution”, “impact”, “disability”, “disabilities”, “children”, “cause”, “caused”, “disabled”. Bằng các từ khoá tiếng Anh này để tìm kiếm cho tài liệu tiếng Anh trên cơ sở dữ liệu của Google Scholar và PudMed, chúng tôi đã sử dụng lệnh tìm kiếm nâng cao với điều kiện tìm kiếm: là những công bố từ 2010 đến 2021, viết bằng tiếng Anh, không phân biệt là bài báo được bình duyệt hay báo cáo nghiên cứu. Việc tìm kiếm này cho ra 739 kết quả. Chúng tôi đã đọc tiêu đề của từng kết quả, loại ra những bài trùng nhau, loại ra những bài không có nội dung liên quan trực tiếp đến ô nhiễm không khí và/hoặc khuyết tật. Sau khi lọc lần thứ nhất, danh sách tài liệu tìm được là 100 bài báo. Sau khi đọc tóm tắt của 100 bài báo này, chúng tôi lại lọc tiếp lần thứ hai những bài không liên quan đến trẻ khuyết tật hoặc không có số liệu hoặc đo lường cụ thể. Sau lần lọc thứ hai, số bài báo được lựa chọn là 39 bài. Đây là các bài nghiên cứu nguyên gốc thực hiện các đo lường về ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới các dạng khuyết tật ở trẻ em. Nhóm tác giả đã đọc toàn bộ tất cả 39 bài để phục vụ cho việc phân tích nội dung. Mỗi bài báo được đọc độc lập bởi mỗi thành viên nhóm tác giả và tóm tắt nội dung của bài theo thứ tự: Tác giả, nước, cỡ mẫu, độ tuổi, loại ô nhiễm không khí, và ảnh hưởng tới trẻ khuyết tật. Bảng tóm tắt nội dung của từng tác giả trong nhóm được so sánh với nhau để tạo thành một bảng tổng hợp chung nhằm đảm bảo tính thống nhất và đồng thuận cao về nội dung trong nhóm tác giả, phục vụ cho việc phân tích nội dung. Nhóm tác giả chia thành hai bảng tóm tắt nội dung chung. Bảng 1 là thông tin tóm tắt từ 27/39 bài báo trực tiếp nghiên cứu về mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với tình trạng khuyết tật đã được chẩn đoán và xác định ở cỡ mẫu khảo sát. Bảng 2 là thông tin tóm tắt từ 12/39 bài đề cập đến mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với tình trạng sức khoẻ thể chất và trí não của trẻ em nói chung mà những ảnh hưởng này có thể dẫn tới những khiếm khuyết hoặc khuyết tật. Các kết quả nghiên cứu tổng quan diễn ngôn từ 39 bài báo thông qua phân tích nội dung được trình bày trong mục 2.2 dưới đây. Bảng 1. Tóm tắt kết quả của các nghiên cứu công bố về ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ khuyết tật (n = 27) Tác giả Nước Mẫu khảo Độ tuổi Loại ô nhiễm Ảnh hưởng sát (cỡ, tình (năm) không khí trạng) Becerra [8] California 7.603 trẻ tự 0-5 (được Ô nhiễm không khí Tiếp xúc trước sinh: (Mỹ) kỉ chẩn liên quan đến giao có liên quan đến đoán) thông RLPTK Chen [9] Trung 1.240 0-3 PM1, PM2.5 và PM10 Tiếp xúc trong 3 năm Quốc 124 trẻ tự kỉ đầu đời: tăng nguy cơ mắc RLPTK Emerson Anh 18.000 Sinh năm Ô nhiễm không khí Mắc KTTT cao hơn [10] 2000- ngoài trời đáng kể so với gia 147
  4. Phạm Thị Bền, Phạm Thị Vân, và Bùi Thị Anh Phương 2002 đình không có trẻ mắc KTTT Forns và Châu Âu 29.127 cặp Từ khi Nồng độ ô nhiễm Tiếp xúc trước sinh: cộng sự mẹ-con sinh không khí: NO2 và không gia tăng nguy (2018) 11] PM cơ ADHD Forns và Barcelona 4.391 trẻ 7-11 Ô nhiễm không khí Ô nhiễm không khí: cộng sự (Tây Ban ADHD liên quan đến giao gia tăng vấn đề hành (2016) 12] Nha) thông và tiếng ồn ở vi; tiếng ồn ở trường: trường học nhiều triệu chứng ADHD hơn. Genkinger Mỹ 151 6-9 Hydrocarbon thơm Có ảnh hưởng xấu đến [13] đa vòng sự phát triển thần kinh, rối loạn hành vi Jo và cs. California 246.420 Từ khi Ô nhiễm không khí Tăng tính nhạy cảm [14] sinh đến 5 O3 cùng với tiểu với nguy cơ RLPTK tuổi đường khởi phát sớm thai kì Kerin [15] Mỹ 227 2-5 NO2, PM2.5, PM10, NO2, PM2.5, PM10: trí 325 trẻ tự kỉ ozone, và ô nhiễm tuệ, hành vi thích ứng không khí gần giảm; độ nặng của đường lớn RLPTK: không ảnh hưởng Markevych Saxony, 66.823 2000- Ô nhiễm không khí Ảnh hưởng đến [16] Đức 2004 đến ngoài trời ADHD. 2014 Min [17] Hàn Quốc 8.936 Từ sinh PM10 và NO2 Tăng tỉ lệ mắc ADHD đến 10 thời thơ ấu. tuổi Mortamais Barcelona, 186 8-12 Hạt mịn PM2.5 Tiếp xúc trước sinh: [18] Tây Ban giảm thể tích bó dây Nha thần kinh, gia tăng hành vi. Newman Mỹ 762 Từ sinh Ô nhiễm không khí Tiếp xúc thời kì sơ [19] đến 7 tuổi liên quan đến giao sinh: điểm tăng động thông cao hơn. Oudin [20] Thụy Điển 48.571 Từ khi Ô nhiễm không khí: Tăng RLPTK, không sinh NO2 tăng nguy cơ ADHD. Oudin [21] Thụy Điển 552.221 < 18 Các chất ô nhiễm Tỉ lệ phải dùng thuốc NO2, PM10 và PM2.5 điều trị rối loạn tâm thần cao. Pagalan Canada 132.256 Từ khi Các chất ô nhiễm NO: tăng nguy cơ [22] sinh PM2.5, NO, và NO2 RLPTK, PM2.5 và NO2: không. Park [23] Hàn Quốc 7.200 trẻ 10- 19 Các chất ô nhiễm Tiếp xúc ngắn hạn: nhập viện có PM10, NO2 và SO2 trầm trọng thêm các ADHD biểu hiện ADHD. 148
  5. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn Perera [24] NewYork, 351 Từ mang Hydrocacbon thơm Cùng với bất lợi về Mỹ thai đến 9 đa vòng và điều kinh tế xã hội lúc đầu tuổi kiện kinh tế (thu đời: tăng mắc ADHD. nhập thấp) Perera [25] Krakow, 248 Từ mang Hydrocacbon thơm Cùng với mất tinh thần Ba Lan thai đến 9 đa vòng (PAH) trước sinh: ảnh hưởng tuổi rối loạn hành vi. Peterson Mỹ 727 cặp mẹ Từ mang Hydrocacbon thơm Tiếp xúc trước sinh: [26] con thai đến đa vòng (PAH) tốc độ xử lí chậm và 7-9 tuổi ADHD. Raz [27] Mỹ 1.255 Từ mang Ô nhiễm không khí Tiếp xúc lúc mang 245 trẻ tự kỉ thai dạng hạt (PM) thai, đặc biệt 3 tháng giữa thai kì: tỉ lệ mắc RLPTK cao hơn. Raz [28] Israel 2.098 Sinh năm NO2 Tiếp xúc sau sinh: 2005- mắc RLPTK cao hơn 2009 tiếp xúc trước sinh. Ren [29] Trung 657 Từ sinh Ô nhiễm không khí Tiếp xúc lúc mang Quốc đến ngoài trời: SO2, thai: tăng khó khăn 3-4 tuổi NO2, PM10 và PM2.5 hành vi, đặc biệt 3 tháng đầu. Ritz [30] Đan Mạch 15.387 trẻ tự Sinh năm Các chất ô nhiễm Tiếp xúc lúc sơ sinh kỉ 1989- không khí NO2, (không phải lúc mang 2013 SO2, PM10, PM2.5 thai): tăng nguy cơ chẩn đoán RLPTK và Asperger. Roberts London, 284 12-18 Các chất NO2 và Tiếp xúc lúc 12 tuổi: [31] Anh PM2.5 liên quan đến trầm cảm và rối loạn hành vi lúc 18 tuổi. Volk [32] California 245 2-5 Ô nhiễm không khí Tiếp xúc thời kì mang 279 trẻ tự kỉ liên quan đến giao thai và năm đầu đời: thông: NO NO2, liên quan đến RLPTK. PM2.5, PM10 von California 148.722 Từ khi Khí độc hại từ giao Tử cung người mẹ tiếp Ehrenstein sinh thông đô thị và khí xúc: tăng nguy cơ [33] thải công nghiệp RLPTK. Yousefian Iran 388 2-10 Ô nhiễm không khí Không ảnh hưởng tăng [34] 134 trẻ tự kỉ xung quanh dạng tỉ lệ mắc RLPTK. hạt và dạng khí Ghi chú. Các-bon mô-nô-xít (carbon monoxide, CO); hydrocarbon thơm đa vòng (polycyclic aromatic hydrocarbon, PAH); Ni-tơ đi-ô-xít (nitrogen oxides, NO NO2); lưu huỳnh đi-ô-xít (sulfur oxides, SO NO2); ô-zôn tầng bình lưu (ground-level ozone); vật chất dạng hạt hay bụi mịn (particle matter, PM) bao gồm PM1, PM2.5 và PM10; và khói sinh khối rắn (solid biomass smoke). RLPTK = Rối loạn phổ tự kỉ; KTTT = khuyết tật trí tuệ; ADHD = Tăng động giảm chú ý. 149
  6. Phạm Thị Bền, Phạm Thị Vân, và Bùi Thị Anh Phương Bảng 2. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới sức khoẻ thể chất và trí tuệ của trẻ em (n = 12) Tác giả Nước Mẫu khảo Độ tuổi Loại ô nhiễm Ảnh hưởng sát (cỡ, tình (năm) không khí trạng) Alvarez- Tây Ban 1.234 7-10 Ô nhiễm không khí PM2.5 và BC: giảm Pedrerol Nha liên quan đến giao nhận thức, trí nhớ công [35] thông: PM2.5, BC, việc; NO2: không NO2 Brabhukumr Ấn Độ 1 trường tiểu 6-8 Khói sinh khối rắn Trẻ có IQ thấp hơn [36] học Calderón- Mexico 139 11.91 ± PM2.5 Mất cân bằng não sớm, Garcidueñas 4.2 viêm nhiễm, Parkinson, [37] Alzheimer Chiu và cs. Mỹ 267 6.5 ± PM2.5 Trí nhớ và tập trung [38] 0.98 chú ý. de Bont [39] Tây Ban 2.660 7-10 PM2.5, NO2 và Liên quan đến thừa cân Nha PM10, cácbon, các và béo phì hạt siêu mịn Freire [40] Tây Ban 210 4 Ô nhiễm không khí Chức năng nhận thức Nha liên quan đến giao thông: NO2 Guxens [41] Tây Ban 1.889 Khoảng Ô nhiễm không khí Tiếp xúc trước sinh: Nha 14 dân cư: NO2 và ảnh hưởng xấu đến sự tháng Benzen phát triển trí não của trẻ sơ sinh Guxens [42] Hà Lan 783 Từ Dạng vật chất hạt Tiếp xúc thời kì bào mang mịn thai: thay đổi cấu trúc thai đến não của trẻ em 6-10 tuổi Harris [43] Mỹ 1.109 cặp mẹ Từ Ô nhiễm không khí Sống gần đường chính con mang liên quan đến giao lúc mang thai và đầu thai đến thông đời: IQ không lời và có 8 tuổi lời thấp hơn. Loftus [44] Mỹ 1.005 Từ khi Chất ô nhiễm Suy yếu sự phát triển sinh đến không khí PM10 thần kinh của thai nhi 4-6 tuổi Morales [45] Tây Ban 620 4,5 Ô nhiễm không khí Tiếp xúc trước sinh: Nha liên quan đến giao suy giảm chức năng thông: NO2, benzen phổi lâu dài ở tuổi mẫu giáo. Sunyer [46] Tây Ban 2.715 7- 10 Ô nhiễm không khí Cải thiện về phát triển Nha liên quan đến giao nhận thức ít hơn. thông 150
  7. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.1.1. Mô tả chung về các nghiên cứu Từ 39 bài báo đã khảo sát, nghiên cứu đã được ở các nước khác nhau ở các châu lục nhưng chủ yếu ở các nước phát triển. Cụ thể là: Mỹ (n =14), Tây Ban Nha (n = 8), Anh (n =2), Đức (n = 1), Hàn Quốc (n = 2), Thuỵ Điển (n = 2), Ấn Độ (n =1), Ba Lan (n = 1), Canada (n = 1), châu Âu (n = 1), Đan Mạch (n = 1), Iran (n = 1), Israel (n = 1), Hà Lan (n = 1), Mexico (n = 1), và Trung Quốc (n = 1). Khách thể khảo sát và cỡ mẫu khảo sát của 39 bài báo khảo sát trên dải phân bố lớn, nhỏ nhất là 139 khách thể đến nhiều nhất là 552.221 khách thể. Khách thể khảo sát ở 39 nghiên cứu được chia thành bốn nhóm chính. Nhóm thứ nhất là nhóm khách thể khảo sát thuộc mẫu dân số với số lượng lớn khách thể trong đó bao gồm tất cả trẻ em, không phân biệt về tình trạng sức khoẻ hay phát triển (n = 29/39 nghiên cứu). Nhóm thứ hai là các nghiên cứu thực hiện khảo sát trên khách thể là cặp mẹ con như trong nghiên cứu của Forns [11], Harris [43] và Peterson [26]. Nhóm thứ ba là các nghiên cứu có khách thể khảo sát bao gồm cả trẻ em được chẩn đoán ở một dạng khuyết tật nào đó và trẻ em không khuyết tật (5/39 nghiên cứu). Cụ thể, nghiên cứu của Chen [9] thực hiện trên 1.240 trẻ không tự kỉ và 124 trẻ rối loạn phổ tự kỉ, Kerin [15] thực hiện nghiên cứu với 227 trẻ không tự kỉ và 325 trẻ rối loạn phổ tự kỉ, Raz [27] thực hiện [ 1.255 trẻ không tự kỉ và 245 trẻ rối loạn phổ tự kỉ, Volk [32] thực hiện trên 245 trẻ không tự kỉ và 279 trẻ rối loạn phổ tự kỉ, và Yousefian [34] thực hiện trên 388 trẻ không tự kỉ và 134 trẻ rối loạn phổ tự kỉ. Nhóm thứ tư là các nghiên cứu thực hiện trên khách thể khảo sát đã được chẩn đoán là trẻ khuyết tật (4/39 nghiên cứu). Cụ thể, Ritz [30] nghiên cứu trên 15.387 trẻ rối loạn phổ tự kỉ, Park [23] khảo sát 7.200 trẻ có chẩn đoán ADHD nhập viện ở 16 vùng ở Hàn Quốc, nghiên cứu của Forns [12] thực hiện với 4.391 trẻ được chẩn đoán ADHD, và nghiên cứu của Becerra [1] thưc hiện khảo sát trên 7.603 trẻ rối loạn phổ tự kỉ. Về độ tuổi của mẫu khảo sát, hầu hết các nghiên cứu đều thực hiện theo dõi từ khi bà mẹ mang thai hoặc từ lúc sinh đến khi trẻ lớn đến 10 tuổi. Có một vài nghiên cứu thực hiện theo dõi đến khi trẻ 18-19 tuổi. Về thiết kế, 39 bài báo khảo sát sử dụng thiết kế nghiên cứu trường diễn, lát cắt ngang hoặc hồi cứu hồ sơ. Các bài báo sử dụng thiết kế nghiên cứu trường diễn đều theo dõi trong thời gian nhiều năm. Đối với nghiên cứu trường diễn, nghiên cứu Forns [11] theo dõi từ lúc bà mẹ mang thai đến khi trẻ 3 đến 10 tuổi. Nghiên cứu của Guxens [41] thực hiện nghiên cứu ở Hà Lan theo dõi từ khi mang thai đến khi trẻ 6 đến 10 tuổi. Nghiên cứu của Harris [43] theo dõi từ mang thai tới 8 tuổi. Tương tự, nghiên cứu theo dõi từ khi sinh đến 5 tuổi của Jo [14], đến 4-6 tuổi của Loftus [44], từ sinh đến 10 tuổi của Min [17], đến 7 tuổi của Newman [19], đến 3-4 tuổi của Ren [29]. Nghiên cứu của Alvarez-Pedrerol và cộng sự [35] được tiến hành trong 12 tháng với 4 lần đo trên 1.234 trẻ từ 7 đến 10 tuổi. Nghiên cứu hồi cứu hồ sơ của Becerra và cộng sự [1] đã trích xuất thông tin của trẻ sinh từ 1998 đến 2009 với 7.603 trẻ được chẩn đoán có rối loạn phổ tự kỉ lúc 3 đến 5 tuổi, nghiên cứu của Emerson [10] nghiên cứu hồi cứu tài liệu của trẻ sinh năm 2000-2002. Đối với thiết kế nghiên cứu theo lát cắt ngang, nghiên cứu của Brabhukumr [36] đo lường chỉ số trí tuệ ở trẻ em trong một trường tiểu học từ 6-9 tuổi. Chen [9] sử dụng thiết kế nhiều bước chọn mẫu ngẫu nhiên (multi-stage random sampling design) còn de Bont [39] khảo sát 2.660 trẻ trong năm 2012. 2.1.2. Loại ô nhiễm không khí được sử dụng để đo lường Trong 39 bài báo đã khảo sát, các loại ô nhiễm không khí được sử dụng để đo lường được chia thành hai nhóm chính là: ô nhiễm không khí ngoài trời và ô nhiễm không khí trong nhà. Ô nhiễm không khí được đề cập đến trong các bài báo cũng được chia theo nguồn sản sinh ra ô 151
  8. Phạm Thị Bền, Phạm Thị Vân, và Bùi Thị Anh Phương nhiễm là ô nhiễm không khí liên quan đến giao thông, ô nhiễm không khí do khí thải từ nấu nướng, ô nhiễm tiếng ồn, và ô nhiễm không khí liên quan đến khí thải công nghiệp. Các bài báo đã sử dụng nhiều chỉ số đo lường khác nhau để đo lường mức độ ô nhiễm không khí. Các chất độc hại thuộc ô nhiễm không khí được sử dụng làm chỉ số đo lường bao gồm: Ni-tơ đi-ô-xít (NO2); các bon đen (Black Carbon, BC); dạng vật chất hạt mịn (particulate matter, PM) như PM1, PM2.5, và PM10. Ngoài ra, các chất khác cũng được sử dụng để đo lường mức độ ô nhiễm không khí là: các bon; các loại hạt, loại bụi siêu mịn; lưu huỳnh đi-ô-xít (SO2); hi-đờ-rô các-bon thơm dạng vòng (polycyclic aromatic hydrocarbon, PAH); benzen, ô-dôn tầng bình lưu (ozone, O3); khói sinh khối rắn,… 2.1.3. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới các nhóm trẻ khuyết tật Ô nhiễm không khí được xem xét có mối liên quan trực tiếp đến nhiều dạng khuyết tật khác nhau ở trẻ em trong 27/39 bài báo đã khảo sát (Bảng 1). Dạng khuyết tật được xem xét mối liên quan đến ô nhiễm không khí nhiều nhất là rối loạn phổ tự kỉ, bao gồm cả trẻ tự kỉ chức năng cao Asperger (n = 13/39, 33%). Dạng khuyết tật thứ hai là tăng động giảm tập trung (ADHD) với 9/39 bài báo (23%). Rối loạn hành vi (n = 6/39, 15%) và khuyết tật trí tuệ (n = 1, 2.5%) cũng là các dạng khuyết tật được xem xét trong mối quan hệ với ô nhiễm không khí. Khi xem xét mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với hội chứng rối loạn phổ tự kỉ, kết quả từ 13/39 nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt nhau. Một mặt, các nghiên cứu kết luận có mối quan hệ thuận giữa tỉ lệ ô nhiễm không khí với nguy cơ cao mắc rối loạn phổ tự kỉ ở trẻ em. Việc tiếp xúc với ô nhiễm không khí ở các thời điểm khác nhau đều có mối quan hệ với nguy cơ cao mắc rối loạn phổ tự kỉ. Các thời điểm tiếp xúc bao gồm: giai đoạn trước sinh, trong thời kì thai kì (Becerra, Jo, Raz, Volk, và von Ehrenstein), giai đoạn từ khi sinh hoặc lúc sơ sinh (Oudin, Ritz, Volk) và những năm đầu đời (Chen, Raz, Volk). Các nghiên cứu này cũng chỉ ra loại ô nhiễm không khí cụ thể có mối quan hệ với nguy cơ tăng tỉ lệ mắc rối loạn phổ tự kỉ. Các loại ô nhiễm này bao gồm: Ô nhiễm không khí liên quan đến giao thông (Becerra), các loại vật chất dạng hạt hoặc bụi mịn như PM1, PM2.5, và PM10 (Chen, Raz), NO (Pagalan), NO2 (Oudin), và O3 (Jo). Ngoài ra, một số nghiên cứu còn chỉ ra loại ô nhiễm không khí đi kèm với bệnh lí nền cũng tăng nguy cơ mắc rối loạn phổ tự kỉ, ví dụ: tiếp xúc với ô nhiễm không khí O3 cùng với tiểu đường thai kì khởi phát sớm (Jo). Mặt khác, một số nghiên cứu kết luận không có mối quan hệ giữa tiếp xúc với một dạng ô nhiễm không khí nào đó với nguy cơ cao mắc rối loạn phổ tự kỉ ở trẻ em. Cụ thể, nghiên cứu của Pagalan cho rằng việc tiếp xúc với PM2.5 và NO2 không làm tăng nguy cơ mắc rối loạn phổ tự kỉ (nhưng tiếp xúc với NO thì có). Tương tự, nghiên cứu của Yousfian cũng khẳng định không có mối quan hệ giữa tỉ lệ mắc rối loạn phổ tự kỉ với việc tiếp xúc ô nhiễm không khí xung quanh dạng hạt và dạng khí. Nghiên cứu của Kerin khẳng định tiếp xúc với NO2, PM2.5, PM10, tầng ô-dôn và ô nhiễm không khí ở khu vực gần đường giao thông lớn có ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc rối loạn phổ tự kỉ nhưng không làm tăng độ nặng của dạng rối loạn này. Cũng giống như với nhóm rối loạn phổ tự kỉ, kết quả nghiên cứu từ 9/39 bài báo cũng cho thấy sự không nhất quán khi xem xét mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với hội chứng tăng động giảm tập trung (ADHD). Nghiên cứu của Markevych nghiên cứu theo dõi 66.823 trẻ em sinh năm 2000-2004 đến năm 2014 kết luận ô nhiễm không khí ngoài trời có ảnh hưởng đến tỉ lệ mắc ADHD. Tương tự, nghiên cứu của Min theo dõi trong 10 năm ở Hàn Quốc cũng khẳng định việc tiếp xúc với PM10 và NO2 làm tăng tỉ lệ mắc ADHD thời thơ ấu. Newman khẳng định tiếp xúc với ô nhiễm không khí từ giao thông giai đoạn trước sinh làm điểm đánh giá tăng động của trẻ em tăng cao. Trong nghiên cứu của Park, kết quả cho thấy không chỉ tiếp xúc dài hạn từ hơn 1 năm trở lên mà ngay cả việc tiếp xúc ngắn hạn trong vài tháng cũng làm trầm trọng thêm 152
  9. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn các biểu hiện của ADHD và nguy cơ mắc ADHD cao hơn khi tiếp xúc với các chất ô nhiễm không khí như PM10, NO2 và SO2. Ngoài ra, nghiên cứu của Perera và Peterson đều khẳng định việc tiếp xúc với độc khí hi-đờ-rô các-bon thơm đa vòng (PAH) ở giai đoạn đầu đời hoặc giai đoạn trước sinh đều làm tăng tỉ lệ mắc ADHD. Ngược lại, nghiên cứu của Forns và cs. (2018) cho thấy nồng độ ô nhiễm không khí NO2 và PM khi tiếp xúc trước sinh không gia tăng nguy cơ mắc ADHD nhưng Forns 2016 lại khẳng định trong một nghiên cứu ở 4.391 trẻ có chẩn đoán ADHD là do ảnh hưởng của tiếng ồn ở trường cũng làm tăng các biểu hiện và triệu chứng của ADHD hơn. Tương tự, Oudin cũng kết luận việc tiếp xúc với NO2 cũng không tăng nguy cơ mắc ADHD. Tuy nhiên, sự không nhất quán chỉ được đề cập về mối quan hệ giữa việc tiếp xúc NO2 với tỉ lệ mắc ADHD, còn các loại chất ô nhiễm không khí khác như PM, SO2, PAH,… đều nhất quán trong các kết quả nghiên cứu là có mối quan hệ với việc gia tăng nguy cơ mắc ADHD ở trẻ em. Kết quả nghiên cứu của Emerson cho thấy việc tiếp xúc với ô nhiễm không khí ngoài trời làm tăng tỉ lệ mắc khuyết tật trí tuệ ở trẻ em. Nghiên cứu trường diễn trong nhiều năm theo dõi những trẻ sinh năm 2000-2002 từ khi trẻ 7 tháng tuổi và lần lượt theo năm đợt khi trẻ lên 3, 5, 7, 11 và 14 tuổi. Cỡ mẫu khảo sát là 18.495 trẻ. Tất cả các trẻ được tham gia đánh giá để nhận diện khuyết tật trí tuệ qua nhiều năm bằng các trắc nghiệm khác nhau. Việc đánh giá đã nhận diện ra 647 trẻ khuyết tật trí tuệ (tỉ lệ 3.5%, trong đó bé trai nhiều hơn bé gái với tỉ lệ là 4.3% bé trai và 2.6% bé gái và tỉ số odds ratio là 1.67, 95% CI 1.42-1.96). Ô nhiễm không khí được đo lường trong nghiên cứu này là dựa vào các chỉ số đo lường hằng năm của PM10, NO2, SO2, và CO. Qua các nhóm tuổi, kết quả cho thấy trẻ khuyết tật trí tuệ trong nghiên cứu này có khoảng 33% sống ở vùng có tỉ lệ cao NO2, 30% sống ở vùng ô nhiễm CO và 17% sống ở vùng ô nhiễm SO2. Do vậy, nghiên cứu kết luận việc tiếp xúc với các khí ô nhiễm ngoài trời làm tăng nguy cơ mắc khuyết tật trí tuệ hơn so với những gia đình sống ở những vùng mà có mức độ thấp về ô nhiễm không khí. Rối loạn hành vi và cảm xúc cũng được xem xét trong mối quan hệ với việc tiếp xúc với ô nhiễm không khí. Nghiên cứu của Kerin cho thấy việc tiếp xúc với NO2, PM2.5 và PM10 làm giảm trí tuệ và hành vi thích ứng ở trẻ. Mortamais và cộng sự chỉ ra việc tiếp xúc PM2.5 trước sinh làm giảm thể tích bó dây thần kinh và từ đó làm gia tăng hành vi không phù hợp ở trẻ em. Tương tự, nghiên cứu của Ren và cộng sự cũng khẳng định có mối quan hệ giữa việc tiếp xúc với các chất ô nhiễm ngoài trời như SO2, NO2, PM10 và PM2.5 làm tăng khó khăn hành vi ở trẻ, ngay từ 3 tháng đầu đời. Không chỉ ở những năm đầu đời, Roberts và nhóm nghiên cứu còn cho thấy ảnh hưởng của việc tiếp xúc ô nhiễm không khí như NO2 và PM2.5 khi 12 tuổi cũng là nguyên nhân của những rối loạn hành vi và trầm cảm khi 18 tuổi. Nghiên cứu của Oudin cũng chỉ ra mối quan hệ giữa việc tiếp xúc với các chất ô nhiễm như NO2, PM10 và PM2.5 làm tăng tỉ lệ trẻ em và thiếu niên phải dùng thuốc điều trị rối loạn tâm thần phân liệt. Ngoài ra, số lượng bài báo (n = 12/39, 31%) không đề cập đến mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với dạng khuyết tật cụ thể nào nhưng lại chỉ ra những tổn thương nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển trí não và thể chất của trẻ em (Bảng 2). Những tổn thương nghiêm trọng ở não bộ có thể dẫn tới những khiếm khuyết hoặc khuyết tật liên quan đến trí tuệ, ngôn ngữ hoặc học tập của trẻ. Những tổn thương nghiêm trọng thuộc về chức năng ở não bộ được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau như sau. Alvarez-Pedrerol và cộng sự [35] nghiên cứu mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí liên quan đến giao thông ở trường và ở nhà với sự phát triển nhận thức khi trẻ đi bộ tới trường. Nghiên cứu chiều dài trong 12 tháng, đo 4 lần trên 1,234 trẻ từ 7-10 tuổi ở 39 trường học ở Tây Ban Nha. Nghiên cứu chỉ ra rằng PM2.5 và các-bon đen (BC) có liên quan đến việc suy giảm trí 153
  10. Phạm Thị Bền, Phạm Thị Vân, và Bùi Thị Anh Phương nhớ ngắn hạn của trẻ; vì thế, cần có đường đi bộ cho trẻ nhỏ tới trường và cung đường đó cần giảm lượng xe cộ để tăng độ an toàn và giảm việc tiếp xúc với ô nhiễm không khí từ giao thông. Brabhukumr [36] thực hiện nghiên cứu ở Ấn Độ trên trẻ 6-8 tuổi ở một trường tiểu học đo lường chỉ số trí tuệ thấp ở những trẻ tiếp xúc với nguồn khí ga chất rắn dùng cho nấu nướng so với nhóm không dùng khí đốt này. Nghiên cứu đã khẳng định việc tiếp xúc với nguồn khí ga chất rắn dùng trong nấu nướng có ảnh hưởng tới chỉ số trí tuệ của trẻ. Tương tự, nghiên cứu của Harris [43] cũng nhấn mạnh đến việc ảnh hưởng của ô nhiễm không khí từ giao thông có liên quan đến điểm chỉ số trí tuệ có lời và không lời của trẻ em. Ngoài điểm trí tuệ, các nghiên cứu chỉ ra những ảnh hưởng về nhận thức hoặc trí nhớ khi tiếp xúc với các chất ô nhiễm không khí. Chẳng hạn, nghiên cứu của Chiu và cộng sự [38] thực hiện nghiên cứu trên 267 trẻ em độ tuổi 6.5 ± 0.98 tuổi cho thấy các chất hạt vật chất PM2.5 có ảnh hưởng tới chức năng thần kinh thể hiện ở chức năng kém hơn ở lĩnh vực trí nhớ và tập trung chú ý. Nghiên cứu của Freire [40] chỉ ra mối quan hệ giữa việc tiếp xúc với NO2 với chức năng nhận thức của trẻ suy giảm. Chức năng nhận thức ít được cải thiện ở trẻ em khi tiếp xúc với ô nhiễm không khí liên quan đến giao thông cũng được nhấn mạnh trong nghiên cứu của Sunyer [46]. Các nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với cấu trúc não bộ của trẻ. Chẳng hạn, nghiên cứu của Calderón-Garcidueñas [37] cho thấy việc tiếp xúc với PM2.5 có thể dẫn tới mất cân bằng não sớm, viêm nhiễm. Nghiên cứu của Guxens [41], [42] chỉ ra việc tiếp xúc trước sinh với ô nhiễm không khí NO2, benzen và các dạng vật chất dạng bụi mịn làm thay đổi cấu trúc não của trẻ em. Tương tự, Loftus [44] chỉ ra mối quan hệ giữa ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới việc suy giảm, suy yếu sự phát triển của hệ thần kinh của thai nhi, từ đó có thể dẫn đến những khiếm khuyết về phát triển thể chất và nhận thức của trẻ. Ngoài ra, các vấn đề sức khoẻ khác có ảnh hưởng nghiêm trọng đến thể chất của trẻ em cũng được đề cập trong các nghiên cứu này. Tình trạng thừa cân, béo phì có liên quan đến ô nhiễm không khí khi tiếp xúc với PM2.5, NO2 và PM10, cácbon, các hạt siêu mịn được chỉ ra trong nghiên cứu của de Bont [39]. Sự suy giảm về chức năng của phổi lâu dài ở trẻ mẫu giáo khi tiếp xúc với các chất ô nhiễm không khí liên quan đến giao thông như NO2 và benzen trong nghiên cứu của Morales [45]. Như vậy, có thể thấy những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ khuyết tật ở các dạng là rối loạn phổ tự kỉ, tăng động giảm chú ý, rối loạn cảm xúc và hành vi, và khuyết tật trí tuệ. Ngoài ra, một số ảnh hưởng liên quan đến sự phát triển của trẻ em cũng được đề cập trong các nghiên cứu như vấn đề trí tuệ, sự phát triển não bộ, sự phát triển nhận thức, các vấn đề về bệnh lí như viêm phổi, hoặc béo phì ở trẻ em. Trên cơ sở nghiên cứu tổng quan diễn ngôn, các ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đã được liệt kê và mô tả trên một bình diện bao quát rộng. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng còn có những nhược điểm nhất định khi không thực hiện tổng quan hệ thống để có những phân tích một cách toàn diện và hệ thống. Nhược điểm thứ hai là tất cả những tài liệu tổng quan là tài liệu công bố bằng tiếng Anh thực hiện ở những nước phát triển nên có thể các kết quả và nhận định sẽ không sát với thực tiễn ô nhiễm không khí ảnh hưởng tới khuyết tật ở các nước đang phát triển. 3. Kết luận Ô nhiễm không khí là một trong những vấn đề toàn cầu không của riêng quốc gia nào. Phân tích nội dung cho thấy các nghiên cứu được thực hiện chủ yếu ở các nước phát triển, cỡ mẫu khảo sát lớn theo các độ tuổi từ lúc mang thai tới 19 tuổi theo thiết kế nghiên cứu trường diễn, lát cắt ngang và hồi cứu hồ sơ. Ô nhiễm không khí được xác định dựa vào các chỉ số của Ni-tơ đi-ô-xít, các bon đen, dạng vật chất dạng hạt mịn như PM1, PM2.5, PM10, lưu huỳnh đi-ô- 154
  11. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn xít, hi-đờ-rô các-bon thơm dạng vòng, ben zen, ô dôn tầng bình lưu. Kết quả của các nghiên cứu cho thấy ô nhiễm không khí có ảnh hưởng tới nguy cơ cao mắc rối loạn phổ tự kỉ, tăng động giảm tập trung chú ý, khuyết tật trí tuệ, rối loạn hành vi và cảm xúc bao gồm cả hội chứng trầm cảm và loạn thần. Ngoài ra, các nghiên cứu cũng chỉ ra ô nhiễm không khí còn có ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển trí não và sức khoẻ thể chất của trẻ em như suy yếu sự phát triển thần kinh của thai nhi, mất cân bằng não sớm, viêm nhiễm, thay đổi cấu trúc não bộ của thai nhi. Việc chỉ ra mối quan hệ giữa ô nhiễm không khí với tình trạng khuyết tật của trẻ em cho thấy ô nhiễm môi trường được xem xét như một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực tới nguyên nhân gây khuyết tật cũng như tác động tới tình trạng khuyết tật của trẻ. Việc chỉ ra mối quan hệ này góp phần thúc đẩy việc bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm bao gồm cả ô nhiễm không khí ở phạm vi quốc gia và toàn cầu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ghorani-Azam A., Riahi-Zanjani B., Balali-Mood M, 2016. “Effects of air pollution on human health and practical measures for prevention in Iran”. Journal of Research in Medical sciences: the official Journal of Isfahan University of Medical Sciences. 21. [2] Mai Hải Đăng, 2020. “Ô nhiễm không khí, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường”. VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 36, No. 1 (2020) 73-83. https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4281 [3] WHO, ‘A Global Assessment of Exposure and Burden of Disease: FAQs’ http://www. who.int/phe/health_topics/outdoorair/global- exposure-assessment-faq/en. [4] WHO, https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/household-air-pollution-and- health. [5] Yang, Z., Song, Q., Li, J., & Zhang, Y., 2019. Air pollution as a cause of obesity: Micro- level evidence from Chinese cities. International Journal of Environmental Research and Public Health, 16(21), 4296. https://doi.org/10.3390/ijerph16214296. [6] World Health Organization. International Classification of Functioning. Disability and Health (ICF). Geneva: 2001, WHO. [7] From systematic to narrative: Narrative Review. https://guides.library.uab.edu/c.php?g=63689&p=409774. [8] Becerra TA, Wilhelm M, Olsen J, Cockburn M, Ritz B. Ambient air pollution and autism in Los Angeles county, California. Environmental Health Perspectives. 2013 Mar;121(3):380-6. [9] Chen G, Jin Z, Li S, Jin X, Tong S, Liu S, Yang Y, Huang H, Guo Y. Early life exposure to particulate matter air pollution (PM1, PM2. 5 and PM10) and autism in Shanghai, China: A case-control study. Environment International. 2018;121:1121-7. [10] Emerson E, Robertson J, Hatton C, Baines S., 2019. Risk of exposure to air pollution among British children with and without intellectual disabilities. Journal of Intellectual Disability Research.;63(2):161-7. [11] Forns J, Sunyer J, Garcia-Esteban R, Porta D, Ghassabian A, Giorgis-Allemand L, Gong T, Gehring U, Sørensen M, Standl M, Sugiri D., 2019. Air pollution exposure during 155
  12. Phạm Thị Bền, Phạm Thị Vân, và Bùi Thị Anh Phương pregnancy and symptoms of attention deficit and hyperactivity disorder in children in Europe. Epidemiology ;29(5):618-26. [12] Forns J, Dadvand P, Foraster M, Alvarez-Pedrerol M, Rivas I, López-Vicente M, Suades- Gonzalez E, Garcia-Esteban R, Esnaola M, Cirach M, Grellier J., 2016. Traffic-related air pollution, noise at school, and behavioral problems in Barcelona schoolchildren: a cross- sectional study. Environmental Health Perspectives; 124(4):529-35. [13] Genkinger JM, Stigter L, Jedrychowski W, Huang TJ, Wang S, Roen EL, Majewska R, Kieltyka A, Mroz E, Perera FP., 2015. Prenatal polycyclic aromatic hydrocarbon (PAH) exposure, antioxidant levels and behavioral development of children ages 6–9. Environmental Research; 140:136-44. [14] Jo H, Eckel SP, Chen JC, Cockburn M, Martinez MP, Chow T, Lurmann FW, Funk WE, Xiang AH, McConnell R., 2019 Gestational diabetes mellitus, prenatal air pollution exposure, and autism spectrum disorder. Environment International; 133:105110. [15] Kerin T, Volk H, Li W, Lurmann F, Eckel S, McConnell R, Hertz-Picciotto I., 2018. Association between air pollution exposure, cognitive and adaptive function, and ASD severity among children with autism spectrum disorder. Journal of Autism and Developmental Disorders; 48(1):137-50. [16] Markevych I, Tesch F, Datzmann T, Romanos M, Schmitt J, Heinrich J., 2018. Outdoor air pollution, greenspace, and incidence of ADHD: A semi-individual study. Science of the Total Environment; 642:1362-8. [17] Min JY, Min KB., 2017. Exposure to ambient PM10 and NO2 and the incidence of attention-deficit hyperactivity disorder in childhood. Environment International; 99:221-7. [18] Mortamais M, Pujol J, Martínez-Vilavella G, Fenoll R, Reynes C, Sabatier R, Rivas I, Forns J, Vilor-Tejedor N, Alemany S, Cirach M., 2019. Effects of prenatal exposure to particulate matter air pollution on corpus callosum and behavioral problems in children. Environmental Research; 178:108734. [19] Newman NC, Ryan P, LeMasters G, Levin L, Bernstein D, Hershey GK, Lockey JE, Villareal M, Reponen T, Grinshpun S, Sucharew H., 2013. Traffic-related air pollution exposure in the first year of life and behavioral scores at 7 years of age. Environmental Health Perspectives; 121(6):731-6. [20] Oudin A, Frondelius K, Haglund N, Källén K, Forsberg B, Gustafsson P, Malmqvist E., 2019. Prenatal exposure to air pollution as a potential risk factor for autism and ADHD. Environment International; 133:105149. [21] Oudin A, Bråbäck L, Åström DO, Strömgren M, Forsberg B., 2016. Association between neighbourhood air pollution concentrations and dispensed medication for psychiatric disorders in a large longitudinal cohort of Swedish children and adolescents. BMJ open; 6(6):e010004. [22] Pagalan L, Bickford C, Weikum W, Lanphear B, Brauer M, Lanphear N, Hanley GE, Oberlander TF, Winters M., 2019. Association of prenatal exposure to air pollution with autism spectrum disorder. JAMA pediatrics; 173(1):86-92. 156
  13. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn [23] Park J, Sohn JH, Cho SJ, Seo HY, Hwang IU, Hong YC, Kim KN., 2020. Association between short-term air pollution exposure and attention-deficit/hyperactivity disorder- related hospital admissions among adolescents: A nationwide time-series study. Environmental Pollution; 266:115369. [24] Perera FP, Wheelock K, Wang Y, Tang D, Margolis AE, Badia G, Cowell W, Miller RL, Rauh V, Wang S, Herbstman JB., 2018, Combined effects of prenatal exposure to polycyclic aromatic hydrocarbons and material hardship on child ADHD behavior problems. Environmental Research;160:506-13. [25] Perera FP, Wang S, Rauh V, Zhou H, Stigter L, Camann D, Jedrychowski W, Mroz E, Majewska R., 2013. Prenatal exposure to air pollution, maternal psychological distress, and child behavior. Pediatrics;132(5):e1284-94. [26] Peterson BS, Rauh VA, Bansal R, Hao X, Toth Z, Nati G, Walsh K, Miller RL, Arias F, Semanek D, Perera F., 2015. Effects of prenatal exposure to air pollutants (polycyclic aromatic hydrocarbons) on the development of brain white matter, cognition, and behavior in later childhood. JAMA Psychiatry;72(6):531-40. [27] Raz R, Roberts AL, Lyall K, Hart JE, Just AC, Laden F, Weisskopf MG., 2015. Autism spectrum disorder and particulate matter air pollution before, during, and after pregnancy: a nested case–control analysis within the Nurses’ Health Study II cohort. Environmental Health Perspectives;123(3):264-70. [28] Raz R, Levine H, Pinto O, Broday DM, Weisskopf MG, 2018. Traffic-related air pollution and autism spectrum disorder: a population-based nested case-control study in Israel. American Journal of Epidemiology;187(4):717-25. [29] Ren Y, Yao X, Liu Y, Liu S, Li X, Huang Q, Liu F, Li N, Lu Y, Yuan Z, Li S., 2019. Outdoor air pollution pregnancy exposures are associated with behavioral problems in China’s preschoolers. Environmental Science and Pollution Research;26(3):2397-408. [30] Ritz B, Liew Z, Yan Q, Cuia X, Virk J, Ketzel M, Raaschou-Nielsen O., 2018. Air pollution and autism in Denmark. Environmental Epidemiology (Philadelphia, Pa.);2(4):e028. [31] Roberts S, Arseneault L, Barratt B, Beevers S, Danese A, Odgers CL, Moffitt TE, Reuben A, Kelly FJ, Fisher HL., 2019. Exploration of NO2 and PM2. 5 air pollution and mental health problems using high-resolution data in London-based children from a UK longitudinal cohort study. Psychiatry Research;272:8-17. [32] Volk HE, Lurmann F, Penfold B, Hertz-Picciotto I, McConnell R., 2013. Traffic-related air pollution, particulate matter, and autism. JAMA Psychiatry;70(1):71-7. [33] Von Ehrenstein OS, Aralis H, Cockburn M, Ritz B., 2014. In utero exposure to toxic air pollutants and risk of childhood autism. Epidemiology (Cambridge, Mass.);25(6):851. [34] Yousefian F, Mahvi AH, Yunesian M, Hassanvand MS, Kashani H, Amini H., 2018. Long-term exposure to ambient air pollution and autism spectrum disorder in children: A case-control study in Tehran, Iran. Science of The Total Environment;643:1216-22. [35] Alvarez-Pedrerol M, Rivas I, López-Vicente M, Suades-González E, Donaire-Gonzalez D, Cirach M, de Castro M, Esnaola M, Basagaña X, Dadvand P, Nieuwenhuijsen M., 2017. 157
  14. Phạm Thị Bền, Phạm Thị Vân, và Bùi Thị Anh Phương Impact of commuting exposure to traffic-related air pollution on cognitive development in children walking to school. Environmental Pollution;231:837-44. [36] Brabhukumr A, Malhi P, Ravindra K, Lakshmi PV., 2020. Exposure to household air pollution during first 3 years of life and IQ level among 6–8-year-old children in India–A cross-sectional study. Science of The Total Environment;709:135110. [37] Calderón-Garcidueñas L, Mora-Tiscareño A, Ontiveros E, Gómez-Garza G, Barragán- Mejía G, Broadway J, Chapman S, Valencia-Salazar G, Jewells V, Maronpot RR, Henríquez-Roldán C., 2008. Air pollution, cognitive deficits and brain abnormalities: a pilot study with children and dogs. Brain and Cognition;68(2):117-27. [38] Chiu YH, Hsu HH, Coull BA, Bellinger DC, Kloog I, Schwartz J, Wright RO, Wright RJ., 2016. Prenatal particulate air pollution and neurodevelopment in urban children: examining sensitive windows and sex-specific associations. Environment international;87:56-65. [39] De Bont J, Casas M, Barrera-Gómez J, Cirach M, Rivas I, Valvi D, Álvarez M, Dadvand P, Sunyer J, Vrijheid M., 2019. Ambient air pollution and overweight and obesity in school-aged children in Barcelona, Spain. Environment International;125:58-64. [40] Freire C, Ramos R, Puertas R, Lopez-Espinosa MJ, Julvez J, Aguilera I, Cruz F, Fernandez MF, Sunyer J, Olea N, 2010. Association of traffic-related air pollution with cognitive development in children. Journal of Epidemiology & Community Health;64(3):223-8. [41] Guxens M, Aguilera I, Ballester F, Estarlich M, Fernández-Somoano A, Lertxundi A, Lertxundi N, Mendez MA, Tardón A, Vrijheid M, Sunyer J., 2012. Prenatal exposure to residential air pollution and infant mental development: modulation by antioxidants and detoxification factors. Environmental health perspectives;120(1):144-9. [42] Guxens M, Lubczyńska MJ, Muetzel RL, Dalmau-Bueno A, Jaddoe VW, Hoek G, van der Lugt A, Verhulst FC, White T, Brunekreef B, Tiemeier H., 2018. Air pollution exposure during fetal life, brain morphology, and cognitive function in school-age children. Biological Psychiatry;84(4):295-303. [43] Harris MH, Gold DR, Rifas-Shiman SL, Melly SJ, Zanobetti A, Coull BA, Schwartz JD, Gryparis A, Kloog I, Koutrakis P, Bellinger DC. 2015. Prenatal and childhood traffic- related pollution exposure and childhood c,ognition in the project viva cohort (Massachusetts, USA). Environmental Health Perspectives;123(10):1072-8. [44] Loftus CT, Hazlehurst MF, Szpiro AA, Ni Y, Tylavsky FA, Bush NR, Sathyanarayana S, Carroll KN, Karr CJ, LeWinn KZ., 2019. Prenatal air pollution and childhood IQ: Preliminary evidence of effect modification by folate. Environmental Research;176:108505. [45] Morales E, Garcia-Esteban R, de la Cruz OA, Basterrechea M, Lertxundi A, de Dicastillo MD, Zabaleta C, Sunyer J., 2015. Intrauterine and early postnatal exposure to outdoor air pollution and lung function at preschool age. Thorax;70(1):64-73. [46] Sunyer J, Esnaola M, Alvarez-Pedrerol M, Forns J, Rivas I, López-Vicente M, Suades- González E, Foraster M, Garcia-Esteban R, Basagaña X, Viana M., 2015. Association between traffic-related air pollution in schools and cognitive development in primary school children: a prospective cohort study. PLoS Medicine;12(3):e1001792. 158
  15. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới trẻ em khuyết tật: Nghiên cứu tổng quan diễn ngôn ABSTRACT Impacts of air pollution on children with disabilities: A narrative review Pham Thi Ben1, Pham Thi Van2 and Bui Thi Anh Phuong1 1 Faculty of Special Education, Hanoi National University of Education, 2 VietSpeech EDU Ltd., Air pollution is one of the global problems with adverse effects on many aspects of human life, on different population groups and on the ecology of animals and plants. The effects of air pollution on disadvantaged communities in society such as children with disabilities are also considered. This paper describes the research results on the effects of air pollution on children with disabilities through narrative review and content analysis from 39 articles published from 2010 to 2020. Results showed that most studies were conducted in developed countries from the large survey sample sizes in wide age ranges from from pregnancy to 19 years of age in longitudinal, cross-sectional and retrospective study designs. Air pollution is determined based on the indicators of nitrogen dioxide (NO2), black carbon (BC), fine particulate matter (PM) such as PM1, PM2.5, PM10, sulfur dioxide (SO2), polycyclic aromatic hydrocarbon (PAH), benzene, ground-level ozone and solid biomass smoke. Results from the review showcased that air pollution has an effect on a high risk of autism spectrum disorders, attention deficit hyperactivity disorder, intellectual disability, behavioral and emotional disorders including depression and psychosis. In addition, studies have also shown that air pollution has serious effects on children's brain development and physical health such as impaired fetal neural development, premature brain imbalance, inflammation, and changes in fetal brain structure. Showing the relationship between air pollution and children's disability may indicate that environmental pollution is considered as a factor that negatively affects the disability etiology and severity. Showing this relationship contributes to promoting environmental protection, reducing pollution including air pollution at national and global scale. Keywords: air pollution, children, disability, impact, narrative review. 159
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2