intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Áp dụng IFRS tại Việt Nam – Những thách thức

Chia sẻ: Sở Trí Tu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

42
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đưa ra những lợi ích, để áp dụng IFRS tại Việt Nam các doanh nghiệp phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Việc nhìn nhận được những khó khăn, thách thức sẽ giúp chúng ta cùng tìm ra giải pháp hiệu quả để sớm đưa IFRS vào áp dụng tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Áp dụng IFRS tại Việt Nam – Những thách thức

  1. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam ÁP DỤNG IFRS TẠI VIỆT NAM – NHỮNG THÁCH THỨC #Ths. Trần Thị Hồng Vân - Ths. Phùng Thị Hiền Khoa Kế toán, Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Công nghiệp IFRS là hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính (BCTC) quốc tế được Hội đồng Chuẩn mực Kế toán quốc tế (IASB) ban hành lần đầu tiên vào năm 2000, nhằm mục tiêu hình thành một hệ thống chuẩn mực kế toán chung, có chất lượng cao và có thể áp dụng trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, khi mà nền kinh tế đang bước vào giai đoạn hội nhập mạnh mẽ thì việc áp dụng IFRS là cần thiết và tất yếu. Việc sử dụng IFRS mang lại những lợi ích khá rõ, như: Tiết kiệm chi phí soạn thảo chuẩn mực và nhanh chóng hòa nhập vào chuẩn mực kế toán quốc tế được chấp nhận; sự hội nhập về kế toán giúp cho các doanh nghiệp (DN) mở rộng khả năng huy động vốn trên thị trường quốc tế. Bên cạnh những lợi ích, để áp dụng IFRS tại Việt Nam các DN phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Việc nhìn nhận được những khó khăn, thách thức sẽ giúp chúng ta cùng tìm ra giải pháp hiệu quả để sớm đưa IFRS vào áp dụng tại Việt Nam. Những thách thức đối với Việt Nam khi triển khai áp dụng IFRS Thứ nhất, năng lực nguồn nhân sự: Xây dựng một đội ngũ nhân viên có năng lực không phải DN nào cũng có thể đáp ứng được, việc áp dụng IFRS được coi là rất phức tạp. Kế toán viên Việt Nam sẽ gặp nhiều khái niệm mới và các phương pháp hạch toán mới không có trong hệ thống kế toán Việt Nam vốn được biết đến là hệ thống kế toán tuân theo quy định. Thay vào đó, phương pháp hạch toán các giao dịch theo IFRS dựa trên bản chất của giao dịch, do đó yêu cầu phải có xét đoán và đánh giá mang tính phân tích của cán bộ quản lý. Thứ hai, hạ tầng cơ sở thông tin: Đại đa số các DN tại Việt Nam là các DN vừa và nhỏ, phần mềm kế toán của DN còn mang tính thủ công nhiều, hệ thống kết nối thông tin chưa đủ mạnh để có thể cập nhật các thông tin tài chính kịp thời và đầy đủ. Thứ ba, cơ chế chính sách còn chưa hoàn thiện, hành lang pháp lý chưa mở, chưa có các cơ chế khuyến khích DN áp dụng. Các chỉ tiêu trong IFRS thay đổi khá thường xuyên, nên khiến các DN tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí để có thể đáp ứng. Một số kỹ thuật đặc biệt của IFRS còn chưa có căn cứ pháp lý để thực hiện, ví dụ việc ghi nhận tổn thất tài sản, việc kế toán các công cụ phái sinh cho mục đích phòng ngừa rủi ro, việc ghi nhận giá trị hợp lý của một số tài sản tài chính, bất động sản đầu tư hoặc tài sản sinh học đều chưa được hướng dẫn chi tiết, cụ thể. Thứ tư, vấn đề nội tại của IFRS: Một thách thức lớn khác từ bài học kinh nghiệm của châu Âu là, nhiều quốc gia ngần ngại áp dụng IFRS bởi sự phức tạp trong mỗi yêu cầu của nó. Việc áp dụng IFRS cũng làm thay đổi kế toán của từng nước và việc áp dụng kế toán dựa trên nguyên tắc là thách thức đối với một số quốc gia do họ đã quá quen với kế toán dựa trên các quy định bắt buộc. Hơn nữa, nhiều chuẩn mực kế toán trong IFRS đang hướng tới việc ghi nhận theo giá trị hợp lý hơn là ghi nhận theo giá gốc. 163
  2. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Thứ năm, các cơ sở đào tạo tại Việt Nam hiện chưa có chương trình đào tạo IFRS một cách hệ thống. Mới chỉ có một số các tổ chức nghề nghiệp quốc tế như ACCA, CPA Australia, ICAEW có chương trình đào tạo IFRS cho một số học viên. Một số công ty kiểm toán cũng mới chỉ đào tạo chủ yếu cho nhân viên công ty. Tuy nhiên, đại bộ phận kế toán viên tại các DN là những người trực tiếp lập BCTC đều chưa được đào tạo và tiếp cận IFRS. Hầu như các trường đại học chưa triển khai việc đào tạo IFRS cho sinh viên. Hơn nữa, một thách thức cơ bản trong giảng dạy kế toán trên phạm vi toàn cầu là việc người dạy kế toán phải có kiến thức tốt để giảng dạy IFRS bằng việc sử dụng phương pháp dựa trên các nguyên tắc. Thứ sáu, thị trường hoạt động: Việc thực hiện các mô hình đánh giá của IFRS trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng là một trong những thách thức phải kể đến. Tại Việt Nam chưa tồn tại thị trường hoạt động thực sự cho các loại tài sản nên việc xác định Giá trị hợp lý của tài sản làm cơ sở áp dụng mô hình đánh giá lại sẽ gặp nhiều khó khăn và có thể độ tin cậy chưa cao. Ngoài ra, không phải tất cả các DN đều có khả năng đánh giá lại tài sản cố định. Nguyên nhân đầu tiên đó là do chi phí để thực hiện việc này khá tốn kém và ở Việt Nam còn thiếu các tổ chức định giá độc lập có uy tín để có thể thực hiện việc định giá các tài sản cố định. Thứ bảy, rào cản ngôn ngữ, sự khác biệt về văn hóa: DN Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế và giao thương quốc tế thường gặp phải nhiều trở ngại, một trong số đó là sự bất đồng ngôn ngữ, sự khác biệt về văn hóa. Hiện nay IFRS được soạn thảo và ban hành bằng tiếng Anh, trong khi không phải kế toán và ngay cả người quản lý DN nào cũng biết và hiểu rõ các nội dung, thuật ngữ được sử dụng trong IFRS. Đây là một trong những nguyên nhân mà chính bản thân nó đã chứa đựng các rủi ro tiềm ẩn do các bên liên quan không thể hiểu hoặc hiểu không đúng về nhau. Trở ngại tuy nhỏ mà lớn, nhưng không có nhiều DN Việt Nam coi việc giải quyết sự bất đồng ngôn ngữ là một kế hoạch lớn cần phải được đầu tư giải quyết từ gốc. Bên cạnh đó, một trong những lý do các DN vẫn chưa sẵn sàng áp dụng IFRS đó là chi phí cho việc áp dụng IFRS. Mặc dù, IFRS làm tăng tính minh bạch tài chính cho người sử dụng BCTC trên toàn thế giới, một số DN cho rằng hệ thống kế toán IFRS là quá phức tạp. Đối với một số DN vừa và nhỏ, việc đầu tư vào hệ thống kế toán IFRS khá tốn kém, bao gồm chi phí đào tạo nhân viên, tuyển chuyên viên kế toán có trình độ, cũng như các chi phí nâng cấp công nghệ nhằm hỗ trợ với các tiêu chuẩn BCTC mới. Ngoài ra, việc chưa có thị trường trái phiếu phát triển và các công cụ hỗ trợ, chi phí chuyển đổi (đào tạo, kinh phí hỗ trợ, phí kiểm toán và tư vấn), thời gian chuyển đổi và áp dụng, thời gian thực hiện báo cáo theo IFRS… cũng là những thách thức gặp phải khi tiến hành áp dụng IFRS tại Việt Nam hiện nay. Một số đề xuất, kiến nghị áp dụng IFRS tại Việt Nam Với sức ép và sự giám sát ngày càng cao của các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý, trong khi việc chuyển đổi sang IFRS cần nhiều thời gian, DN không thể bỏ qua vấn đề này nếu muốn thành công trong môi trường cạnh tranh. Việc lập lộ trình để áp dụng IFRS, bao gồm chuẩn bị nhân lực, đào tạo và xây dựng hệ thống... là cấp bách và bắt buộc. Như đã đề cập ở trên, DN cần xây dựng đội ngũ nhân viên kế toán có năng lực và trình độ. Các DN cần phải đầu tư vào việc đào tạo chuyên môn cho nhân viên kế toán theo 164
  3. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam hướng tiếp cận sâu rộng tới các IFRS, cũng như tạo điều kiện để nhân viên kế toán thường xuyên học tập, bồi dưỡng cập nhật kiến thức, nâng cao năng lực chuyên môn. Bên cạnh đó, các DN cần thiết lập hệ thống và qui trình để đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực kế toán áp dụng. Việc quản lý công tác BCTC, trong đó có yêu cầu tuân thủ và kiểm toán nội bộ, cần được tăng cường nhằm đảm bảo tính trung thực của BCTC. Tiếp đến là việc chuẩn bị hạ tầng cơ sở thông tin. Hệ thống lưu trữ thông tin trong DN phải đảm bảo có thể lưu trữ toàn bộ dữ liệu liên quan của các giao dịch, đảm bảo việc xử lý giao dịch đầy đủ, chính xác và chi tiết. Về hoàn thiện cơ chế, chính sách: Trên thực tế, Việt Nam đã và đang có những bước đi tích cực, để sẵn sàng tiến tới áp dụng rộng rãi IFRS. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và quốc tế, công cụ kế toán và kiểm toán của Việt Nam đã được cải cách và hoàn thiện phù hợp, trong đó đặc biệt là việc áp dụng chuẩn mực kế toán về kế toán, kiểm toán đã được luật hóa. Mặt khác, chiến lược phát triển kế toán, kiểm toán Việt Nam đến 2020, tầm nhìn 2030 đã khẳng định Việt Nam quyết tâm áp dụng IFRS. Luật Kế toán 2015 có hiệu lực từ 01/1/2017 đã bổ sung nguyên tắc giá trị hợp lý. Đây là bước chuẩn bị chủ động, cần thiết để tiến tới áp dụng rộng rãi IFRS tại Việt Nam. Tuy nhiên, kỹ thuật tính toán, đánh giá như thế nào lại cần được làm rõ, có ví dụ cụ thể, dễ hiểu hơn. Việc thực hiện theo IFRS thực sự là một thách thức về mức độ phát triển của thị trường, trình độ, năng lực của kiểm toán viên, kế toán viên và cả các nhà đầu tư trên thị trường. Đối với thị trường chứng khoán, việc lập và trình bày BCTC theo IFRS sẽ hỗ trợ nâng cao tính công khai, minh bạch và bền vững của thị trường. Tuy nhiên, việc chuyển đổi BCTC được lập theo VAS sang IFRS đòi hỏi nỗ lực không nhỏ từ các DN và những người làm công tác tài chính kế toán. Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo tại Việt Nam hiện cần có chương trình đào tạo IFRS một cách hệ thống. Người dạy cũng phải tự tích lũy các kiến thức về IFRS. Các cơ sở đào tạo và người dạy kế toán cần thay đổi chương trình đào tạo theo hướng giảng dạy, dựa trên chuẩn mực chung và sử dụng nguồn tài liệu đa dạng cho giảng dạy IFRS. Để đạt được mục tiêu này, người dạy kế toán cần phải tiếp cận đến các phương pháp giảng dạy sáng tạo như mô phỏng, đóng vai, học dựa trên giải quyết vấn đề, phân tích trường hợp điển hình với nhiều giải pháp thay thế, trình bày trên lớp... Cánh cửa hội nhập đã rộng mở, song rào cản lớn của các DN Việt Nam đang gặp phải là ngôn ngữ, cũng là rào cản của các DN nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Các trường đại học và các cơ sở giáo dục khác cần thiết đẩy mạnh việc đào tạo ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh để đáp ứng yêu cầu hội nhập. Khuyến nghị ít nhất 20% các môn học chuyên ngành sẽ được dạy bằng tiếng Anh, sinh viên bắt buộc phải thi đỗ mới có thể tốt nghiệp. Nhà nước và các cơ quan liên quan cần từng bước hoàn chỉnh hệ thống thị trường hoạt động, đồng bộ và minh bạch hóa hành lang pháp lý kinh doanh. Thị trường hàng hóa và thị trường tài chính Việt Nam phải được xây dựng ngày càng hoạt động để đáp ứng nhu cầu tìm kiếm các dữ liệu tham chiếu trong đo lường Giá trị hợp lý làm cơ sở áp dụng mô hình định giá tài sản tại Việt Nam. 165
  4. n trÞ - Kinh nghiÖm quèc tÕ vµ thùc tr¹ng ë ViÖt Nam Thêm một vấn đề đặt ra đó là ban hành chuẩn mực cần phải dễ hiểu, phù hợp và cập nhật với các ngôn ngữ khác nhau chứ không chỉ là tiếng Anh. Việc dịch tài liệu và các vấn đề thể chế như các rào cản chính trị, văn hóa và luật pháp là những vấn đề cần quan tâm trong lĩnh vực đào tạo, khi hệ thống chuẩn mực kế toán được chấp nhận toàn cầu được áp dụng. Bộ Tài chính cần Việt hóa các IFRS một cách dễ hiểu, đơn giản hóa, làm rõ thêm các nội dung trong IFRS để các DN dễ dàng hơn trong việc triển khai nghiên cứu, áp dụng chuyển đổi các nội dung kế toán, cũng như lập BCTC theo chuẩn mực chung của quốc tế. Ngoài ra, các DN nên tập trung vào những lợi ích lâu dài chứ không nên quá chú trọng đến chi phí ngắn hạn không thể tránh khỏi và những thách thức về mặt thực hiện. Hơn nữa, Nhà nước và các tổ chức liên quan cần tích cực thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, đào tạo, tăng cường các hội thảo nhằm nâng cao nhận thức tới DN về áp dụng IFRS. Kết luận Việc áp dụng IFRS giúp tăng cường khả năng so sánh và tính minh bạch của hoạt động BCTC. Các BCTC lập theo IFRS được chấp nhận rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới. Các yếu tố này là điều kiện tiên quyết để tiếp cận thị trường vốn quốc tế. Thông qua áp dụng IFRS, các công ty ở Việt Nam sẽ có thể tăng khả năng hội nhập kinh tế thế giới như mở rộng tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững. Điều này củng cố sự ổn định của nền kinh tế Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam chỉ mới có một số ngân hàng thương mại cổ phần, các công ty niêm yết quy mô lớn và tổ chức có giao dịch với những đối tác quốc tế đã thực hiện áp dụng IFRS. Tuy nhiên, con đường tiến tới IFRS là con đường tất yếu của Việt Nam, đòi hỏi sự nỗ lực của các DN để bảo đảm có đội ngũ nhân lực phù hợp nhằm hỗ trợ việc chuẩn bị BCTC theo chuẩn IFRS. Việc nhìn nhận được những khó khăn, thách thức sẽ giúp các chúng ta cùng tìm ra giải pháp để sớm đưa IFRS vào áp dụng và áp dụng có hiệu quả tại Việt Nam. ----------------------------- Tài liệu tham khảo 1. Deaconu Adela, Principles and Rules-based Accounting Debate: Implications for an Emergent Country, The Journal of the Faculty of Economics, 1 (1): 602-608, (2011). 2. Trần Mạnh Dũng & Nguyễn Thúy Hồng, IFRS: 10 năm áp dụng và bình luận, Tạp chí Kế toán & Kiểm toán, Số 143, trang 27-29, (2015). 3. Thông cáo báo chí Hội thảo chuẩn mực BCTC quốc tế - Những thách thức và kinh nghiệm áp dụng. 4. Báo cáo Hội thảo kinh nghiệm triển khai IFRS tại các nước đang phát triển. 5. http://www.ifrs.org/use-around-the-world/pages/analysis-of-the-ifrs-jurisdictional-profiles.aspx 166
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2