BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

TRƯƠNG NGỌC PHONG

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP THUẾ TIÊU THỤ

ĐẶC BIỆT LÊN MẶT HÀNG NƯỚC GIẢI KHÁT

CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT

TRƯƠNG NGỌC PHONG

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP THUẾ TIÊU THỤ

ĐẶC BIỆT LÊN MẶT HÀNG NƯỚC GIẢI KHÁT

CÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Chính sách công

Mã số: 60340402

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. ĐINH CÔNG KHẢI

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn này là hoàn toàn do tôi thực hiện. Các trích dẫn và nguồn số

liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất trong khả

năng hiểu biết của tôi. Đây là nghiên cứu chính sách của cá nhân, do đó không nhất thiết

phản ánh quan điểm của Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh hay Chương

trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 25 tháng 06 năm 2015

Tác giả

Trương Ngọc Phong

ii

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, tôi đã nhận

được sự giảng dạy tận tình từ các Giảng viên, và thái độ ân cần của các nhân viên phục vụ.

Nhân đây, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với những người đã giúp đỡ tôi rất nhiều

trong quá trình học tập, nghiên cứu, và hoàn thành luận văn này.

Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Đinh Công Khải. Với vai trò là người

hướng dẫn khoa học, Thầy đã giúp tôi hình thành hướng nghiên cứu, phương pháp, và

những ý kiến phản biện sâu sắc để tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới quý Thầy, Cô và nhân viên làm việc tại Chương trình

Giảng dạy Kinh tế Fulbright vì đã truyền cho tôi nhiều kiến thức quí giá và hỗ trợ tôi rất

nhiệt tình trong thời gian học tập tại Trường.

Tôi cũng xin dành những lời cảm ơn đến Thầy Huỳnh Thế Du, Thầy Đỗ Thiên Anh Tuấn

đã có những góp ý sâu sắc trong quá trình hình thành ý tưởng nghiên cứu của tôi.

Cảm ơn những anh chị cùng học tập tại Chương trình Fulbright trong lớp MPP6 về sự hỗ

trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.

Và cuối cùng, cảm ơn những người thân trong gia đình vì họ là nguồn động viên đối với

tôi trong suốt thời gian học tập xa nhà.

Học viên Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Trương Ngọc Phong

iii

TÓM TẮT

Nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả kinh tế của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối

với mặt hàng nước giải khát tại Việt Nam, và xem xét Chính phủ có nên hay không áp thuế

tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng này. Tác giả sử dụng khung phân tích kinh tế học về thuế

được Stiglitz (1986) đề xuất, kết hợp với phân tích định lượng về cầu tiêu dùng nước giải

khát tại Việt Nam để trả lời các câu hỏi chính sách: (1) Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt

lên mặt hàng nước giải khát có phải là một chính sách thuế hiệu quả? (2) Tác động kinh tế

của thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát sẽ như thế nào? và (3) Chính phủ

Việt Nam có nên áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên nước giải khát hay không? Dữ liệu VHLSS

2010 được sử dụng để ước lượng độ co giãn của cầu theo giá và theo thu nhập cho mặt

hàng nước giải khát làm cơ sở cho phân tích các tiêu chí của một chính sách thuế hiệu quả.

Kết quả nghiên cứu cho thấy mặt hàng nước giải khát có cầu co giãn mạnh theo giá, không

phải là mặt hàng xa xỉ, và khó có thể kết luận tồn tại ngoại tác tiêu cực khi sử dụng sản

phẩm này. Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích 3 tiêu chí quan trọng trong 5 tiêu chí của một

chính sách thuế hiệu quả là tính kinh tế, tính công bằng, và tính đơn giản (khả thi). Trong

ba tính chất quan trọng của chính sách thuế hiệu quả có 2 tính chất mà chính sách thuế tiêu

thụ đặc biệt nếu áp dụng lên mặt hàng nước giải khát sẽ không đạt được là (1) tính kinh tế

và (2) tính công bằng; tiêu chí (3) tính đơn giản sẽ khó đạt được trong trường hợp chính

phủ sử dụng các mức thuế suất phân biệt cho từng loại nước giải khát.

Từ kết quả nghiên cứu, các khuyến nghị chính sách được đề xuất là: (1) Nhà quản lý không

nên thực hiện chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát ở thời điểm

hiện tại; (2) Cơ quan thuế nên theo đuổi chính sách thuế không gây biến dạng tiêu dùng

như thuế doanh thu, hoặc cải cách chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp để tăng nguồn

thu từ các nhà sản xuất sản phẩm nước giải khát; (3) Các nhà hoạch định chính sách nên

tập trung thiết kế các chính sách làm giảm giá mặt hàng sữa để khuyến khích người dân sử

dụng sản phẩm có lợi cho sức khỏe nhiều hơn. Cuối cùng nghiên cứu này cũng đề xuất

hướng nghiên cứu tiếp theo để đánh giá chính xác hơn các tác động kinh tế của thuế đến

ngành nước giải khát là tập trung nghiên cứu phía cung và nghiên cứu các trở ngại trong

công tác hành thu.

Từ khóa: Thuế tiêu thụ đặc biệt, Nước giải khát, Chính sách thuế hiệu quả, Hàm cầu, Độ

co giãn

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN........................................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................. ii

TÓM TẮT .................................................................................................................................. iii

MỤC LỤC ................................................................................................................................. iv

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT .................................................................. vii

CÁC KHÁI NIỆM .................................................................................................................. viii

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU ............................................................................................ ix

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH ................................................................................. x

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ....................................................................................................... 1

1.1 Bối cảnh và vấn đề chính sách......................................................................................... 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ......................................................................................................... 2

1.3 Câu hỏi nghiên cứu........................................................................................................... 2

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 2

1.5 Khung phân tích, phương pháp nghiên cứu, và dữ liệu nghiên cứu ............................. 2

1.6 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu .................................................................................... 3

1.7 Cấu trúc luận văn .............................................................................................................. 3

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT ......................................................................................... 4

2.1. Giới thiệu ......................................................................................................................... 4

2.2 Khung phân tích Kinh tế học về thuế ............................................................................. 4

2.3 Thuế tiêu thụ đặc biệt ...................................................................................................... 6

2.4 Chính sách thuế đối với nước giải khát trên thế giới ..................................................... 7

2.5 Lý thuyết hàm cầu tiêu dùng ........................................................................................... 8

2.6 Các mô hình nghiên cứu cầu tiêu dùng .......................................................................... 8

2.6.1 Mô hình phương trình đơn ....................................................................................... 8

v

2.6.2 Các mô hình hàm cầu hệ thống (Demand Systems)............................................... 9

2.7 Tổng quan các nghiên cứu liên quan ............................................................................ 10

2.7.1 Nghiên cứu ngoài nước .......................................................................................... 10

2.7.2 Nghiên cứu trong nước........................................................................................... 13

2.8 Tóm tắt chương .............................................................................................................. 15

CHƯƠNG 3. MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ ƯỚC LƯỢNG ............. 16

3.1 Giới thiệu chương .......................................................................................................... 16

3.2 Sơ đồ nghiên cứu ........................................................................................................... 16

3.3 Lựa chọn mô hình nghiên cứu ...................................................................................... 18

3.4 Các giả thuyết nghiên cứu ............................................................................................. 22

3.5 Dữ liệu nghiên cứu......................................................................................................... 22

3.6 Vấn đề ước lượng........................................................................................................... 24

3.7 Các thủ tục ước lượng mô hình ..................................................................................... 25

3.8 Tóm tắt chương .............................................................................................................. 26

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN .................................................. 27

4.1 Giới thiệu chương .......................................................................................................... 27

4.2 Khái quát về ngành nước giải khát Việt Nam .............................................................. 27

4.3 Ngoại tác tiêu cực từ nước giải khát ............................................................................. 27

4.4 Xây dựng hàm cầu nước giải khát và xác định độ co giãn.......................................... 28

4.5 So sánh kết quả ước lượng độ co giãn với một số nghiên cứu trước.......................... 29

4.6 Phân tích chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát ................... 31

4.6.1 Phân tích tính kinh tế của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát ............. 31

4.6.2 Phân tích tính công bằng của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát ....... 32

4.6.3 Phân tích tính đơn giản của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát .......... 32

4.7 Phân tích tác động kinh tế của thuế đối với nước giải khát ........................................ 34

4.8 Tóm tắt chương .............................................................................................................. 35

vi

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH........................................ 36

5.1 Kết luận .......................................................................................................................... 36

5.2 Khuyến nghị chính sách ................................................................................................ 36

5.3 Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo ............................................. 38

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................................... 39

Tài liệu Tiếng Việt ............................................................................................................... 39

Tài liệu Tiếng Anh ............................................................................................................... 39

PHỤ LỤC ................................................................................................................................. 44

Phụ lục 1: Tìm hiểu về ngoại tác tiêu cực của nước giải khát ........................................... 44

Phụ lục 2: Cách xây dựng hàm cầu theo lý thuyết kinh tế học ......................................... 46

Phụ lục 3: Xây dựng hàm cầu theo cách tiếp cận đối ngẫu ............................................... 48

Phụ lục 4: Các dạng hàm cầu mô hình phương trình đơn ................................................. 52

Phụ lục 5: Các mô hình hàm cầu hệ thống ......................................................................... 53

Phụ lục 6: Cách tính tỷ lệ IMR ............................................................................................ 57

Phụ lục 7: Thủ tục ước lượng mô hình LA/AIDS .............................................................. 59

Phụ lục 8: Kết quả hồi qui hàm Probit ................................................................................ 61

Phụ lục 9: kết quả ước lượngmô hình LA/AIDS với ràng buộc tính đồng nhất và tính đối

xứng ...................................................................................................................................... 65

Phụ lục 10: Độ co giãn theo giá chéo của các mặt hàng.................................................... 66

Phụ lục 11: Tính toán tác động của thuế............................................................................. 67

Phụ lục 12: Nghi vấn chuyển giá của Coca-Cola và PepsiCo ........................................... 70

vii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

Chữ Viết Tên Tiếng Việt Tên Tiếng Anh Tắt

- AIDS Almost Ideal Demand System

BMI Tổ chức Giám sát Kinh doanh Quốc tế Business Monitor International

DWL Tổn thất vô ích Deadweight Loss

- IMR Inverse Mill’s Ratio

Linear Approximate Almost - LA/AIDS Ideal Demand System

TR Tổng doanh thu Total Revenue

TC Tổng chi phí Total Cost

Dữ liệu khảo sát mức sống hộ gia đình Vietnam Household Living VHLSS Việt Nam Standards Survey

viii

CÁC KHÁI NIỆM

1. Độ thỏa dụng: mức độ thỏa mãn mà một người nhận được khi tiêu thụ một hàng hóa

hoặc thực hiện một hoạt động (Pindick và Rubinfeld, 1995).

2. Ngoại tác tiêu cực: là sự tác động ra bên ngoài của đối tượng này làm tăng chi phí của

đối tượng khác mà không thông qua giao dịch và không được phản ánh qua giá cả (Pindick

và Rubinfeld, 1995).

3. Độ co giãn của cầu theo thu nhập: đo lường mức độ thay đổi lượng cầu của một mặt

hàng khi thu nhập của người tiêu dùng thay đổi với điều kiện các yếu tố khác không đổi.

Nó cho biết khi thu nhập thay đổi 1% thì lượng cầu thay đổi bao nhiêu % (Pindick và

Rubinfeld, 1995).

4. Độ co giãn của cầu theo giá riêng: đo lường mức độ thay đổi lượng cầu của một hàng

hóa khi giá của nó thay đổi với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Độ co giãn theo giá

riêng cho biết khi giá thay đổi 1% thì lượng cầu của hàng hóa đó thay đổi bao nhiêu %

(Pindick và Rubinfeld, 1995).

5. Độ co giãn của cầu theo giá chéo: đo lường mức độ thay đổi lượng cầu của một hàng

hóa khi giá các hàng hóa khác thay đổi, với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Độ

co giãn chéo cho biết khi giá của một mặt hàng liên quan thay đổi 1% thì lượng cầu của

hàng hóa đang xét thay đổi bao nhiêu % (Pindick và Rubinfeld, 1995).

6. Thuế: là một khoản đóng góp mang tính chất bắt buộc cho chính phủ mà không gắn với

bất kỳ một lợi ích cụ thể nào cho đối tượng nộp thuế, nó được xem là hình thức chuyển

giao quyền kiểm soát các nguồn lực kinh tế từ người nộp thuế sang nhà nước, và được

phân bổ thông qua chính sách chi tiêu của chính phủ (Stiglitz, 1986).

ix

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu ............................................... 18

Bảng 3.2: Tổng quan mẫu nghiên cứu .................................................................................... 23

Bảng 3.3: Giá trung bình của các sản phẩm đồ uống ............................................................. 24

Bảng 4.4: Hệ số hồi qui ước lượng trong mô hình LA/AIDS với ràng buộc đối xứng và

đồng nhất được áp đặt .............................................................................................................. 28

Bảng 4.5: Độ co giãn của cầu theo thu nhập, và độ co giãn của cầu theo giá riêng ............ 29

Bảng 4.6: So sánh độ co giãn giữa các nghiên cứu khác nhau .............................................. 30

Bảng 4.7: Ước lượng tác động kinh tế của thuế ..................................................................... 35

x

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH

Hình 2.1: Tổn thất vô ích dưới tác động của thuế .................................................................... 5

Hình 2.2: Khung phân tích kinh tế học về thuế ........................................................................ 6

Hình 3.3: Sơ đồ nghiên cứu ..................................................................................................... 17

Hình ii.1: Tối đa hóa độ thỏa dụng và tối thiểu hóa chi phí. ................................................. 46

Hình xi.2: Các trường hợp đặc biệt của mô hình thị trường Nước giải khát ........................ 67

Hình xii.3: Doanh thu, lợi nhuận của Coca-ColaViệt Nam 2004-2010 (tỉ đồng) ................ 70

1

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

1.1 Bối cảnh và vấn đề chính sách

Ngành công nghiệp nước giải khát hiện được xem là ngành kinh doanh hấp dẫn. Tổng

doanh thu ngành tính riêng cho năm 2013 của ngành là 11.870 tỷ VND, tổng sản lượng

tiêu thụ lên đến 2.083,06 triệu lít, và tốc độ tăng trưởng trung bình 19,35% giai đoạn 2009

– 2013. Điều kiện khí hậu nóng ẩm, cùng với thị trường có dân số trẻ là các yếu tố chính

tạo nên thuận lợi cho ngành phát triển. Hiện nay, mức tiêu thụ bình quân đầu người là 23

lít/người/năm, thấp hơn so với mức trung bình thế giới vào khoảng 40 lít/người/năm. Vì

vậy, dự báo trong thời gian tới mức tiêu thụ nước giải khát vẫn tiếp tục gia tăng, và trở

thành một thức uống phổ biến trong đời sống người dân, nhất là giới trẻ ở Việt Nam

(VietinbankSc, 2014).

Tháng 2 năm 2014 Bộ Tài Chính Việt Nam đưa nước giải khát có ga không cồn vào danh

mục các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất 10%, và đệ trình Quốc hội xem

xét thông qua. Theo Bộ Tài chính, việc lạm dụng đồ uống có thể dẫn tới các vấn đề sức

khỏe như tăng nguy cơ bị bệnh béo phì, tiểu đường, sỏi thận, loãng xương, sâu răng. Dự

thảo này vấp phải phản ứng mạnh mẽ từ phía các nhà sản xuất nước giải khát có ga, đặc

biệt là các nhà sản xuất nước giải khát nước ngoài, họ cho rằng không có bằng chứng y học

nào xác thực cho thấy nước giải khát có ga gây ra các vấn đề sức khỏe, thuế nhắm vào

nước giải khát có ga là chính sách vi phạm nguyên tắc “Đối xử quốc gia”, đồng thời đưa ra

các lập luận về tác động tiêu cực của thuế đến ngành sản xuất nước giải khát, cũng như nền

kinh tế.

Mặc dù vậy, trên thế giới có nhiều nước đang áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc thuế tiêu

dùng đối với các sản phẩm nước giải khát như Hoa Kỳ, Phần Lan, Croatia, Thái Lan,

Pháp…v.v. Nhìn chung việc đánh thuế lên mặt hàng nước giải khát trên thế giới chủ yếu

dựa trên hàm lượng đường trong các sản phẩm. Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia từng

đánh thuế đối với sản phẩm này nhưng rồi bãi bỏ hoặc giảm thuế suất, như Ai Cập, Ai-len,

Đan Mạch. Việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt lên nước giải khát gây tranh cãi và tồn tại hai

lập luận đối lập với nhau. Thứ nhất, lập luận ủng hộ chính sách này cho rằng nước giải

khát gây ra các vấn đề sức khỏe và cần phải hạn chế người dân sử dụng. Thứ hai, lập luận

2

chống đối cho rằng việc áp thuế đối với nước giải khát là một chính sách thuế không hiệu

quả và gây tổn thất cho toàn nền kinh tế.

Ở Việt Nam, cho đến nay việc có áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt cho nước giải khát hay

không vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi, chưa có cơ sở rõ ràng cho việc ra quyết định áp

thuế hay không đối với mặt hàng này. Việc rút lại đề xuất đánh thuế lên nước giải khát có

ga không cồn cho thấy sự lúng túng trong việc ra quyết định của các cơ quan liên quan.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Trước những vấn đề nêu trên, nghiên cứu này có mục đích phân tích hiệu quả của chính

sách thuế đối với mặt hàng nước giải khát và đưa ra kiến nghị có nên hay không áp thuế

tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng này.

1.3 Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu như trên, nghiên cứu này cần phải trả lời 4 câu hỏi sau:

(1) Có tồn tại ngoại tác tiêu cực khi sử dụng nước giải khát hay không?

(2) Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát có phải là chính sách

thuế hiệu quả?

(3) Tác động kinh tế của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát lên các bên liên

quan1 như thế nào?

(4) Chính phủ Việt Nam có nên áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên nước giải khát hay không?

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát

công nghiệp; và phạm vi nghiên cứu là thị trường nước giải khát công nghiệp tại Việt

Nam.

1.5 Khung phân tích, phương pháp nghiên cứu, và dữ liệu nghiên cứu

Nghiên cứu được phân tích dựa trên nền tảng lý thuyết kinh tế học về thuế. Theo đó, tác

giả sẽ phân tích khả năng áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát ở Việt Nam

1 Các bên liên quan gồm: (1) người tiêu dùng được bị tác động qua việc giảm thặng dư tiêu dùng; (2) nhà sản

xuất, bị tác động thông qua việc giảm doanh thu và giảm thặng dư sản xuất; và (3) GDP của nền kinh tế giảm

thông qua việc giảm sản lượng sản xuất.

theo lý thuyết về một chính sách thuế hiệu quả được Stiglitz (1986) đề xuất. Một chính

3

sách thuế hiệu quả nếu thỏa mãn ba yêu cầu (1) tính hiệu quả kinh tế; (2) Tính công bằng;

và (3) Tính đơn giản.

Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng lý thuyết cầu tiêu dùng để phân tích các yếu tố ảnh

hưởng đến cầu mặt hàng nước giải khát. Kỹ thuật phân tích định lượng được sử dụng để

xây dựng hàm cầu nước giải khát ở Việt Nam, và đo lường độ co giãn của cầu theo giá và

theo thu nhập của mặt hàng này. Kết quả này sẽ được sử dụng tính để phân tích tính kinh tế

và tính công bằng của chính sách thuế.

Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu này là dữ liệu được trích từ bộ dữ liệu điều tra mức sống

hộ gia đình, được thu thập bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2010 (VHLSS 2010)

1.6 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu

Nghiên cứu cung cấp kết quả đánh giá ở góc độ kinh tế học về tính hiệu quả của thuế đối

với nước giải khát cho các quản lý có thêm cơ sở trong việc ra quyết định có nên áp thuế

hay không. Đồng thời việc phân tích cầu nước giải khát của các hộ gia đình cũng giúp các

nhà sản xuất, và các cơ quản quản lý có những chính sách quản lý ngành tốt hơn.

1.7 Cấu trúc luận văn

Luận văn này gồm 5 chương, bao gồm: Chương 1 giới thiệu tổng quát về vấn đề chính

sách, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi chính sách, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên

cứu, cũng như phương pháp nghiên cứu. Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết bao gồm

khung phân tích về thuế, lý thuyết cầu tiêu dùng, và những kết quả của các nghiên cứu có

liên quan. Chương 3 trình bày các mô hình kinh tế lượng về đo lường cầu tiêu dùng được

sử dụng trong nghiên cứu, các vấn đề ước lượng, và phương pháp thu thập số liệu và xử lý

số liệu. Chương 4 trình bày kết quả phân tích và các thảo luận. Kết luận và các khuyến

nghị chính sách sẽ được trình bày trong Chương 5.

4

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT

2.1. Giới thiệu

Nghiên cứu này tập trung phân tích hiệu quả của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt nếu áp

lên mặt hàng nước giải khát công nghiệp tại Việt Nam. Trong chương này, tác giả trình bày

khung phân tích để đạt được các mục tiêu nghiên cứu như đã trình bày trong Chương 1.

Tác giả sẽ tiến hành phân tích hiệu quả của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt

hàng nước giải khát dựa trên khung phân tích kinh tế học về thuế được Stiglitz (1986) đề

xuất, và lý thuyết thuế tiêu thụ đặc biệt. Bên cạnh đó, lý thuyết cầu tiêu dùng cũng được sử

dụng để ước lượng độ co giãn của cầu theo giá và theo thu nhập của mặt hàng nước giải

khát, nhằm hỗ trợ cho việc phân tích hiệu quả của chính sách thuế này.

2.2 Khung phân tích Kinh tế học về thuế

Theo Stiglitz (1986) một hệ thống thuế tốt nếu nó đạt được 5 tính chất bao gồm (i) Hiệu

quả kinh tế; (ii) Tính công bằng; (iii) Tính đơn giản về mặt hành chính; (iv) Tính linh hoạt;

và (v) Tính trách nhiệm về mặt chính trị. Trong 5 yếu tố kể trên, 3 yếu tố cốt lõi của chính

sách thuế hiệu quả là hiệu quả kinh tế, tính công bằng, và tính đơn giản, đây là 3 yếu tố

được phân tích trong luận văn này.

(i) Hiệu quả kinh tế yêu cầu chính sách thuế không can thiệp vào việc phân bổ nguồn lực

hiệu quả, hay không gây ra các bóp méo hành vi kinh tế. Có nghĩa là, một khi chính sách

thuế được áp dụng thì tổn thất vô ích mà xã hội phải gánh chịu là thấp nhất. Tổn thất vô ích

luôn tồn tại, cơ chế gây tổn thất của thuế thông qua tác động về giá cả của hàng hóa. Theo

đó, khi một mặt hàng bị áp thuế, giá của nó sẽ tăng lên, trong khi thu nhập của người tiêu

dùng chưa tăng, điều này tương đương với việc giảm ngân sách chi tiêu, phản ứng của họ

là cắt giảm chi tiêu hoặc sử dụng mặt hàng khác thay thế. Kết quả là lợi ích mà người tiêu

dùng nhận được bị suy giảm, điều tương tự cũng sẽ xảy ra đối với các nhà sản xuất. Chính

vì vậy, một chính sách thuế được xem là đạt hiệu quả kinh tế nếu tổn thất vô ích do thuế

gây ra là nhỏ nhất.

Một loại hàng hóa có cầu (hoặc cung, hoặc cả hai) ít co giãn theo giá thì khi hàng hóa này

bị áp thuế sẽ có ít sự biến dạng trong hành vi tiêu dùng (hoặc sản xuất), nói cách khác là

thuế đối với những mặt hàng này ít gây ra tổn thất vô ích cho xã hội. Hình 2.1 dưới đây mô

tả tác động này (Mankiw, 2010, tr. 179-181).

5

Hình 2.1: Tổn thất vô ích dưới tác động của thuế

Cung

Khi cung co giãn nhiều, phần tổn thất vô ích càng lớn.

Khi cung ít co giãn, phần tổn thất vô ích càng nhỏ.

Cung

Độ lớn của thuế

Độ lớn của thuế

Cầu

Cầu

0

0

(b) Cung co giãn nhiều (a) Cung co giãn ít Giá Giá

Sản lượng Sản lượng

Cung

Cung

Cầu

Độ lớn của thuế

Giá Giá (c) Cầu co giãn ít (d) Cầu co giãn nhiều

Khi cầu ít co giãn, phần tổn thất vô ích càng nhỏ.

Khi cầu co giãn nhiều, phần tổn thất vô ích càng lớn.

Cầu

0

0

lớn Độ của thuế

Sản lượng Sản lượng

Nguồn: Mankiw, 2010, Hình 5, trang 180

(ii) Tính công bằng kinh tế đòi hỏi một hệ thống thuế tốt phải đảm bảo được tính công

bằng dọc và công bằng ngang. Tính công bằng ngang đạt được nếu các đối tượng về mọi

mặt như nhau phải chịu thuế ngang nhau. Ví dụ, nếu đánh thuế tiêu thụ đặc biệt lên nước

giải khát vì cho rằng đường trong sản phẩm này gây ra các vấn đề sức khỏe thì cả các sản

phẩm khác có đường cũng nằm trong diện chịu thuế. Ngược lại, tính công bằng dọc đòi hỏi

các đối tượng khác nhau thì sẽ được đối xử khác nhau. Chính sách thuế được xem là đạt

được công bằng dọc nếu người càng có khả năng chi trả cao sẽ càng đóng thuế nhiều hơn.

Thông thường, hàng hóa chịu thuế mà người có thu nhập cao sử dụng nhiều hơn so với

người có thu nhập thấp thì thuế đạt được tính công bằng dọc. Nói cách khác, tính công

bằng dọc đạt được nếu hàng hóa chịu thuế có cầu co giãn nhiều theo thu nhập.

(iii) Tính đơn giản về mặt hành chính (hay còn gọi là tính khả thi) đòi hỏi hệ thống thuế

phải đơn giản để việc quản lý dễ dàng và không tốn kém. Bất kỳ một sắc thuế nào cũng đối

mặt với vấn đề chi phí quản lý thu thuế, chi phí này bao gồm hai loại là chi phí trực tiếp và

chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp là các khoản chi tiêu cho công tác hành thu của nhà quản

lý, còn chi phí gián tiếp là các khoản mà người nộp thuế phải gánh chịu; ví dụ chi phí thời

6

gian khai báo thuế, hoàn thành các biểu mẫu, hay thuê luật sư…v.v. Chi phí hành thu phụ

thuộc vào 4 yếu tố, gồm (1) những ghi chép không bị đánh thuế: đó là chi phí cho công tác

kiểm tra sổ sách của các đối tượng nộp thuế. Ví dụ những doanh nghiệp lớn có hệ thống

chứng từ đồ sộ thì cơ quan quản lý thuế sẽ tốn nhiều chi phí kiểm tra; (2) tính phức tạp của

hệ thống thuế: nếu một chính sách thuế có nhiều qui định thì nó sẽ tạo thêm các chi phí

trong quá trình quản lý; (3) các phân biệt về thuế suất: nếu hệ thống thuế có nhiều thuế suất

thì các chủ thể nộp thuế sẽ tìm cách chuyển nhiệm vụ nộp thuế xuống các mức thuế suất

thấp hơn, hoạt động này gây ra đồng thời hai loại chi phí nói trên; và (4) phụ thuộc vào bản

chất của loại thuế, chẳng hạn thuế thu nhập thường được xem là loại thuế có chi phí hành

thu cao hơn các loại thuế khác. Thông thường, một sắc thuế đạt được tính đơn giản về mặt

hành chính nếu doanh thu thuế tạo ra cao hơn chi phí hành thu để thực hiện chính sách đó.

Ba tính chất quan trọng của chính sách thuế hiệu quả có thể tóm tắt theo sơ đồ dưới đây.

Hình 2.2: Khung phân tích kinh tế học về thuế

Hiệu quả kinh tế Tổn thất vô ích thấp: thường đạt được khi hàng hóa có cầu hoặc cung ít co giãn theo giá.

Công bằng ngang: các hàng hóa có tính chất như nhau phải được đối xử như nhau. Tính công bằng Chính sách thuế hiệu quả

Công bằng dọc: người có khả năng chi trả cao hơn phải nộp thuế nhiều hơn.

Tính đơn giản

Doanh thu thuế lớn hơn chi phí hành thu.

Nguồn: Tác giả tự vẽ dựa trên đề xuất của Stiglitz (1986).

2.3 Thuế tiêu thụ đặc biệt

Thuế tiêu thụ đặc biệt (Excise Tax) hay còn gọi là thuế phân biệt thường được sử dụng để

đánh vào một mặt hàng mà chính phủ không khuyến khích người dân sử dụng (hàng xa xỉ

hay hàng hóa tội lỗi), chẳng hạn như thuốc lá, rượu bia, xe hơi đắt tiền. Hàng hóa được

chọn để đánh thuế thường có một hoặc vài đặc điểm sau: (1) việc tiêu dùng nó gây ra các

ngoại tác tiêu cực; (2) những sản phẩm có cầu ít co giãn theo giá; (3) hàng hóa có độ co

7

giãn của cầu theo thu nhập lớn hơn 1; và (4) hàng hóa mà việc sản xuất và kinh doanh cần

được chính phủ điều tiết (Mccarten và Stotsky, 1995)

Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt hiệu quả là mức bằng với chi phí ngoại tác tại điểm tiêu

dùng tối ưu xã hội. Đặc điểm của thuế tiêu thụ đặc biệt là tương đối dễ quản lý, tổn thất xã

hội thấp vì cầu hàng hóa ít co giãn theo giá, ít bị phản đối bởi hợp với đạo đức xã hội. Tính

hiệu quả được đảm bảo vì là loại thuế đánh vào hàng hóa không có hàng hóa thay thế nên ít

tạo ra biến dạng; làm giảm ngoại tác tiêu cực nên thuế này đạt được lợi ích kép, vừa tăng

nguồn thu mà vừa giảm các hành vi không có lợi cho xã hội. Tính công bằng thể hiện ở

khía cạnh công bằng dọc khi thuế này được áp vào các mặt hàng mà những người có khả

năng chi trả cao mới sử dụng. Tính khả thi được thể hiện ở khía cạnh công tác hành thu tốn

ít chi phí vì dễ xác định nguồn thu, dễ kiểm soát, khả năng áp thuế tại nguồn rất cao. Nhà

quản lý thuế chỉ cần căn cứ vào doanh số của các nhà sản xuất để thu thuế, hơn nữa số

lượng các nhà sản xuất mặt hàng loại này cũng rất hạn chế (Mccarten và Stotsky, 1995).

2.4 Chính sách thuế đối với nước giải khát trên thế giới

Có nhiều nước áp thuế tiêu thụ đặc biệt cho nước giải khát như: (1) Ở Hoa Kỳ, thuế tiêu

thụ đặc biệt được tính cho mặt hàng đồ uống có đường, được gọi là thuế Soda (Soda Tax)

theo từng bang, ví dụ ở Washington mức thuế suất là 1,8%/lit; (2) Ở Hà Lan, nước giải

khát có ga phải chịu thuế tiêu dùng (Consumption Tax) với mức thuế suất 2,97%/lít; (3) Ở

Phần Lan, thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng cho các loại đồ uống với thuế suất 1,81%/lít;

(4) Ở Croatia, thuế tiêu thụ đặc biệt được áp cho nước giải khát không cồn với thuế suất

2,24%/lít; (5) Ở Thái Lan, thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất phân biệt cho các loại đồ

uống như nước soda, đồ uống tổng hợp, và nước trái cây với thuế suất lần lượt là 25%

tương đương 0,77 bath/440 cc, 20% tương đương 0,37 bath/440 cc. Năm 2012, Pháp là

quốc gia tiếp theo đánh thuế lên đồ uống có đường với mức thuế khoảng 2 cent/hộp.

Mặc dù vậy, cũng có một số quốc gia từng áp thuế lên nước giải khát nhưng sau đó đã

giảm hoặc bãi bỏ. Ai Cập đã giảm thuế suất từ 65% xuống 25%, và giữ đến nay. Ai-len đã

giảm mức thuế 0,10 £/gallon trong giai đoạn 1975– 1979, giảm tiếp 0,37 £/gallon trong

giai đoạn 1980– 1990, đến giai đoạn 1990– 1992 giảm tiếp 0,29 £/gallon, và bãi bỏ chính

sách thuế này vào tháng 11/1992. Đan Mạch đã xây dựng rồi lại bãi bỏ thuế thuế đường

trong đồ uống chỉ sau hơn 1 năm áp dụng.

8

2.5 Lý thuyết hàm cầu tiêu dùng

Lý thuyết kinh tế cung cấp hai phương pháp cận để tạo ra hàm cầu gồm: (1) Phương pháp

tối ưu hóa trong kinh tế học cổ điển; và (2) Xác định tổng số phương trình vi phân cho mỗi

sản phẩm (Theil & Clements, 1987) (xem chi tiết tại Phụ lục 2). Cách tiếp cận thứ nhất cho

phép xây dựng các hàm cầu thỏa mãn các tính chất cơ bản của lý thuyết cầu là tính cộng

dồn, tính đồng nhất, tính đối xứng, và tính ngược chiều. Vì vậy, trong nghiên cứu này tác

giả sử dụng cách tiếp cận thứ nhất, tức là hàm cầu được hình thành dựa trên tiếp cận tối ưu

hóa. Để xây dựng hàm cầu theo phương pháp tối ưu hóa có hai cách tiếp cận thay thế lẫn

nhau, hay còn gọi là cách tiếp cận đối ngẫu.

Cách thứ nhất, người tiêu dùng tối đa hóa độ thỏa dụng (Max. U(q)) với điều kiện ngân

sách bị giới hạn, hướng này cho ra hàm cầu Marshallian, là một hàm theo giá và thu nhập,

(xem chi tiết tại Phụ lục 3a). Hàm cầu Marshallian có dạng sau:

* = Di(p1, p2, ...,pn, x) = Di(x,p)

(2.1) qi

Cách thứ hai, người tiêu dùng tối thiểu hóa chi phí (Min. pq) với điều kiện độ thỏa dụng

không đổi, giả định rằng sự thay đổi trong thu nhập của người tiêu dùng sẽ “bù đắp” cho sự

thay đổi của giá cả để duy trì được độ thỏa dụng như ban đầu, cách này tạo ra hàm cầu

Hicksian, là một hàm theo giá và độ thỏa dụng (Hugh Gravelle & Ray Rees, 2004, trích

trong Phạm Thành Thái, 2013) (xem chi tiết tại Phụ lục 3b).

Mục tiêu của nghiên cứu này là xây dựng một hàm cầu theo giá và thu nhập nhằm ước

lượng độ co giãn của cầu theo giá và theo thu nhập cho mặt hàng nước giải khát. Vì vậy,

tác giả sử dụng cách tiếp cận thứ nhất để xây dựng hàm cầu, nghĩa là cách tiếp cận đ ể xây

dựng hàm cầu Marshallian.

2.6 Các mô hình nghiên cứu cầu tiêu dùng

2.6.1 Mô hình phương trình đơn

Mô hình phương trình đơn là các dạng hàm cầu đầu tiên được xây dựng để nghiên cứu cầu

tiêu dùng, các loại hàm cầu này bao gồm dạng hàm log kép, và phân tích Stone (Stone’s

Analysis). Nhìn chung, các mô hình hàm cầu đơn là tương đối dễ ước lượng. Tuy nhiên, nó

bỏ qua các ràng buộc quan trọng là tính cộng dồn, tính đối xứng, và tính đồng nhất. Kết

quả là các tham số ước lượng được ở mô hình phương trình đơn thường kém hiệu quả. Mặt

9

khác, mô hình phương trình đơn khó ước lượng các mô hình có nhiều tham số trong khi

các yếu tố ảnh hưởng đến cầu ngày càng được mở rộng (xem chi tiết tại Phụ lục 4).

2.6.2 Các mô hình hàm cầu hệ thống (Demand Systems)

Từ những khuyết điểm của mô hình phương trình đơn, các nhà kinh tế học đã cố gắng hoàn

thiện hệ thống phương trình hàm cầu với việc áp đặt tất cả các ràng buộc của lý thuyết cầu.

Nhìn chung, các hàm cầu hệ thống có ưu điểm là thỏa mãn được yêu cầu của lý thuyết cầu

như tính cộng dồn, tính đồng nhất, và tính đối xứng; đồng thời nó được xây dựng dựa trên

một hàm thỏa dụng chặt chẽ. Các dạng hàm cầu hệ thống điển hình là mô hình Worrking-

Lesser được Working (1943) đề xuất và Leser (1963) phát triển, hệ thống chi tiêu tuyến

tính của Stone (1954), mô hình Rotterdam, mô hình hàm cầu Translog, và hàm cầu AIDS

(xem chi tiết các hàm cầu tại Phụ lục 5).

Trong các dạng hàm cầu hệ thống, hàm cầu AIDS do Deaton và Muellbauer (1980) đề xuất

là dạng hàm phổ biến nhất trong các dạng hàm cầu hệ thống kể từ đầu những năm 1980.

Hàm cầu AIDS được hình thành trong điều kiện giới hạn về ngân sách, và mỗi phương

trình hàm cầu có thể được viết như sau:

(2.2)

Trong đó: (2.3)

Hàm cầu AIDS là tuyến tính ngoại trừ dạng hàm translog của chỉ số giá lnP trong phương

trình (2.2). Vấn đề này được khắc phục bằng chỉ số giá Stone , hoặc

chỉ số giá Laspeyres khi các đơn vị đo lường giá là khác nhau. Các

khắc phục này sẽ cho ra hàm cầu tuyến tính và thường ký hiệu là LA/AIDS (Linear

Approximate Almost Ideal Demand System). Các ràng buộc đã được Deaton và

Muellbauer (1980) đề xuất để đảm bảo tính bền vững lý thuyết cho hàm cầu AIDS là tính

cộng dồn, tính đồng nhất, và tính đối xứng (xem Phụ lục 5).

Các công thức tính các độ co giãn trong hàm cầu AIDS như sau:

Độ co giãn theo chi tiêu (thu nhập):

10

(2.4)

Độ co giãn theo giá riêng:

(2.5)

Và độ co giãn theo giá chéo:

(2.6)

2.7 Tổng quan các nghiên cứu liên quan

2.7.1 Nghiên cứu ngoài nước

Nghiên cứu tác động kinh tế của thuế lên mặt hàng nước giải khát rất được quan tâm ở các

nước có áp dụng chính sách này, chẳng hạn như Đan Mạch, Ireland, Hoa Kỳ, Pháp, Thái

Lan...v.v. Đặc điểm chung của các nghiên cứu này là xuất phát từ độ co giãn của cầu theo

giá và theo thu nhập để phân tích các tác động của thuế đến các nhà sản xuất, người tiêu

dùng, và nguồn thu thuế. Trong đó, điển hình là các nghiên cứu của Oxford Economics

(2013), Berardi và đ.t.g (2013), Adam và Smed (2012), Alviola và đ.t.g (2010), và Zheng

và Kaiser (2008)

Oxford Economics (2013), cho rằng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào nước giải

khát không phải là một chính sách thuế tốt trong thực tế, chính phủ có nhiều cách để tạo ra

nguồn thu và giải quyết các vấn đề y tế liên quan đến nước giải khát hơn là sử dụng một

chính sách thuế phân biệt. Lý giải cho những kết luận này, nghiên cứu cho rằng: Thứ nhất,

nước giải khát không phải là mặt hàng xa xỉ vì phần lớn các sản phẩm này có cầu ít co giãn

theo thu nhập, và mục tiêu tăng doanh thu thuế cũng không đạt được vì các sản phẩm này

đều có cầu co giãn nhiều theo giá, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Hơn nữa, thuế tiêu

thụ đặc biệt có thể làm giảm nguồn thu của các loại thuế khác như thuế thu nhập doanh

nghiệp, thuế giá trị gia tăng vì doanh thu của các nhà sản xuất bị suy giảm. Thứ hai, thuế

có thể gây ra tình trạng mất việc làm như ở Đan Mạch và Hungary, doanh thu từ thuế thu

nhập cá nhân bị giảm và chính phủ phải trợ cấp an sinh xã hội cho những người mất việc vì

ngành sản xuất bị thu hẹp lại. Thứ ba, việc áp thuế lên các mặt hàng nước giải khát có thể

khiến giá trong nước tăng lên, và người dân sẽ mua hàng ở quốc gia lân cận nơi có giá thấp

hơn. Thứ tư, chi phí hành chính cho quản lý thuế là một vấn đề lớn với các Chính phủ nhất

là khi chính sách thuế có tỷ lệ được áp dụng, chính sách thuế này cũng có thể làm tăng chi

11

phí cho nhà sản xuất vì họ phải tìm cách để sản phẩm mà họ bán chịu mức thuế suất thấp

nhất có thể.

Berardi và đ.t.g (2013) nghiên cứu tác động của thuế nước ngọt (soda tax) lên giá các mặt

hàng đồ uống ở Pháp sau khi Chính phủ nước này quyết định đánh thuế 7,16 € mỗi

hectoliter (khoảng 11 cent euro/1,5lít, hay khoảng 6% so với giá trung bình). Kết quả cho

thấy giá của các loại đồ uống thuộc diện chịu thuế tăng lên đáng kể, và thuế đã được

chuyển sang giá gần như đầy đủ về mặt trung bình. Đối với nước uống có hương vị và

nước trái cây giá của chúng tăng khoảng hơn 6 cent/lit dưới tác động của chính sách thuế

có mức thuế 7,16 cent/lit. Chính sách thuế này là làm giảm mạnh lợi nhuận của các nhà

bán lẻ, các hãng sản xuất gặp khó khăn trong việc tiêu thụ và một số hãng sản xuất tìm

cách chuyển thuế vào giá thành sản xuất.

Adam và Smed (2012) nghiên cứu tác động của các loại thuế khác nhau lên mặt hàng nước

giải khát tại Đan Mạch cho các sản phẩm: nước giải khát (soft drink), sữa tươi, các loại

nước uống không cồn khác, nước hương vị trái cây (fruit drinks), nước đóng chai (bottled

water), và nước ép trái cây (juice). Các sản phẩm này chia thành loại được giảm giá và

không được giảm giá, đóng chai nhỏ hơn 1,5 lit, 1,5 lit và 2 lit. Tác giả sử dụng mô hình

AIDS để ước lượng độ co giãn của cầu nước giải khát với bộ dữ liệu tiêu dùng theo tháng

của 3.000 hộ gia đình vùng Scandinavia từ năm 2006–2009. Kết quả cho thấy độ co giãn

của cầu theo giá riêng của tất cả các mặt hàng đều âm, trong đó nước giải khát, nước

hương vị trái cây, và nước ép trái cây là các sản phẩm có cầu co giãn mạnh theo giá (độ co

giãn lần lượt là: -1,360; -1,200; và -1,009), còn sữa tươi, các loại nước giải khát khác, và

nước đóng chai là các mặt hàng có cầu co giãn ít theo giá (độ co giãn lần lượt là: -0,88; -

0,89; và -0,811). Các sản phẩm này đều là các hàng hóa thông thường, trong đó nước giải

khát là sản phẩm nhạy cảm nhất đối với thu nhập, còn sữa tươi ít nhạy cảm nhất (độ co

giãn của cầu theo thu nhập lần lượt là 1,239 và 0,869). Các yếu tố nhân khẩu học như tuổi

của chủ hộ, trình độ học vấn của chủ hộ, số lượng trẻ em trong gia đình, và mức thu nhập

của hộ gia đình đều ảnh hưởng đến cầu các mặt hàng đồ uống. Để xem xét tác động của

các loại thuế khác nhau lên việc giảm tiêu dùng các mặt hàng nước giải khát, tác giả phân

tích ba chính sách thuế gồm: (i) thuế đánh trên dung tích bình chứa; (ii) thuế tỷ lệ dựa trên

hàm lượng đường trong các loại nước; và (iii) thuế đồng bộ cho tất cả các loại. Kết quả cho

thấy thuế tỷ lệ dựa trên hàm lượng đường có trong đồ uống làm giảm lượng đường được

12

tiêu thụ nhiều nhất so với thuế đánh trên thể tích bình chứa và thuế đồng bộ. Chính sách

thuế đồng bộ đang áp dụng không đạt được mục tiêu giảm tiêu thụ đường vì người tiêu

dùng gia tăng sử dụng các sản phẩm được bán giảm giá. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng

cho rằng nước giải khát không phải là nguyên nhân duy nhất gây ra bệnh béo phì. Để giải

quyết tình trạng béo phì cần có chính sách thích hợp trong việc thúc đẩy tiêu thụ các sản

phẩm rau quả, chế độ sinh hoạt, và thay đổi nhận thức hơn là chỉ sử dụng công cụ thuế.

Alviola và đ.t.g (2010) sử dụng mô hình AIDS và kỹ thuật ước lượng hai bước của

Heckman để đo lường cầu cho các mặt hàng đồ uống gồm: nước trái cây, cà phê, chè, nước

giải khát có ga, sữa tươi, và nước uống đóng chai ở Hoa Kỳ với bộ dữ liệu ACNielsen

Homescan 1999. Kết quả cho thấy độ co giãn của cầu theo thu nhập và theo giá riêng cho

các sản phẩm trên lần lượt là 1,023; 0,733; 0,991; 1,141; 0,934; 0,873, và -0,827; -1,.244; -

1,483; -0,645; - 1,977; -1,023. Kết quả này cho thấy các mặt hàng đồ uống ở Hoa Kỳ là các

sản phẩm thông thường, và ít co giãn theo giá. Các biến nhân khẩu học và kinh tế xã hội

trong mô hình như qui mô hộ gia đình, thu nhập, chủng tộc, tính mùa vụ, và khu vực sinh

sống đều ảnh hưởng tiêu dùng đồ uống. Người dân ở vùng trung tâm sử dụng nhiều chè, cà

phê, và nước giải khát có ga, điều này tương tự với người dân ở phía nam, trong khi người

dân ở phía đông Hoa Kỳ sử dụng phổ biến tất cả các mặt hàng này.

Zheng và Kaiser (2008) sử dụng mô hình AIDS nghiên cứu cầu mặt hàng đồ uống (nước

giải khát, sữa tươi, chè/cà phê, nước trái cây, và nước uống đóng chai) ở Hoa Kỳ trong giai

đoạn từ năm 1974 đến 2005. Kết quả cho thấy thị trường đồ uống không cồn của Hoa Kỳ

có cầu ít co giãn theo giá (độ co giãn từ -0,52 đến – 0,27); tỷ lệ dân số dưới năm tuổi có tác

động dương lên cầu tiêu dùng mặt hàng sữa và nước giải khát, và có ảnh hưởng âm đối với

cầu nước đóng chai. Nghiên cứu cũng khuyến nghị các nhà sản xuất sữa nên chú trọng hơn

đến việc sản xuất cho các loại sữa dùng trong bữa ăn xa nhà (học sinh, đi du lịch), nó có

tác động kích thích sử dụng sữa và giảm sử dụng nước giải khát.

Tổng quan các nghiên cứu có liên quan ở nước ngoài cho thấy: (i) Nghiên cứu về cầu tiêu

dùng các mặt hàng nước giải khát phần lớn sử dụng hàm cầu AIDS, các yếu tố ảnh hưởng

đến cầu nước giải khát ngoài giá cả, thu nhập còn có các yếu tố nhân khẩu học và kinh tế

xã hội. Vì vậy trong nghiên cứu này, tác giả sẽ kế thừa việc sử dụng hàm cầu AIDS để

phân tích cầu nước giải khát ở Việt Nam; (ii) Cầu tiêu dùng nước giải khát ở các thị trường

là khác nhau, trong đó, thị trường nước giải khát ở Hoa Kỳ có cầu tương đối ít co giãn theo

13

giá còn các thị trường khác như Đan Mạch, Pháp có cầu co giãn mạnh theo giá. Bên cạnh

đó nước giải khát cũng không phải là một mặt hàng xa xỉ; (iii) Chính sách thuế đối với

nước giải khát là chính sách gây ra nhiều tranh cãi về tính hiệu quả kinh tế cũng như hiệu

quả trong giải quyết ngoại tác tiêu cực.

2.7.2 Nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam hiện nay, nghiên cứu về thuế đối với nước giải khát còn rất hạn chế. Gần đây

khi Bộ Tài Chính đề xuất đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát có ga vào đầu

năm 2014, Viện nghiên cứu kinh tế Trung Ương Việt Nam dưới sự tài trợ của Hiệp hội

Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AMCHAM: American Chamber of Commerce) đã thực

hiện nghiên cứu đầu tiên. Nghiên cứu cầu tiêu dùng nước giải khát có ga với hàm cầu log

kép và dữ liệu thu thập tại 6 thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh,

Cần Thơ, và Nha Trang). Kết quả cho thấy độ co giãn của cầu theo giá đối với mặt hàng

nước giải khát có ga là -2,8. Nếu áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất 10% trên giá

bán lẻ thì có thể giúp tăng thu ngân sách khoảng 234 tỷ đồng/năm, nhưng ngành công

nghiệp nước giải khát có ga có thể sẽ chịu thiệu hại khoảng 851 tỷ đồng, và GDP bị thiệt

hại khoảng 0,01% tương đương với 235 tỷ đồng. Nghiên cứu này kiến nghị Chính phủ và

các các cơ quản lý cân nhắc kỹ và có phương án giải quyết các ảnh hưởng về mặt kinh tế

nếu áp thuế lên nước ngọt có ga không cồn (Trần Kim Chung và đ.t.g, 2014). Hạn chế của

nghiên cứu này là tác giả đã sử dụng mô hình phương trình đơn với hàm log kép có những

hạn chế đã được đề cập trong mục 2.5.1. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chưa xem xét ảnh

hưởng của các đặc điểm nhân khẩu học đến cầu nước giải khát và dữ liệu chỉ được thu thập

ở 6 thành phố chưa hẳn đã đại diện cho toàn quốc.

Ngoài nghiên cứu về cầu nước giải khát đã trình bày ở trên, có một số nghiên cứu về cầu

tiêu dùng thực phẩm tại Việt Nam trong thời gian gần đây như Phạm Thành Thái (2013),

Vu Hoang Linh (2009), và Le Quang Canh (2008).

Phạm Thành Thái (2013) sử dụng dữ liệu VHLSS 2008 nghiên cứu cầu tiêu dùng các sản

phẩm thịt và cá (gồm: thịt bò, thịt heo, thịt gà, và cá) ở Việt Nam. Các hệ số co giãn theo

giá và theo thu nhập được ước lượng bằng các mô hình Working-Lesser, LA/AIDS, và

LA/QUAIDS. Kết quả cho thấy, cầu các mặt hàng thịt và cá ở Việt Nam chịu ảnh hưởng

của các yếu tố thu nhập, giá cả, và các biến nhân khẩu học (tuổi chủ hộ, qui mô hộ gia

14

đình, trình độ học vấn, giới tính chủ hộ) và các biến kinh tế xã hội (khu vực (thành thị và

nông thôn), vùng miền, và nhóm thu nhập). Tất cả các sản phẩm đều có độ co giãn của cầu

theo thu nhập dương, và theo giá riêng âm. Nghiên cứu cũng cho rằng, các nhà thiết kế

chính sách cần phối hợp đồng thời chính sách quản lý giá và chính sách về thu nhập nếu

muốn thúc đẩy tiêu dùng các mặt hàng thịt cá nhằm giảm tình trạng suy dinh dưỡng của

người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, cầu thực phẩm giữa thành thị và nông thôn, và các

nhóm thu nhập là khác nhau do đó các chính sách cần có trọng điểm.

Vu Hoang Linh (2009) sử dụng bộ dữ liệu VHLSS 2006 để nghiên cứu cầu thực phẩm của

các hộ gia đình Việt Nam (gồm các loại: gạo, thịt heo, thịt gia cầm, cá, rau, trái cây, thực

phẩm khác, đồ uống) với mô hình LA/AIDS. Kết quả cho thấy, cầu tiêu dùng thực phẩm ở

Việt Nam bị ảnh hưởng bởi thu nhập, giá cả cũng như các yếu tố nhân khẩu học (tuổi chủ

hộ, qui mô hộ gia đình, trình độ học vấn, giới tính chủ hộ, tỷ lệ trẻ em trong gia đình, tỷ lệ

người già, và dân tộc) và các biến kinh tế xã hội khác (khu vực, vùng miền, và mùa vụ).

Tất cả các loại thực phẩm đều có độ co giãn theo thu nhập dương và độ co giãn theo giá

riêng là âm. Nhìn chung, các mặt hàng thực phẩm trong nghiên cứu này có cầu ít co giãn

theo giá riêng cũng như theo thu nhập. Mặt hàng đồ uống (bao gồm cả đồ uống có cồn và

không cồn) có độ co giãn của cầu theo thu nhập là 1,02 và theo giá riêng là -1,01. Nghiên

cứu cũng chỉ ra rằng, tiêu dùng thực phẩm ở khu vực nông thôn và thành thị và giữa các

vùng miền và giữa các nhóm thu nhập khác nhau là khác nhau.

Le Quang Canh (2008) sử dụng bộ dữ liệu VHLSS 2004 để đo lường cầu tiêu dùng thực

phẩm ở Việt Nam với mô hình AIDS. Kết quả nghiên cứu cho thấy thực phẩm, gạo, thịt và

cá là những hàng hóa thông thường, trong khi đó thực phẩm không phải gạo như rau, trái

cây, đồ uống là hàng hóa xa xỉ. Các yếu tố khu vực thành thị, nông thôn ảnh hưởng có ý

nghĩa lên cầu tiêu dùng thực phẩm trong khi các yếu tố nhân khẩu học như tuổi tác, giới

tính, và trình độ học vấn có ảnh hưởng yếu lên tiêu dùng thực phẩm.

Tổng quan các nghiên cứu có liên quan ở trong nước cho thấy: (i) Các nghiên cứu cầu tiêu

dùng và chính sách thuế đối với mặt hàng nước giải khát còn rất mới mẻ; (ii) Các nghiên

cứu cầu tiêu dùng thực phẩm chủ yếu sử dụng mô hình AIDS; và (iii) Cầu tiêu dùng thực

phẩm ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của các yếu tố giá cả, thu nhập, nhân khẩu học, và đặc

điểm kinh tế xã hội. Vì vậy, trong nghiên cứu này tác giả sẽ kế thừa các kết quả từ những

15

nghiên cứu cầu thực phẩm để xây dựng mô hình nghiên cứu cầu nước giải khát tại Việt

Nam.

2.8 Tóm tắt chương

Trong chương 2, tác giả đã trình bày khung phân tích kinh tế học về thuế, lý thuyết thuế

tiêu thụ đặc biệt, lý thuyết cầu tiêu dùng, các mô hình nghiên cứu cầu tiêu dùng, và các

nghiên cứu có liên quan. Khung phân tích kinh tế học về thuế cho thấy, một chính sách

thuế hiệu quả phải thỏa mãn ba tiêu chí là (1) hiệu quả kinh tế, (2) tính công bằng, và (3)

tính đơn giản. Qua việc lược khảo các mô hình nghiên cứu cầu tiêu dùng cho thấy hàm cầu

AIDS đáp ứng được lý thuyết cầu tiêu dùng và sử dụng phổ biến nhất trong các nghiên cứu

thực nghiệm. Các nghiên cứu thực nghiệm về cầu tiêu dùng nước giải khát và cầu tiêu

dùng thực phẩm ở Việt Nam đều sử dụng mô hình AIDS. Các nghiên cứu về thuế tiêu thụ

đặc biệt đối với mặt hàng nước giải khát phần lớn không ủng hộ chính sách thuế này.

16

CHƯƠNG 3. MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ ƯỚC LƯỢNG

3.1 Giới thiệu chương

Để phân tích chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt nếu áp lên mặt hàng nước giải khát có phải

là chính sách thuế hiệu quả theo lý thuyết kinh tế học về thuế hay không đòi hỏi phải xác

định được độ co giãn của cầu theo giá và theo thu nhập của mặt hàng này. Trong chương

này, tác giả sẽ trình bày cách thức lựa chọn mô hình nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu, các

giả thuyết nghiên cứu, và các kỹ thuật để ước lượng mô hình hàm cầu nước giải khát,

nhằm tìm ra độ co giãn của cầu theo giá và theo thu nhập. Một sơ đồ tóm tắt nghiên cứu

cũng được tác giả trình bày trong chương này để mô tả qui trình thực hiện nghiên cứu.

3.2 Sơ đồ nghiên cứu

Xuất phát từ các câu hỏi nghiên cứu đã đề cập trong Chương 1, nghiên cứu này được thực

hiện qua 3 bước như mô tả dưới đây.

Bước 1: Bước này gồm Bước 1b và Bước 1b. Bước 1a tác giả trả lời câu hỏi nghiên cứu số

1 về ngoại tác tiêu cực của nước giải khát đối với người tiêu dùng, dựa trên các nghiên cứu

y học. Bước 1b, tác giả sử dụng tiếp cận kinh tế lượng và lý thuyết về cầu tiêu dùng để ước

lượng hàm cầu nước giải khát tại Việt Nam, tính hệ số co giãn của cầu theo giá và theo thu

nhập dựa trên bộ số liệu VHLSS 2010.

Bước 2: Thực hiện phân tích 3 tính chất căn bản của một chính sách thuế hiệu quả đã đề

cập ở mục 2.2 và 2.3. Phân tích này nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu số 2: “Chính sách thuế

tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát có phải là một chính sách thuế hiệu quả?”

trong đó, (i) Hệ số co giãn của cầu theo giá giúp xác định tính hiệu quả kinh tế của thuế;

(ii) Hệ số co giãn của cầu theo thu nhập giúp xác định chính sách thuế có đạt được tính

công bằng dọc hay không.

Bước 3: Bước này nhằm trả lời câu hỏi nghiên cứu số 3 và 4. Từ kết luận ở Bước 2, tác giả

sẽ trả lời câu hỏi “Chính phủ Việt Nam có nên áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên nước giải khát

hay không?”. Đồng thời, tác giả sẽ ước lượng tác động của thuế đến mặt hàng nước giải

khát dựa trên giả định thuế suất được áp dụng như Bộ Tài chính Việt Nam đề xuất vào

tháng 2 năm 2014.

Các bước trong nghiên cứu này được mô tả trong sơ đồ thiết kế nghiên cứu dưới đây.

17

Hình 3.3: Sơ đồ nghiên cứu

Không có ngoại tác Tiêu thụ nước giải khát có Bước 1a tiêu cực ngoại tác tiêu cực hay không? Có ngoại tác tiêu cực

Phân tích chính sách

Chính sách thuế không hiệu quả

Chính sách thuế Có đánh thuế Không đánh thuế Bước 3 hiệu quả thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát

Hiệu quả kinh tế Tính công bằng Tính đơn giản

Bước 2 Công bằng ngang: Các sản Nguồn thu thuế là Nguồn thu thuế là Tổn thất xã hội Công bằng dọc: Đối

phẩm tương tự như nước giải là nhỏ nhất tượng có khả năng chi trả

khát cũng phải chịu thuế. cao thì nộp thuế nhiều.

lớn hơn 0. TRthuế - TCthuế > 0 bé hơn 0. TRthuế - TCthuế < 0

Độ co giãn của cầu theo giá Độ co giãn của cầu theo thu nhập

Phân tích cầu nước giải khát Bước 1b - Xây dựng hàm cầu nước Dữ liệu VHLSS 2010 giải khát

- Ước tính độ co giãn

Nguồn: Tác giả xây dựng dựa trên tổng quan cơ sở lý thuyết

18

3.3 Lựa chọn mô hình nghiên cứu

Tổng quan các nghiên cứu đo lường cầu nước giải khát trên thế giới và cầu tiêu dùng ở

Việt Nam đã trình bày trong mục 2.6 cho thấy dạng hàm được sử dụng phổ biến nhất là

dạng hàm AIDS. Hơn nữa, cách tiếp cận hệ thống như dạng mô hình AIDS đảm bảo tính

bền vững về mặt lý thuyết cầu vì cho phép thiết lập các ràng buộc tính cộng dồn, tính đồng

nhất, tính đối xứng. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ sử dụng mô hình AIDS để ước lượng cầu

tiêu dùng nước giải khát.

Tổng quan các nghiên cứu trước cho thấy, cầu nước giải khát ở các nước là khác nhau tùy

thuộc vào đặc điểm của mỗi thị trường. Vì vậy, để có thể xây dựng một hàm cầu có ý nghĩa

cho mặt hàng nước giải khát tại Việt Nam, ngoài các yếu tố như giá cả và thu nhập được đề

cập trong các mô hình nguyên thủy thì các yếu tố nhân khẩu học và kinh tế xã hội của các

hộ gia đình ở Việt Nam cần phải được đưa vào mô hình nghiên cứu. Bảng 3.1 dưới đây

tóm tắt các biến sẽ được đưa vào xây dựng mô hình nghiên cứu kinh tế lượng.

Bảng 3.1: Các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu

Các biến Định nghĩa Tác giả

Kỳ vọng dấu Biến định lượng/định tính

Deaton và Muellbauer (1980) Định lượng Wi

Tỷ phần chi tiêu cho mặt hàng i trong 4 mặt hàng đồ uống

Định lượng - Log(Pj) Giá của mặt hàng j (j = 1, 2, 3, 4) Deaton và Muellbauer (1980)

Log(x) Deaton và Muellbauer (1980) + Định lượng

Tổng chi tiêu của tất cả 4 mặt hàng có trong mô hình

Hk : Các biến giả và các biến thuộc nhân khẩu học của hộ gia đình.

Log(Age) Tuổi của chủ hộ.

Định lượng -

Adam và Smed (2012); Zheng và Kaiser (2008); Phạm Thành Thái (2013); Vu Hoang Linh (2009); Le Quang Canh (2008)

19

Bảng 3.1: Các biến được sử dụng trong mô hình nghiên cứu (tiếp theo)

Các biến Định nghĩa Tác giả

Kỳ vọng dấu Biến định lượng/định tính

Log(Hsize) Quy mô hộ gia đình + Định lượng

Adam và Smed (2012); Alviola và đ.t.g (2010); Phạm Thành Thái (2013); Vu Hoang Linh (2009); Le Quang Canh (2008)

Log(Edu) Học vấn của chủ hộ - Định lượng

Adam và Smed (2012); Phạm Thành Thái (2013); Vu Hoang Linh (2009); và Le Quang Canh (2008)

Gender + Định tính

Biến giả cho biến giới tính của chủ hộ (Nam =1, 0 nếu khác; Nữ = 1, 0 nếu khác)

Location + Định tính

Biến giả cho biến khu vực (Thành thị =1, 0 nếu khác; Nông thôn = 1, 0 nếu khác) Adam và Smed (2012); Phạm Thành Thái (2013); Vu Hoang Linh (2009); Le Quang Canh (2008) Alviola và đ.t.g (2010); Phạm Thành Thái (2013); Vu Hoang Linh (2009); Le Quang Canh (2008)

Phạm Thành Thái (2013), Vu Hoang Linh (2009), và Le Quang Canh (2008) + Định tính Groupi

Biến giả cho biến nhóm thu nhập, i = 1, 2, 3, 4, 5 (Nhóm 1: thấp nhất; Nhóm 5: cao nhất) trong đó, nhóm 1 (Group1) là nhóm tham chiếu

4 mặt hàng đồ uống (1: nước giải khát; 2: sữa; 3: cà phê; 4: chè) i, j

Là nhiễu ngẫu nhiên được giả định là tuân theo quy luật phân phối chuẩn Ui với giá trị trung bình bằng không và phương sai không đổi

20

Mô tả các biến:

(1) Biến phụ thuộc:

Wi: Tỷ phần chi tiêu cho mặt hàng i trong 4 mặt hàng đồ uống (nước giải khát, cà phê, sữa

tươi, và trà). Là tỷ lệ giữa phần giá trị chi tiêu cho mặt hàng i so với tổng chi tiêu cho 4 mặt

hàng đồ uống.

(2) Biến độc lập:

Log(Pj): Giá của các mặt hàng đồ uống. Theo lý thuyết kinh tế vi mô, giá của một mặt

hàng càng cao thì chi tiêu mặt hàng đó càng giảm, nên kỳ vọng quan hệ của biến này với

biến phụ thuộc là nghịch biến.

Log(x): Tổng chi tiêu của tất cả 4 mặt hàng có trong mô hình, được giả định là thu nhập

dành cho chi tiêu, theo lý thuyết kinh tế học vi mô, đối với các hàng hóa thông thường khi

thu nhập tăng lên thì chi tiêu cũng tăng theo. Các nghiên cứu thực nghiệm của Adam và

Smed (2012), Alviola và đ.t.g (2010) cho thấy nước giải khát là sản phẩm thông thường,

tác giả giả định các mặt hàng đồ uống trong nghiên cứu là các hàng hóa thông thường. Vì

vậy, kỳ vọng quan hệ của biến này với biến phụ thuộc là đồng biến.

Log(Age): Tuổi của chủ hộ. Trong nghiên cứu của Adam và Smed (2012) cho thấy gia

đình có chủ hộ trẻ tuổi thường mua nhiều nước giải khát, tương tự là nghiên cứu của Zheng

và Kaiser (2008); nghiên cứu của Phạm Thành Thái (2013), Vu Hoang Linh (2009), và Le

Quang Canh (2008) cho thấy tuổi của chủ hộ ảnh hưởng có ý nghĩa đến chi tiêu cho thực

phẩm. Vì vậy, kỳ vọng quan hệ của biến này với biến phụ thuộc là nghịch biến.

Log(Hsize): Qui mô hộ gia đình. Nghiên cứu của Adam và Smed (2012), Alviola và đ.t.g

(2010) cho thấy cầu nước giải khát chịu ảnh hưởng dương của số lượng người trong một

gia đình. Nghiên cứu ở Việt Nam của Phạm Thành Thái (2013), Vu Hoang Linh (2009), và

Le Quang Canh (2008) cũng cho thấy qui mô hộ gia đình có ảnh hưởng dương lên cầu tiêu

dùng thực phẩm. Vì vậy, kỳ vọng quan hệ của biến này với biến phụ thuộc là đồng biến.

Log(Edu): Học vấn của chủ hộ. Nghiên cứu của Adam và Smed (2012) cho thấy số năm đi

học của chủ hộ càng cao thì nhu cầu nước giải khát càng ít, được giải thích là do nhận thức

về vấn đề ảnh hưởng của nước giải khát đến sức khỏe tăng dần theo trình độ học vấn.

Nghiên cứu của Phạm Thành Thái (2013), Vu Hoang Linh (2009), và Le Quang Canh

21

(2008) cho thấy trình độ học vấn có ảnh hưởng có ý nghĩa lên cầu thực phẩm ở Việt Nam.

Tác giả cho rằng thị trường nước giải khát Việt Nam cũng có phản ứng tương tự như các

thị trường khác, nghĩa là nhận thức về sức khỏe tăng dần theo trình độ học vấn chủ hộ. Vì

vậy, kỳ vọng quan hệ của biến này với biến phụ thuộc là nghịch biến.

Gender: Giới tính chủ hộ, là biến giả (nam =1, nữ = 0). Nghiên cứu của Adam và Smed

(2012) cho thấy giới tính có ảnh hưởng đến cầu nước giải khát, nghiên cứu của Phạm

Thành Thái (2013), Vu Hoang Linh (2009), và Le Quang Canh (2008) ở Việt Nam cho

thấy chủ hộ là nam thì cầu thực phẩm của hộ gia đình cao hơn. Tác giả cho rằng, ở Việt

Nam việc chi tiêu cho các mặt hàng đồ uống cũng tương tự như việc chi tiêu cho các loại

thực phẩm. Vì vậy, kỳ vọng quan hệ của biến này với biến phụ thuộc là đồng biến.

Location: Khu vực sinh sống, được chia thành hai nhóm là thành thị và nông thôn (thành

thị =1, nông thôn =0). Nghiên cứu của Alviola và đ.t.g (2010) cho thấy cầu các loại đồ

uống ở các khu vực là khác nhau, còn nghiên cứu của Phạm Thành Thái (2013), Vu Hoang

Linh (2009), và Le Quang Canh (2008) cho thấy khu vực thành thị thường chi tiêu nhiều

hơn cho các loại thực phẩm. Vì vậy, kỳ vọng quan hệ của biến này với biến phụ thuộc là

đồng biến.

Groupi: Thu nhập của hộ gia đình được chi thành 5 nhóm, nhóm 1 là nhóm có thu nhập

thấp nhất, còn nhóm 5 là nhóm có thu nhập cao nhất. Nghiên cứu của Phạm Thành Thái

(2013), Vu Hoang Linh (2009), và Le Quang Canh (2008) cho thấy cầu thực phẩm đắt tiền

(thịt bò, thịt gà) tăng theo các nhóm thu nhập của hộ gia đình. Đối với nước giải khát, có

thể là hàng hóa bình thường đối với hộ gia đình khá giả, nhưng cũng có thể là hàng xa xỉ

đổi với các hộ gia đình có thu nhập thấp. Vì vậy, kỳ vọng quan hệ của biến này với biến

phụ thuộc là đồng biến.

i,j: 4 mặt hàng đồ uống (1: nước giải khát; 2: sữa; 3: cà phê; 4: chè). Các nghiên cứu của

Adam và Smed (2012), Alviola và đ.t.g (2010) đã đưa 4 mặt hàng này vào xây dựng hàm

cầu AIDS. Các mặt hàng này được giả định là có khả năng thay thế cho nhau, do đó ngân

sách dành cho tiêu dùng các mặt hàng này sẽ bị chia sẻ để đảm bảo tính cộng dồn và tính

đối xứng của hàm cầu.

Sau khi bổ sung một số biến nhân khẩu học cho phù hợp với thị trường Việt Nam. Hàm

cầu đồ uống ở Việt Nam dạng AIDS được viết như sau.

22

(3.7)

3.4 Các giả thuyết nghiên cứu

Quy luật cầu trong lý thuyết kinh tế học vi mô cho rằng, với điều kiện các yếu tố khác

không đổi, đối với hàng hóa thông thường khi giá cả tăng thì lượng cầu giảm và ngược lại.

Vì vậy, độ co giãn của cầu theo giá thường là một số âm. Nghiên cứu thực nghiệm về cầu

tiêu dùng đồ uống của Adam và Smed (2012), Alviola và đ.t.g (2010), Zheng và Kaiser

(2008) đều cho thấy độ co giãn của cầu theo giá riêng là âm. Nghiên cứu của Trần Kim

Chung và đ.t.g (2014) ở Việt Nam cũng cho thấy kết quả tương tự. Căn cứ vào cơ sở lý

thuyết và nghiên cứu thực nghiệm nêu trên, giả thuyết sau đây được xây dựng để kiểm

định một phần lý thuyết cầu cho các sản phẩm đồ uống tại Việt Nam.

Giả thuyết 1 (H1): Các độ co giãn của cầu theo giá riêng cho các mặt hàng đồ uống có

giá trị âm.

Nếu một sản phẩm là hàng hóa thông thường, thì khi thu nhập tăng lên, lượng cầu mặt

hàng này cũng tăng. Vì vậy, đối với những loại hàng hóa này thì độ co giãn của cầu theo

thu nhập là dương. Nếu là hàng hóa thứ cấp, thì khi thu nhập của người mua tăng, lượng

cầu mặt hàng này lại giảm nên độ co giãn của cầu theo thu nhập là âm. Các mặt hàng đồ

uống không cồn được xem là những hàng hóa thông thường đối với hầu hết mọi người

nhưng cũng có thể là hàng hóa xa xỉ đối với những người thu nhập thấp. Nghiên cứu thực

nghiệm về cầu tiêu dùng đồ uống của Adam và Smed (2012), Alviola và đ.t.g (2010) cho

thấy độ co giãn của cầu theo thu nhập đều dương và các sản phẩm đồ uống không cồn đều

là các sản phẩm thông thường. Căn cứ vào cơ sở lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm nêu

trên, giả thuyết sau đây được xây dựng để kiểm định một phần lý thuyết cầu cho các sản

phẩm đồ uống tại Việt Nam.

Giả thuyết 2 (H2): Các độ co giãn của cầu theo thu nhập (chi tiêu) cho các mặt hàng đồ

uống có giá trị dương.

3.5 Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu được trích lọc ra từ bộ dữ liệu của cuộc điều tra về mức sống của hộ

gia đình ở Việt Nam năm 2010 (VHLSS 2010) do Tổng cục Thống kê thu thập. Bộ dữ liệu

23

này chứa các thông tin về thu nhập, chi tiêu của hộ gia đình; các thông tin về nhân khẩu

học của các thành viên trong hộ, gồm: tuổi, giới tính, dân tộc, tình trạng hôn nhân, nghề

nghiệp, tình trạng sức khỏe, giáo dục, y tế,...v.v.

Tác giả sử dụng mẫu “thu nhập và chi tiêu” gồm 9,399 hộ gia đình trong cuộc khảo sát để

phân tích. Trong nghiên cứu này, ngoài việc xem xét chi tiêu của các hộ gia đình cho mặt

hàng nước giải khát, tác giả cũng quan tâm đến các mặt hàng liên quan như: sữa tươi, bia,

cà phê uống liền, chè uống liền đã được đề cập trong các nghiên cứu của Adam và Smed

(2012); Alviola và đ.t.g (2010); và Zheng và Kaiser (2008).

Dữ liệu chứa thông tin tiêu dùng của hộ gia đình cho các mặt hàng đồ uống tại mục

muc5a2, trong đó các mặt hàng nước giải khát, sữa tươi, cà phê, và chè có mã số lần lượt là

146; 143; 148, và 150. Dữ liệu chứa các thông tin về: khối lượng tiêu thụ (lít/tháng;

kg/tháng), trị giá tiêu thụ (nghìn đồng/tháng); khối lượng mua, tự túc; được cho, biếu, tặng.

Nghiên cứu này chỉ sử dụng phần các hộ gia đình mua hoặc đổi để tiêu dùng trong tháng

bình thường. Các phần tự túc hoặc nhận được từ biếu tặng; và tiêu dùng trong các dịp lễ tết

không được xem xét trong nghiên cứu này. Bảng sau đây mô tả khái quát dữ liệu phục vụ

cho nghiên cứu.

Bảng 3.2: Tổng quan mẫu nghiên cứu

Không Có tiêu dùng Tỷ lệ trong mẫu tiêu dùng

Số Trung Giá trị Giá trị Số quan Có Không Mặt hàng quan bình tiêu dùng tiêu dùng sát tiêu tiêu

sát lớn nhất nhỏ nhất dùng dùng

hộ nghìn đồng/tháng hộ %

Nước giải khát 1.739 42,98 600 7.660 18,50 81,50 4

Sữa tươi 2.126 126,98 1.500 7.273 22,.62 77,38 3

Cà phê 875 33,21 345 8.524 9,31 90,69 5

Chè 5.338 30,68 450 4.061 56,79 43,21 2

Nguồn: Thống kê của tác giả từ bộ dữ liệu VHLSS 2010

Trong tổng số 9.399 hộ được điều tra, số lượng hộ gia đình có tiêu dùng nước giải khát tại

thời điểm điều tra là 1.739 hộ, chỉ chiếm 18,5% mẫu điều tra. Chè là mặt hàng được các hộ

24

tiêu dùng nhiều nhất với 5.338 hộ trong mẫu có sử dụng, chiếm 56,79% mẫu nghiên cứu.

Điều này cũng dễ hiểu bởi trong đời sống người dân Việt Nam chè là thức uống khá phổ

biến. Sữa tươi cũng là mặt hàng được sử dụng khá nhiều với 2.126 hộ chiếm 22,62% mẫu

điều tra. Riêng mặt hàng cà phê chỉ có 875 hộ đã sử dụng ở thời điểm điều tra. Tác giả sẽ

xử lý vấn đề thiếu dữ liệu của các hộ không tiêu dùng để thu được dữ liệu về giá trong mục

3.6 dưới đây. Sau khi xử lý vấn đề này, cỡ mẫu trong nghiên cứu này là 3.399 quan sát.

Để tính chỉ số giá cả của các mặt hàng nói trên, tác giả lấy tổng chi tiêu của mỗi sản phẩm

chia cho khối lượng sản phẩm tương ứng được tiêu thụ trong tháng. Kết quả giá trung bình

của các sản phẩm được thể hiện trong Bảng 3.3.

Bảng 3.3: Giá trung bình của các sản phẩm đồ uống

Có tiêu dùng

Mặt hàng Đơn vị tính Số quan Trung Giá trị lớn Giá trị nhỏ

sát bình nhất nhất

Nước giải khát 1.739 12,56 80 0,30 Nghìn đồng/lit Sữa tươi 2.126 19,99 169 1,20

Cà phê 875 71,60 250 20,00 Nghìn đồng/kg Chè 5.338 74,00 600 2,00

Nguồn: Thống kê của tác giả từ bộ dữ liệu VHLSS 2010

3.6 Vấn đề ước lượng

Dữ liệu nghiên cứu trích lọc từ bộ dữ liệu VHLSS 2010 không hoàn hảo vì số lượng các hộ

gia đình có tiêu dùng bằng 0 (hộ không chi tiêu cho mặt hàng đang xét) quá lớn. Như đã

trình bày ở Bảng 3.2, số lượng các hộ không tiêu dùng cho các mặt hàng nước giải khát, cà

phê và sữa tươi chiếm trên 60%, và mặt hàng chè cũng chiếm 43% mẫu điều tra. Khiếm

khuyết này gây ra vấn đề thiên lệch trong việc ước lượng mô hình hàm cầu nếu chỉ sử dụng

các quan sát dương.

Các hộ tiêu dùng bằng không sẽ không tồn tại dữ liệu về lượng và giá trị tiêu dùng của mặt

hàng không sử dụng, nên giá cả của hộ gia đình đó bị thiếu. Để thu được dữ liệu cho giá cả

bị thiếu của các hộ gia đình có tiêu dùng bằng không, Chern và đ.t.g (2003) đã giả định

rằng các hộ gia đình này phải đối diện với giá trung bình theo mức thu nhập của họ, khu

25

vực họ sinh sống và tháng của cuộc khảo sát. Vu Hoang Linh (2009) đã xử lý vấn đề này

bằng cách giả định rằng giá của các hộ không tiêu dùng là giá trung bình của các hộ khác

có tiêu dùng trong cùng một xã. Phạm Thành Thái (2013) giả định rằng giá của mỗi hộ gia

đình là giá trung bình của mỗi loại hàng hóa tương ứng với mức thu nhập và khu vực mà

họ đang sinh sống. Trong nghiên cứu này, tác giả cho rằng giá cả của hộ gia đình có tiêu

dùng bằng không sẽ được xác định dựa trên giá trung bình của mỗi loại hàng hóa tại khu

vực đang sinh sống và mức thu nhập của hộ gia đình. Bộ dữ liệu VHLSS2010 đã chia mẫu

điều tra theo 5 nhóm thu nhập và 2 vùng thành thị và nông thôn; do đó, mỗi sản phẩm được

tiêu dùng sẽ có 10 giá trung bình, với 4 sản phẩm được sử dụng cho ước lượng mô hình, sẽ

có 40 giá trung bình được tạo ra.

3.7 Các thủ tục ước lượng mô hình

Vì dữ liệu tồn tại các quan sát có tiêu dùng bằng không (không mua) trong thời gian khảo

sát như đã trình bày ở phần 3.5 và 3.6; do đó, nếu chỉ sử dụng các quan sát dương (có tiêu

dùng) để ước lượng thì kết quả là các ước lượng bị chệch do vấn đề thiên lệch trong chọn

mẫu, làm giảm khả năng dự báo của mô hình.

Trong nghiên cứu này, biến phụ thuộc là phần ngân sách (wi) được hộ gia đình chi tiêu cho

một mặt hàng i; wi bằng không nếu hộ gia đình không mua, và wi dương nếu hộ gia đình

có mua. Theo Chern và đ.t.g (2003) phần chi tiêu bằng không sẽ được kiểm soát (censored)

bởi một biến không quan sát được gọi là biến tiềm ẩn. Tác giả sử dụng thủ tục ước lượng

hai bước của Heckman, để xử lý vấn đề không tiêu dùng, với giả định rằng các quan sát

không tiêu dùng là do vấn đề chọn mẫu gây ra.

Thủ tục ước lượng của Heckman gồm 2 bước: (1) Xây dựng mô hình về quyết định tiêu

dùng, sử dụng mô hình hồi quy Probit để xác định xác suất mua sắm một sản phẩm nhất

định. (2) Tính tỷ lệ IMR (Inverse Mill’s Ratio) từ kết quả ước lượng từ mô hình hồi quy

Probit với phương pháp ước lượng thích hợp cực đại (maximum likelihood). IMR là một

biến kết nối quyết định tham gia (có tiêu dùng hay không) với phương trình mà nó đại diện

cho lượng cầu, vấn đề thiên lệch chọn mẫu xảy ra nếu tham số π trong phương trình 3.8

dưới đây có ý nghĩa thống kê (Heckman, 1979, trích trong Phạm Thành Thái, 2013). Sau

khi thực hiện thủ tục này, tất cả 9.399 quan sát trong bộ dữ liệu VHLSS2010 sẽ được sử

dụng để ước lượng hàm cầu đồ uống tại Việt Nam (xem cách tính IMR trong Phụ lục 6).

26

Tỷ lệ IMR sau đó được đưa vào mô hình LA/AIDS để ước lượng. Hàm cầu có bổ sung

biến IMR được viết lại như sau:

(3.8)

Trong đó: là chỉ số Laspeyres

Vì ràng buộc cộng dồn tạo ra một ma trận hiệp phương sai suy biến, cũng như để đảm bảo

lý thuyết hàm cầu về điều kiện cộng dồn nên một phương trình phải được loại bỏ trước khi

ước lượng, trong nghiên cứu này phương trình hàm cầu mặt hàng chè được loại bỏ. Còn

các ràng buộc về tính đồng nhất và tính đối xứng được áp đặt lên các tham số khi ước

lượng mô hình (xem chi tiết tại Phụ lục 7).

3.8 Tóm tắt chương

Trong Chương 3, tác giả đã trình bày tóm tắt sơ đồ nghiên cứu, cụ thể nghiên cứu được

thực hiện qua ba bước, trong đó Bước 1 có hai nội dung: (1) tìm hiểu về ngoại tác tiêu cực

của nước giải khát đối với người tiêu dùng, và (2) ước lượng hàm cầu và xác định độ co

giãn của cầu theo thu nhập và theo giá của mặt hàng nước giải khát. Bước 2 có nội dung

phân tích ba tiêu chí của một chính sách thuế hiệu quả. Bước 3 có nội dung đánh giá chính

sách thuế có hiệu quả hay không và ra quyết định đánh thuế. Mô hình nghiên cứu được lựa

chọn là mô hình AIDS, ngoài ra còn có các biến nhân khẩu học, kinh tế xã hội được đưa

vào mô hình nghiên cứu cầu tiêu dùng nước giải khát tại Việt Nam. Tác giả cũng đã trình

bày khát quát cách thức trích lọc dữ liệu nghiên cứu từ bộ dữ liệu VHLSS 2010. Bên cạnh

đó, các thủ tục ước lượng mô hình nghiên cứu, các thủ thuật xử lý vấn đề không tiêu dùng

của các hộ gia đình cũng đã được trình bày trong chương này.

27

CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN

4.1 Giới thiệu chương

Trong chương này, tác giả sẽ tiến hành ước lượng mô hình hàm cầu nước giải khát tại Việt

Nam và ước tính hệ số co giãn của cầu theo giá và theo thu nhập với hàm cầu AIDS đã lựa

chọn trong Chương 3. Tiếp theo, tác giả tiến hành phân tích ba tích chất quan trọng của

một chính sách thuế hiệu quả là hiệu quả kinh tế, tính công bằng, và tính khả thi dựa trên

kết quả ước lượng độ co giãn. Đồng thời, tác giả phân tích tác động của thuế đến các bên

liên quan nếu chính sách thuế được áp dụng.

4.2 Khái quát về ngành nước giải khát Việt Nam

Năm 2013, ngành công nghiệp sản xuất nước giải khát không cồn ở Việt Nam có 135

doanh nghiệp hoạt động, tổng sản lượng bán ra khoảng 2.083 triệu lít, xuất khẩu 2,03 triệu

lít, tổng doanh thu đạt khoảng 11.870 tỷ VND. Mức tăng trưởng trong giai đoạn 2009 –

2013 là 19,5%, và dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức 14,2% trong giai đoạn 2014 –

2018. Các doanh nghiệp chiếm thị phần lớn là PepsiCo với 25,5%, Tân Hiệp Phát với

22,65%, Coca Cola với 10,5%. Các sản phẩm có thị phần cao bao gồm nước khoáng đóng

chai chiếm khoảng 40.63%, trà xanh đóng chai chiếm 36,41%, và nước giải khát có ga

chiếm 19,31%. Thị trường nước giải khát hiện được xem là thị trường có mức độ cạnh

tranh cao (BMI, 2013). Dự báo, tốc độ tăng tiêu dùng nước giải khát tiếp tục cao do Việt

Nam có dân số trẻ, thu nhập bình quân đầu người đang tăng, và khí hậu nóng ẩm. Mặt

hàng nước giải khát có ga có xu hướng sẽ tăng trưởng chậm lại, còn mặt hàng nước trà

xanh và nước trái cây có xu hướng tăng mạnh hơn do nhận thức mới của người dân về thực

phẩm và chăm sóc sức khỏe (VietinbankSc, 2014).

4.3 Ngoại tác tiêu cực từ nước giải khát

Nhìn chung không có một quan điểm thống nhất về việc có tồn tại ngoại tác tiêu cực của

nước giải khát đối với sức khỏe người tiêu dùng. Phía ủng hộ cho rằng đường, CO2 bão

hòa, và axit photphoric có trong nước giải khát là nguyên nhân gây ra các bệnh như béo

phì, tiểu đường, sỏi thận, và răng miệng. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, nhiều nghiên cứu

cho rằng hàm lượng CO2 bão hòa trong nước giải khát làm tăng cảm giác no, làm giảm

nhu cầu ăn thức ăn khác, và có thể hạn chế tình trạng dư thừa calo. Trong các sản phẩm

tiêu dùng hàng ngày có rất nhiều sản phẩm khác chứa đường (ví dụ: bánh, kẹo, sữa, kem),

28

do đó kết luận nước giải khát là nguyên nhân gây ra các bệnh nêu trên là không thuyết

phục. Bên cạnh đó, các bệnh như béo phì, răng miệng phát sinh còn do lối sống của người

dân (xem chi tiết tại Phụ lục 1). Vì vậy, không thể kết luận nước giải khát là nguyên nhân

gây ra các vấn đề sức khỏe. Chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đề xuất áp lên mặt hàng nước

giải khát để giảm ngoại tác tiêu cực là không thuyết phục.

4.4 Xây dựng hàm cầu nước giải khát và xác định độ co giãn

Sau khi thực hiện các thủ tục tính tỷ lệ IMR (xem Phụ lục 8), mô hình hàm cầu LA/AIDS

cho 4 mặt hàng đồ uống ở Việt Nam được ước lượng theo phương pháp SUR (Seemingly

Unrelated Regression). Kết quả ước lượng mô hình được tóm tắt trong Bảng 4.4 dưới đây.

Bảng 4.4: Hệ số hồi qui ước lượng trong mô hình LA/AIDS với ràng buộc đối xứng và đồng nhất được áp đặt†

Hệ số hồi qui cho các mặt hàng

Các biến Nước giải khát Sữa tươi Cà phê Chè

Hằng số Log(Pnước giải khát) Log (Psữa tươi) Log(Pcà phê) Log(Pchè) Log(Chi tiêu) Log (Age) Log (Edu) Log(hhsize) Location Gender Group2 Group3 Group4 Group5 IMR_i R2 -0,2912*** -0,1805*** -0,1116*** -0,0186*** -0,0503*** -0,0433*** -0,0173*** -0,0100*** -0,0112*** -0,0304*** -0,0117*** -0,0301*** -0,0542*** -0,0610*** -0,0284*** -0,5212*** 68,68% -0,7421*** -0,1116*** -0,1570*** -0,0297*** -0,0157*** -0,0599*** -0,1697*** -0,0168*** -0,0105* -0,0945*** -0,0680*** -0.0001 -0,0045 -0,0112 -0,0032 -0,2050*** 33,19% -0,0115 -0,0186*** -0,0297*** -0,0563*** -0,0080*** -0,0274*** -0,0017 -0,0110*** -0,0065*** -0,0003 -0,0054** -0,0040 -0,0028 -0,0020 -0,0002 -0,4272*** 77,45% -0,5375 -0,0503 -0,0157 -0,0080 -0,0740 -0,0107 -0,1541 -0,0178 -0,0072 -0,0644 -0,0509 -0,0261 -0,0469 -0,0478 -0,0314 -1,1534 (-)

† Dấu * chỉ mức ý nghĩa 10%, dấu ** chỉ mức ý nghĩa 5%, và dấu *** chỉ mức ý nghĩa 1%. Các kết quả tính toán xem chi tiết tại Phụ lục 9.

Nguồn: Tác giả tính toán từ bộ dữ liệu VHLSS 2010

29

Kết quả ước lượng với mô hình LA/AIDS cho thấy hầu hết các tham số trong mô hình hồi

qui đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%, các hệ số hồi qui trong mô hình hàm cầu mặt hàng

chè được xác định bằng ràng buộc tính cộng dồn. Các hệ số IMR có ý nghĩa thống kê, do

đó nếu bỏ qua vấn đề tiêu dùng bằng không thì kết quả ước lượng sẽ bị thiên lệch. Đa phần

các biến số nhân khẩu học và biến số địa lý đều có tác động có ý nghĩa thống kê, điều này

ngụ ý rằng có sự khác biệt trong tiêu dùng các mặt hàng đồ uống ở các hộ gia đình khác

nhau và ở các vùng khác nhau.

Để thu được các hệ số co giãn của cầu theo giá và hệ số co giãn của cầu theo thu nhập, tác

giả sử dụng các công thức (2.4), (2.5) và (2.6) để tính toán. Kết quả các hệ số này được thể

hiện ở Bảng 4.5 dưới đây.

Kết quả tính toán độ co giãn của cầu theo giá riêng cho thấy giả thuyết 1 (H1) được thỏa

mãn. Hệ số co giãn của cầu theo giá của 4 mặt hàng đều mang dấu âm, kết quả này phù

hợp với lý thuyết kinh tế học vi mô rằng khi giá của một mặt hàng nào đó tăng lên thì

lượng cầu của mặt hàng đó giảm đi trong điều kiện các yếu tố khác không đổi. Một điểm

đáng chú ý là cả 4 mặt hàng đồ uống đang xét đều có cầu co giãn nhiều theo giá, trong đó

mặt hàng nước giải khát có cầu co giãn mạnh nhất. Kết quả hệ số co giãn của cầu theo thu

nhập (chi tiêu) cũng cho thấy giả thuyết 2 (H2) được chấp nhận, cả 4 mặt hàng đồ uống

đang xét đều là hàng hóa thông thường.

Bảng 4.5: Độ co giãn của cầu theo thu nhập, và độ co giãn của cầu theo giá riêng

Mặt hàng Độ co giãn của cầu theo thu nhập Độ co giãn của cầu theo giá

0,5650 -2,7718 Nước giải khát 1,3769 -2,0475 Sữa tươi 0,4760 -2,0512 Cà phê 1,0252 -1,1853 Chè

Nguồn: Tính toán của tác giả

4.5 So sánh kết quả ước lượng độ co giãn với một số nghiên cứu trước

Việc so sánh kết quả ước lượng độ co giãn trong nghiên cứu này với các nghiên cứu trước

nhằm xem xét có hay không sự khác biệt giữa cầu các mặt hàng đồ uống ở Việt Nam và

các nước khác. Tuy nhiên, có một khó khăn là các nghiên cứu về cầu nước giải khát ở Việt

30

Nam khá hạn chế. Mặc dù, tác giả đã cố gắng tìm hiểu nhưng chỉ có nghiên cứu của Trần

Kim Chung và đ.t.g (2014). Các nghiên cứu ở nước ngoài được chọn là nghiên cứu của

Adam và Smed (2012) tại Đan Mạch và Alviola và đ.t.g (2010) tại Hoa Kỳ. Hai nghiên

cứu này được chọn vì (1) đều sử dụng mô hình LA/AIDS để ước lượng độ co giãn, và (2)

có các mặt hàng đồ uống được đưa vào mô hình tương tự nhau. Kết quả so sánh được trình

bày tại Bảng 4.6.

Kết quả so sánh cho thấy 2 điểm chính sau: (i) Độ co giãn của cầu theo giá riêng của mặt

hàng nước giải khát ở Việt Nam có sự tương đồng giữa nghiên cứu của tác giả và Trần

Kim Chung (2014). Cả hai nghiên cứu đều cho thấy mặt hàng nước giải khát ở Việt Nam

có cầu co giãn nhiều theo giá. Trong khi mặt hàng này ít co giãn theo giá hơn ở các thị

trường khác. (ii) Cầu mặt hàng nước giải khát ở Việt Nam ít co giãn theo thu nhập, còn ở

Đan Mạch và Hoa Kỳ cho thấy điều ngược lại. Kết quả này có thể lý giải bởi thói quen tiêu

dùng thức ăn nhanh kèm theo nước giải khát ở các nước công nghiệp như Hoa Kỳ và Đan

Mạch là rất phổ biến, trong khi đó ở Việt Nam mặt hàng này chưa phải là một sản phẩm

quá quen thuộc trong các bữa ăn của hộ gia đình.

Bảng 4.6: So sánh độ co giãn giữa các nghiên cứu khác nhau

Trần Kim Chung Adam và Alviola và Mặt hàng Tác giả (2015) và đ.t.g (2014) Smed (2012) đ.t.g (2010)

Độ co giãn của cầu theo thu nhập

- Nước giải khát 1,23 1,140 0,56

- 0,87 0,873 1,37 Sữa tươi

- - 0,991 0,47 Cà phê

- - 0,733 1,02 Chè

-1,36 -0,65 Nước giải khát Độ co giãn của cầu theo giá -2,81* -2,77

- -0,88 -1,98 -2,04 Sữa tươi

- - -1,48 -2,05 Cà phê

- - -1,24 -1,18 Chè

Nguồn: Tổng hợp của tác giả dựa trên các nghiên cứu cầu mặt hàng Nước giải khát Ghi chú: * mặt hàng nước giải khát có ga

31

4.6 Phân tích chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát

Như đã đề cập ở Chương 2, nghiên cứu này được thực hiện dựa trên khung phân tích kinh

tế học về thuế. Trong đó, ba tiêu chí quan trọng để xem xét tính khả thi của một chính sách

thuế được sử dụng để phân tích bao gồm tính kinh tế, tính công bằng, và tính khả thi. Các

tính chất này sẽ được tác giả phân tích sau đây.

4.6.1 Phân tích tính kinh tế của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát

Kết quả ước lượng độ co giãn của cầu theo giá của nước giải khát ở Việt Nam cho thấy đây

là mặt hàng có cầu co giãn nhiều theo giá (E = -2,77; |E| = 2,77 >1). Nghĩa là, nếu giá của

mặt hàng này tăng lên 1% thì lượng cầu của mặt hàng này giảm đi 2,77%. Theo Mankiw

(2010) thì một chính sách thuế đánh vào mặt hàng có cầu co giãn mạnh theo giá sẽ gây ra

tổn thất lớn cho xã hội. Còn Stiglitz (1986) thì cho rằng chính sách thuế áp dụng đối với

sản phẩm có cầu co giãn mạnh sẽ làm thay đổi hành vi của người tiêu dùng. Lý thuyết thuế

tiêu thụ đặc biệt cho rằng chỉ áp dụng thuế này đối với một mặt hàng có cầu ít co giãn theo

giá, ngược lại nếu mặt hàng chịu thuế có cầu co giãn mạnh theo giá thì thuế sẽ gây ra biến

dạng hành vi tiêu dùng dẫn đến doanh thu thuế thấp, và tổn thất xã hội cao (Mccarten và

Stotsky, 1995).

Bên cạnh đó, thuế tiêu thụ đặc biệt có thể gây ra tình trạng mất việc làm của nhân công

trong ngành sản xuất nước giải khát. Đan Mạch và Hungary là một minh chứng cho vấn đề

này khi doanh thu thuế thu nhập cá nhân giảm và làm tăng khả năng chính phủ phải trợ cấp

an sinh xã hội cho những người mất việc vì ngành sản xuất nước giải khát bị thu hẹp lại

(Oxford Economics, 2013).

Hơn nữa, việc áp thuế lên các mặt hàng nước giải khát có thể khiến giá của mặt hàng này

cao hơn ở các nước láng giềng dẫn đến tình trạng người dân mua hàng ở nước ngoài, hoặc

buôn lậu qua biên giới. Ví dụ một hộ gia đình Đan Mạch có thể tiết kiệm ít nhất là 455

USD (350 EUR) một năm nếu mua nước giải khát tại Đức, và có đến 60% hộ gia đình Đan

Mạch được khảo sát cho biết có mua đồ uống tại Đức trong vòng một năm qua, trong khi

bốn năm trước 60% hộ gia đình trong cuộc khảo sát tương tự nói rằng họ "không bao giờ"

giao dịch ở biên giới Đức (Oxford Economics, 2013). Đối với Việt Nam, tình trạng tương

tự có thể xảy ra khi thuế được áp dụng, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực,

32

các mặt hàng nước giải khát ở các nước như Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc có thể sẽ

lấn át sản xuất nội địa.

Vì vậy, chính sách thuế đối với nước giải khát ở thời điểm hiện tại không đạt được hiệu

quả kinh tế.

4.6.2 Phân tích tính công bằng của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát

Kết quả ước lượng hệ số co giãn của cầu theo thu nhập cho mặt hàng nước giải khát có kết

quả nhỏ hơn 1 (A= 0,56 <1) cho thấy chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt không đạt được tính

công bằng dọc, vì khi thu nhập tăng lên 1% thì lượng cầu nước giải khát chỉ tăng lên

0,56%. Nói cách khác, không phải người có thu nhập càng cao thì sẽ sử dụng càng nhiều

nước giải khát. Do đó, đây không phải là chính sách thuế lũy tiến. Kết quả này cũng cho

thấy, nước giải khát không phải là hàng hóa xa xỉ, do đó áp thuế tiêu thụ đặc biệt là không

thuyết phục về mặt lý thuyết.

Tính công bằng ngang đòi hỏi các mặt hàng có tính chất như nhau phải được đối xử ngang

nhau nếu chính sách thuế được áp dụng. Ví dụ, nếu Bộ Tài Chính Việt Nam đề xuất đánh

thuế tiêu thụ đặc biệt nước giải khát vì cho rằng hàm lượng đường trong sản phẩm này gây

ra ngoại tác tiêu cực thì cũng cần phải đánh thuế này cho tất cả các sản phẩm khác có chứa

đường chẳng hạn như sữa, bánh kẹo. Mặc dù vậy, việc áp thuế tiêu thụ đặc biệt, hay thuế

đường cho các sản phẩm có chứa đường có thể sẽ vấp phải nhiều phản ứng cả từ phía nhà

sản xuất và người tiêu dùng. Như vậy, rất khó để có thể đạt được tính công bằng ngang nếu

thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ được được áp dụng đối với nước giải khát.

Xét cả hai yếu tố trên, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt nhắm vào nước giải khát ở Việt

Nam không đạt được tính công bằng.

4.6.3 Phân tích tính đơn giản của thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát

Bất kỳ một sắc thuế nào cũng đối mặt với vấn đề chi phí quản lý thu thuế thường gọi là chi

phí hành thu, chi phí này bao gồm hai loại là chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí

trực tiếp là các khoản chi tiêu cho công tác hành thu của cơ quan quản lý thuế, còn chi phí

gián tiếp là các khoản mà người nộp thuế phải gành chịu. Ví dụ chi phí thời gian khai báo

thuế, hoàn thành các biểu mẫu, chi phí ghi chép chứng từ tại các doanh nghiệp, hay thuê

luật sư…v.v.

33

Đối với mặt hàng nước giải khát, công tác xác định nguồn thu có thể không phải là vấn đề

quá phức tạp bởi các hãng sản xuất sản phẩm này rất dễ xác định và số lượng có hạn (135

nhà sản xuất tính đến năm 2013). Do đó, cơ quan thu thuế có thể áp dụng biện pháp thu tại

nguồn thông qua doanh số bán hàng của nhà sản xuất. Tuy nhiên, vấn đề sẽ trở nên phức

tạp nếu phân biệt thuế suất cho từng sản phẩm, chẳng hạn giữa nước ngọt có ga và nước

ngọt không có ga như đề xuất của Bộ Tài Chính, hay hàm lượng đường có trong các loại

nước giải khát như các nước Đan Mạch và Pháp, hoặc theo các sản phẩm như Thái Lan.

Các nhà sản xuất sẽ tìm cách chuyển nhiệm vụ thuế đến các sản phẩm có mức thuế suất

thấp hơn, hoặc chịu phản ứng từ các hãng có sản phẩm chịu thuế suất cao. Nghiên cứu của

Oxford Economics (2013) cho rằng chi phí hành chính đối với các chính phủ để thiết kế,

giám sát và thi hành thuế là một vấn đề đáng lo ngại. Chẳng hạn, Chính phủ Đan Mạch đã

rất khó khăn khi xác minh hàm lượng đường có trong các loại nước giải khát, vì vậy họ

chuyển sang cách đánh thuế theo thể tích, nhưng cách này lại không công bằng. Thuế đánh

vào mặt hàng đường cũng được sử dụng nhưng gặp phải trở ngại tương tự khi có nhiều loại

đường khác nhau được dùng trong sản xuất, và có hàng nghìn sản phẩm cần phải giám sát

khi thực thi thuế. Chi phí hành thu cũng có thể phát sinh cho các doanh nghiệp khi đối mặt

với các mức thuế suất khác nhau, họ tìm cách chuyển nhiệm vụ đóng thuế sang các mức

thuế suất thấp hơn, chuyển dần sang sản xuất các sản phẩm có thuế suất thấp hơn, hoặc tìm

cách tránh thuế. Như vậy, công tác hành thu thuế sẽ đối mặt với hai trở ngại. Thứ nhất, nếu

chính sách thế đồng bộ được áp dụng cho tất cả các loại nước giải khát là như nhau thì nó

sẽ không đạt được tính công bằng, nhưng nếu sử dụng thuế suất phân biệt thì chi phí quản

lý thuế có thể sẽ tăng lên đáng kể. Thứ hai, các nhà sản xuất cũng đối mặt với tính chất

phức tạp của thuế và họ phải tốn chi phí trong quá trình thực thi.

Ngoài ra, thuế tiêu thụ đặc biệt có thể làm giảm nguồn thu của các loại thuế khác như thuế

thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng. Kết quả ước lượng cho thấy, cầu nước giải

khát là mặt hàng rất co giãn theo giá nên nếu thuế được áp dụng, lượng tiêu thụ có thể

giảm mạnh, trong những trường hợp này áp thuế sẽ không mang lại nguồn thu lớn. Nếu

thuế suất càng cao, lượng tiêu thụ càng giảm và doanh thu từ các loại thuế như thuế tiêu

thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng, hay thuế thu nhập doanh nghiệp đều giảm. Một minh

chứng cho kết luận này là trường hợp của Ai Cập khi nước này giảm thuế từ 65% xuống

còn 25% vào năm 2005. Chính sách thuế này đã làm tăng doanh số tiêu thụ lên mức hai

34

con số, kết quả là làm tăng doanh thu thuế từ ngành công nghiệp nước giải khát lên 13%;

đồng thời tạo ra việc làm, lợi nhuận trong ngành công nghiệp này. Tác động đầy đủ của

chính sách giảm thuế này được ước tính làm tăng doanh thu thuế đến 20% (Oxford

Economics, 2010). Hay trong trường hợp của Ai-len, việc bỏ thuế tiêu thụ đặc biệt đối với

nước giải khát đã giảm được tổn thất phúc lợi, giảm chi phí quản lý, và chi phí thực thi ước

tính bằng khoảng 70% doanh thu thuế tiêu thụ đặc biệt; 30% còn lại được bù đắp bằng

khoản tăng doanh thu thuế thu nhập và thuế giá trị gia tăng (Bahl và đ.t.g, 2003).

Như vậy, tính đơn giản của thuế tiêu thụ đặc biệt có thể sẽ không đạt được nếu chính sách

thuế phân biệt được áp dụng.

Xem xét cả ba yếu tố trên, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát không

phải là chính sách thuế hiệu quả dựa trên quan điểm của kinh tế học về thuế.

4.7 Phân tích tác động kinh tế của thuế đối với nước giải khát

Để phân tích tác động kinh tế của thuế, tác giả tiến hành ước lượng (1) tổn thất vô ích mà

xã hội phải gánh chịu khi có thuế, (2) doanh thu thuế, và (3) thu nhập của cả nền kinh tế bị

suy giảm, với giả định chính sách thuế được áp dụng với thuế suất 10% như đề xuất của Bộ

Tài Chính. Tác giả sử dụng các phân tích về tác động của thuế lên giá cả đã được Stiglitz

(1986) đề cập. Theo đó, một mặt hàng khi bị đánh thuế thì giá sẽ không tăng bằng với mức

thuế trừ trường hợp đường cung nằm ngang hoặc đường cầu thẳng đứng, khi có thuế thông

thường một phần thuế sẽ chuyển vào giá tiêu dùng và một phần vào nhà sản xuất, phân bổ

gánh nặng thuế phụ thuộc vào độ co giãn của cung và cầu.

Vì những hạn chế về số liệu nên tác giả không thể ước lượng độ co giãn của cung theo giá.

Để khắc phục, tác giả sử dụng các giả định đặc biệt theo mức độ độ co giãn của cung nước

giải khát tăng dần là (i) cung hoàn toàn không co giãn theo giá (Es=0); (ii) cung co giãn 1

đơn vị (Es=1); và (iii) cung co giãn hoàn toàn theo giá (Es=∞). Kết quả tính toán được tóm

tắt ở Bảng 4.7 dưới đây (chi tiết tại Phụ lục 11).

Kết quả cho thấy rằng, nếu cung nước giải khát ít co giãn theo giá (0 ≤ Es ≤ 1) thì tổn thất

vô ích nằm trong khoảng từ 0 đến 97 tỷ đồng/năm, doanh thu thuế nằm trong khoảng 2.491

đến 2.616 tỷ đồng/năm, và mức độ suy giảm sản lượng của nền kinh tế giao động trong

khoảng từ 0 đến 1.884 tỷ đồng/năm. Ngược lại, nếu cung nước giải khát co giãn nhiều theo

giá (1 ≤ Es ≤ ∞) thì tổn thất vô ích sẽ tăng lên nhanh chóng và giao động trong khoảng 97

35

đến 362 tỷ đồng/năm, doanh thu thuế giảm dần theo mức tăng độ co giãn của cung từ

2.616 tỷ đồng/năm xuống mức 1.891 tỷ đồng/năm, trong khi đó mức độ suy giảm sản

lượng của nền kinh tế sẽ tăng dần từ 1.884 tỷ đồng/năm đến 7.247 tỷ đồng/năm.

Bảng 4.7: Ước lượng tác động kinh tế của thuế (tỷ đồng/năm)

Độ co giãn của Độ co giãn của Tổn thất xã Doanh thu GDP

cung cầu hội thuế giảm

0 2.616 0 Es = 0

97 2.491 1.884 Es = 1 Ed = -2,77

362 1.891 7.247 Es = ∞

Nguồn: Tính toán của tác giả

Business Monitor International (2013) nhận định thị trường nước giải khát ở Việt nam có

mức độ rào cản gia nhập ngành thấp, mức độ cạnh tranh cao. Đây là tín hiệu cho thấy thị

trường nước giải khát là thị trường cạnh tranh. Vì vậy, cung nước giải khát có thể co giãn

mạnh theo giá và độ co giãn sẽ nằm trong khoảng giá trị từ 1 đến ∞. Khi đó, nếu thuế tiêu

thụ đặc biệt được áp dụng thì phần lớn thuế sẽ chuyển vào giá tiêu dùng, và tổn thất xã hội

sẽ tăng dần theo mức độ cạnh tranh của thị trường. Ngược lại, nếu cung nước giải khát ít

co giãn theo giá thì tác động tương tự cũng có thể xảy ra. Oxford Economics (2013) cho

rằng nếu thuế không chuyển hết vào giá tiêu dùng mà chuyển phần lớn vào phía nhà sản

xuất thì lợi nhuận của doanh nghiệp và khoản thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ bị giảm.

Trong cả hai trường hợp, tác động của thuế đều có thể dẫn đến thu hẹp qui mô ngành sản

xuất, giảm số thu thuế của Chính phủ.

4.8 Tóm tắt chương

Trong chương này tác giả đã ước lượng hàm đầu và tính toán độ co giãn của cầu theo giá

và theo thu nhập của các mặt hàng đồ uống tại Việt Nam. Kết quả cho thấy nước giải khát

là mặt hàng có cầu co giãn nhiều theo giá và co giãn ít theo thu nhập. Chính sách thuế tiêu

thụ đặc biệt nếu áp lên mặt hàng nước giải khát là chính sách thuế không hiệu quả. Cụ thể,

hai trong ba tiêu chí là (1) hiệu quả kinh tế, và (2) tính công bằng không được thỏa mãn,

trong khi tiêu chí còn lại là tính đơn giản cũng sẽ khó đạt được nếu thuế suất phân biệt

được áp dụng.

36

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

5.1 Kết luận

Thuế tiêu thụ đặc biệt có nên áp dụng cho mặt hàng nước giải khát ở Việt Nam hay không

đến nay vẫn đang là một vấn đề gây tranh cãi. Phía cơ quan quản lý nhà nước cho rằng cần

phải đánh thuế lên mặt hàng này để giảm thiểu ngoại tác tiêu cực, nhưng lại vấp phải sự

phản ứng từ các nhà sản xuất và người tiêu dùng. Trên thế giới không có sự đồng thuận

trong việc có sử dụng thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước giải khát, hiện có khoảng 34 nước

và vùng lãnh thổ có áp dụng thuế đối với mặt hàng này. Tuy nhiên cũng có một số quốc gia

đã từng đánh thuế nước giải khát nhưng rồi giảm thuế suất hoặc bãi bỏ chính sách thuế

này. Do vậy, việc quyết định có hay không áp thuế tiêu thụ đặc biệt lên mặt hàng nước giải

khát hay không cần được xem xét kỹ hơn.

Kết quả phân tích chỉ ra rằng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng nước giải

khát ở Việt Nam không đạt được 2 trong 3 tiêu chí quan trọng của một chính sách thuế tốt

là (1) tính kinh tế và (2) tính công bằng, trong khi tiêu chí còn lại là tính đơn giản (khả thi)

cũng không được ủng hộ nếu chính sách thuế với các mức thuế suất phân biệt được áp

dụng. Kết quả nghiên cứu độ co giãn của cầu theo thu nhập và độ co giãn của cầu theo giá

cũng cho thấy nước giải khát không phải là một sản phẩm xa xỉ, nên việc đánh thuế sẽ

không thỏa mãn những lập luận cơ bản ủng hộ chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt. Hơn nữa,

chưa có luận cứ chắc chắn cho rằng việc tiêu dùng nước giải khát tồn tại ngoại tác như lập

luận của Bộ Tài Chính đưa ra. Trên cơ sở đó, tác giả kết luận không nên áp thuế tiêu thụ

đặc biệt lên mặt hàng nước giải khát ở thời điểm hiện tại.

5.2 Khuyến nghị chính sách

Thứ nhất, dựa trên kết quả nghiên cứu này, tác giả kiến nghị Bộ Tài Chính không nên đưa

nước giải khát vào danh mục các mặt hàng được xem xét để áp thuế tiêu thụ đặc biệt, vì: (i)

Kết quả phân tích cho thấy, thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát không thỏa mãn 3 tiêu

chí quan trọng của một chính sách thuế hiệu quả; (ii) Thuế có tác động tiêu cực đến hoạt

động kinh tế như đã phân tích trong mục 4.7. Ngoài ra, việc áp thuế trong điều kiện Việt

Nam thực hiện cam kết ASEAN là không hiệu quả vì nó có thể khiến cho giá của các mặt

hàng sản xuất trong nước cao hơn so với các nước trong khu vực và do đó người dân sẽ sử

dụng nước giải khát của các nước lân cận.

37

Thứ hai, phân tích độ co giãn của cầu theo giá cho thấy nước giải khát có cầu co giãn mạnh

theo giá, nếu thuế được áp dụng sẽ gây ra biến dạng hành vi kinh tế, và mục tiêu doanh thu

thuế sẽ không đạt được. Do đó, nếu mục tiêu của thuế là nguồn thu, chính phủ có thể xem

xét đánh thuế dựa trên doanh thu bán hàng, hoặc cải tiến chính sách thuế thu nhập doanh

nghiệp. Chính sách này có thể được ủng hộ để làm giảm hiện tượng chuyển giá của các nhà

sản xuất nước giải khát nước ngoài tại Việt Nam (xem Phụ lục 12). Trong khi thuế nhắm

vào một mình nước giải khát có ga có thể vi phạm nguyên tắc “Đối xử quốc gia”, còn thuế

tiêu thụ đặc biệt không đạt hiệu quả như đã thảo luận ở trên.

Thứ ba, kết quả phân tích độ co giãn của cầu theo thu nhập cho mặt hàng nước giải khát

cho thấy đây không phải là hàng hóa xa xỉ. Theo Mccarten và Stotsky (1995) nếu một mặt

hàng có độ co giãn của cầu theo thu nhập nhỏ hơn 1 thì chính sách thuế gián thu như thuế

tiêu thụ đặc biệt sẽ là chính sách thuế lũy thoái. Trong trường hợp này, Chính phủ nên theo

đuổi chính sách thuế doanh thu, hoặc hoàn thiện chính sách thuế giá trị gia tăng. Như vậy,

nếu mục tiêu của chính sách thuế là nhằm tăng nguồn thu của Chính phủ, thì Bộ Tài Chính

nên xem xét sử dụng các chính sách thuế không làm biến dạng hành vi tiêu dùng như thuế

thu nhập doanh nghiệp, thuế doanh thu (đánh thuế dựa trên doanh thu bán hàng).

Thứ tư, kết quả ước lượng độ co giãn chéo của nước giải khát với các mặt hàng đồ uống

khác như sữa tươi, cà phê, chè đều dương ngụ ý rằng các sản phẩm này có thể thay thế cho

nhau. Trong 3 mặt hàng đồ uống được đưa vào so sánh với nước giải khát, đáng chú ý là

độ co giãn chéo giữa cầu nước giải khát và giá sữa tươi là 1,19, có nghĩa là nếu giá sữa

tươi tăng 1% thì lượng cầu của nước giải khát sẽ tăng 1,19%; và độ co giãn chéo giữa cầu

sữa tươi và giá nước giải khát là 0,66, nghĩa là nếu giá nước giải khát tăng lên 1% thì cầu

sữa tươi tăng lên 0,66% (xem Phụ lục 10). Kết quả này đưa đến một ngụ ý rằng nếu mục

tiêu của thuế là làm giảm lượng tiêu thụ nước giải khát để giảm ngoại tác thì cơ quan quản

lý có thể dùng công cụ khác để tránh các bóp méo thị trường do thuế gây ra. Thay vì dùng

thuế nên thiết kế các chính sách để làm giảm giá sữa vừa kích thích người dân sử dụng sản

phẩm an toàn hơn cho sức khỏe vừa tránh được các bóp méo kinh tế do thuế gây ra.

Thứ năm, nước giải khát ở Việt Nam là mặt hàng có rất nhạy cảm với giá cả, đồng thời

không phải là một hàng hóa xa xỉ. Kết quả này đưa đến một ngụ ý chính sách rằng các nhà

sản xuất nước giải khát có thể sử dụng công cụ giá để mở rộng thị trường, và chú trọng hơn

đến các khu vực thị trường có thu nhập thấp như khu vực nông thôn và miền núi.

38

5.3 Hạn chế của nghiên cứu và hướng nghiên cứu tiếp theo

Mặc dù nghiên cứu đã tập trung phân tích một cách có hệ thống chính sách thuế tiêu thụ

đặc biệt đối với nước giải khát theo khung phân tích kinh tế học về thuế. Tuy nhiên, tác giả

cho rằng nghiên cứu này tồn tại một số hạn chế sau:

Thứ nhất, dữ liệu VHLSS2010 chứa nhiều quan sát tiêu dùng bằng không khiến cho việc

ước lượng gặp khó khăn. Bên cạnh đó, dữ liệu nước giải khát được thu thập chung cho tất

cả các loại mà không được phân chia theo chủng loại. Chính vì vậy, nghiên cứu không thể

phân tích sâu hơn về cầu tiêu dùng cho các loại nước giải khát. Đây cũng là một trong

những lý do tại sao tác giả nghiên cứu toàn bộ nước giải khát chứ không phải chỉ phân tích

cho nước giải khát có ga như đề xuất của Bộ Tài Chính. Bên cạnh đó, hạn chế về dữ liệu

của các nhà sản xuất không cho phép tác giả đo lường được độ co giãn của cung, do đó

những phân tích về tác động kinh tế của thuế lên mặt hàng nước giải khát không thể hiện

cụ thể.

Thứ hai, hạn chế về khả năng tiếp cận thông tin khiến tác giả không thể xác định được chi

phí hành thu cũng như doanh thu các loại thuế tiêu thụ đặc biệt của các sản phẩm đang áp

loại thuế này, ví dụ rượu bia. Hạn chế này làm giảm mức độ chính xác của phân tích tiêu

chí tính đơn giản của chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt lên nước giải khát.

Từ những hạn chế này, tác giả đề xuất hai hướng nghiên cứu tiếp theo là (1) nghiên cứu

phía cung nước giải khát để đánh giá chính xác tác động của thuế đối với nền kinh tế; và

(2) nghiên cứu tính đơn giản của chính sách thuế tập trung vào phân tích chi phí hành thu

cũng như các phản ứng của các nhà sản xuất khi thế được áp dụng.

39

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Trần Kim Chung (2014), “Ngành công nghiệp nước giải khát và tác động kinh tế của

thuế tiêu thụ đặc biệt tại Việt Nam”, Diễn Đàn: Triển vọng ngành Thực phẩm và Đồ

uống tại Việt Nam, truy cập ngày 15/12/2014 tại địa chỉ:

http://36mfjx1a0yt01ki78v3bb46n15gp.wpengine.netdna-cdn.com/wp-

content/uploads/2014/04/7-Tran-Kim-Chung-SoftDrink-Ind_VN_2.pdf

2. Phạm Thành Thái (2013), Phân tích cấu trúc cầu các sản phẩm thịt và cá: Nghiên cứu

thực nghiệm cho tiếp cận kinh tế lượng cho trường hợp Việt Nam, Luận án Tiến Sĩ

Kinh Tế, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2014), Chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam,

nghiên cứu tình huống, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.

4. VietinbankSc (2014), Ngành nước giải khát không cồn Việt Nam, Báo cáo ngành

VietinbankSC, truy cập ngày 10/12/2014 tại địa chỉ:

http://www.vietinbanksc.com.vn/Handlers/DownloadAttachedFile.ashx?NewsID=306

476

Tài liệu Tiếng Anh

5. Adam, Abdulfatah S. and Smed, Sinne (2012), “The effects off different types of taxes

on soft-drink consumption”, FOI Worrking Paper.

6. Adjene, Josiah O.; Ezeoke, Joseph C. and Nwose, Ezekiel U. (2010), “Histological

effects of chronic consumption of soda pop drinks on kidney of adult Wister rats”,

North American Journal of Medical Sciences, Vol 2, pp. 215-217.

7. Alviola, Pedro A.; Capps, Oral J. and Wu, Ximing. (2010), “Micro-Demand Systems

Analysis of Non-Alcoholic Beverages in the United States: An Application of

Econometric Techniques Dealing With Censoring”, Agricultural & Applied

Economics Association’s 2010 AAEA, CAES & WAEA Joint Annual Meeting, truy cập

ngày 8/4/2015 tại địa chỉ: http://ageconsearch.umn.edu/bitstream/60462/2/Micro-

Demand%20Systems%20Analysis%20of%20Non-

40

Alcoholic%20in%20the%20United%20States%20An%20Application%20of%20Econ

ometric%20Tchniques%20Dealing%20with%20Censoring.pdf

8. Bahl, Roy; Bird, Richard and Walker, Mary B. (2003), “The uneasy case against

discriminatory excise taxation: Soft drink taxes in Ireland”, Public Finance Review,

Vol 31, pp 510-533.

9. Barten, A.P. (1964), “Consumer demand functions under conditions of almost additive

preferences”, Econometrica, Vol 32, pp. 1-38.

10. Barten, A.P. (1968), “Estimating Demand Equations”, Econometrica, Vol 36, pp. 213-

251.

11. Berardi, Nicoletta; Sevestre, Patrick; Tepaut, Marine and Vigneron, Alexandre (2013),

The impact of a ‘soda tax’ on prices. Evidence from French micro data, Banque de

France, Paris.

12. Bray, George A.; Nielsen, Samara J. and Popkin, Barry M. (2004), “Consumption of

high fructose corn syrup in beverages may play a role in the epidemic of obesity”,

American Journal of Clinical Nutrition, Vol 79, pp. 537-543.

13. Business Monitor International (2013), VietNam Food and Drink Report, Business

Monitor international Ltd, London.

14. Chern, Wen S.; Ishibashi, Kimiko; Taniguchi, Kiyoshi and Yokoyama, Yuki (2003),

“Analysis of food consumption behavior by Japanese households”, FAO Economic

and Social Development working paper, Vol 152.

15. Deaton, Angus and Muellbauer, John (1980), “An Almost Ideal Demand System”,

American Economics Review, Vol. 70, pp. 312-326.

16. Daley, M.; Malik, I.; Shuster, J.; Jenkins, A.; Logan, C.; Barnett, T.; Riehle, R. and

Zackson, D. (1992), “Soft drink consumption and urinary stone recurrence: A

randomized prevention trial”, Journal of Clinical Epidemiology, Vol 45, pp. 911- 916.

17. Gravelle, Hugh and Rees, Ray (2004), Microeconomics, Prentice Hall.

18. Heckman, James J. (1979), “Sample selection bias as a specification error”,

Econometrica, Vol 47, pp. 153 - 162.

19. Heien, Dale and Wessells, Cathy R. (1990), “Demand system estimation with

microdata: A censored regression approach”, Journal of Business and Economic

Statistics, Vol 8, pp. 365–371.

41

20. Houthakker, H. S. and Taylor, L. D. (1966), Consumer Demand in the United States:

Analysis and Projections. Cambridge, MA: Harvard University Press.

21. Jandt, Klaus D. (2006), “Probing the future in functional soft drinks on nanometer

scale towards tooth friendly soft drinks”, Trends in Food Science and Technology, Vol

17, pp. 263-271.

22. Kubik, Martha Y.; Lytle, Leslie A. and Storey, Mary (2005), “Soft drinks, candy, and

fast food: What parents and teachers think about the middle school food environment”,

Journal of the American Dietetic Association, Vol 105, pp. 233-239.

23. Larsson, Susanna; Bergkvist, Leif and Wolk, Alicja. (2006), “Consumption of sugar

and sugar-sweetened foods and the risk of pancreatic cancer in a prospective study”,

American Journal of Clinical Nutrition, Vol 84, pp. 1171-1176.

24. Leser, C. (1963), “Forms of Engel Functions”, Econometrica, Vol 31, pp. 694-703.

25. Le Quang Canh (2008), “An Empirical Study of Food Demand in Vietnam”, Asean

Economic Bulletin, Vol 25, pp. 283-292.

26. Lussi, A.; Jaggi, T. and Scharer, S. (1993), “The influence of different factors on in

vitro enamel erosion”, Caries Research, Vol 27, pp. 387-393.

27. Mankiw, G. (2010), Principles of Microeconomics, Cengage Learning, Singapore.

28. Massey, Linda K. and Hollingbery, Patsy W. (1988), “Acute effects of dietary caffeine

and sucrose on urinary mineral excretion of healthy adolescents”, Nutrition Research,

Vol 8, pp. 1005- 1012.

29. Massey, Linda K. and Strang, M.M. (1982), “Soft drink consumption, phosphorus

intake, and osteoporosis”, Journal of American Dietetic Association, Vol 80, pp. 581-

583.

30. Mathew, Roy J. and Wilson, William H. (1985), “Caffeine induced changes in

cerebral circulation”, Stroke, Vol 16, pp. 814-817.

31. Mccarten, William J. and Stotsky, Janet (1995), “Excise Taxes”, Tax policy

Handbook, pp. 100-103.

32. Moschini, Giancarlo (1995), “Units of Measurement and the Stone Index in Demand

System Estimation”, American Agricultural Economics Association, Vol 77, pp. 63-

68.

33. Oxford Economic (2013), The Impacts of Selective Food and Non-Alcoholic

Beverages Taxes, Oxford Economic Center.

42

34. Oxford Economics (2010), The Economic Benefits of the Reduction in Sales Tax on

Soft Drinks in Egypt: An Update, Oxford Economics Center.

35. Parker (1986). “Caffeine-induced psychosis”, Canadian Journal of Hospital

Pharmacy, Vol 39, pp. 13-15.

36. Perrin, Eliana M.; Flower, Kori B.; Garret, Joanne and Ammerman, Alice S. (2005),

“Preventing and treating obesity: Pediatricians’ self-efficacy, barriers, resources, and

advocacy”, Ambulatory Pediatrics, Vol 5, pp. 150-156.

37. Pindick, R. and Rubinfeld, D. (1995), Microeconomics, Prentice–Hall International

Inc.

38. Rangan, Anna; Hector, Debra; Louie, Jimmy; Flood, Victoria M. and Gill, Tim

(2009), Soft drinks, weight status and health: A review, NSW Centre for Public Health

Nutrition.

39. Sorvari, R. and Rytoma, I. (1991), “Drinks and dental health”, Proceedings of the

Finnish Dental Society, Vol 87, pp. 621-631.

40. Stiglitz, J. (1986), Economics of the Public Sector, W.W Norton & Company, New

York.

41. Stone, J. R. N. (1954), “Linear Expenditure Systems and Demand Analysis: An

Application to the Pattern of British Demand”, Economics Journal, Vol 64, pp. 51-27.

42. Tahmassebi, J.F.; Duggal, M.S.; Malik-Kotru, G. and Curzon, M.E.J. (2006), “Soft

drinks and dental health: A review of the current literature”, Journal of Dentistry, Vol

34, pp. 2-11.

43. Temple, Norman J.; Steyn, Nelia; Myburgh, Neil G. and Nel, Johanna H. (2006),

“Food items consumed by students attending schools in different socioeconomic areas

in Cape Town, South Africa”, Nutrition, Vol 22, pp. 252-258.

44. Theil, Henri (1965), “The Information Approach to Demand Analysis”, Econometrica,

Vol 33, pp. 67-87.

45. Theil, Henri and Clements, W. (1987), “Applied demand analysis results from system-

wide approaches”. Cambridge, MA Ballinger.

46. Vu Hoang Linh (2009), “Estimation of Food Demand from Household Survey Data in

Vietnam” Depocen Working Papers, Working Paper Series No. 2009/12.

43

47. Watson, Joanne M.; Lunt, Micheal J.; Morris, Steven; Weiss, Melanie J.; Hussey,

David and Kerr, David (2000), “Reversal of Caffeine withdrawal by ingestion of a soft

beverage”, Pharmacology Biochemistry and Behaviour, Vol 66, pp. 15-18.

48. Working, Holbrook (1943), “Statistical Laws of Family Expenditure”, Journal of the

American Statistical Association, Vol 38, pp. 257-74.

49. Zheng, Yuqing and Kaiser, Harry M. (2008), “Advertising and U.S. Nonalcoholic

Beverage Demand”, Agricultural and Resource Economics Review, Vol 37/2, pp. 147-

159.

44

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Tìm hiểu về ngoại tác tiêu cực của nước giải khát

Không có sự thống nhất về tác động tiêu cực của nước giải khát lên sức khỏe người tiêu

dùng sản phẩm này. Xu hướng ủng hộ cho rằng nước giải khát làm tăng cân dẫn đến tình

trạng béo phì, tiểu đường, và các vấn đề về thận. Tuy nhiên, ở thái cực ngược lại, người ta

cho rằng không đủ bằng chứng để kết luận nước giải khát gây ra các vấn đề sức khỏe.

Ở xu hướng ủng hộ, có nhiều nghiên cứu cố gắng thuyết phục các nhà làm chính sách rằng

nước giải khát chứa axit photphoric, CO2 bão hòa, đường là nguyên dân dẫn đến một loạt

các chứng bệnh như béo phì, loãng xương, tiểu đường, răng miệng…v.v.

Thứ nhất, xem xét tác động tới men răng của nước giải khát. Nghiên cứu của Sorvari và

Rytoma (1991) đưa ra kết luận rằng chất đường có trong trong đồ uống giải khát, khi sử

dụng sẽ được chuyển hóa bởi các vi sinh vật mảng bám trong miệng người uống tạo ra axit

hữu cơ dẫn đến sâu răng. Lussi và đ.tg (1993) cho rằng nước giải khát có ga, nước tăng lực

có nồng độ pH = 2.74, tương đương với nồng độ của một axit mạnh là nguyên nhân làm

giảm độ cứng bề mặt của răng. Nghiên cứu của Jandt (2006) kết luận nước giải khát có ga

làm tổn hại đến men răng thông qua quá trình khử canxi và photpho dẫn đến sụp đổ cấu

trúc răng, là nguyên nhân gây ra bệnh sâu răng ở giới trẻ. Còn Tahmassebi và đ.t.g (2006)

kết luận rằng việc tiêu thụ nước ngọt thường xuyên làm tăng nguy cơ phát triển sâu răng.

Thứ hai, xem xét tác động của nước giải khát đến bệnh béo phì. Năm 2003 Tổ chức Y tế

Thế giới (WHO) đưa ra các bằng chứng khoa học về mối liên hệ giữa đồ uống có đường và

gia tăng nguy cơ béo phì. Bray và đ.t.g (2004) chỉ ra rằng nước ngọt hiện nay chứa xiro

đường ngô (high-fructose corn syrup) một loại đường có ảnh hưởng quan trọng trong việc

gây ra bệnh béo phì. Perrin và đ.t.g (2005) đưa ra kết luận rằng các yếu tố ảnh hưởng đến

bệnh béo phì ở trẻ em bao gồm tăng tiêu thụ nước ngọt, chất béo, dầu và sodium. Đồng

thời nghiên cứu này cũng cho rằng việc quản lý tiêu thụ nước giải khát gặp nhiều khó khăn

nhất trong nhóm sản phẩm nói trên. Nghiên cứu của Kubik và đ.t.g (2005), và Temple và

đ.t.g (2006) so sánh mức độ béo phì của dân cư thành thị và nông thôn dựa trên phân tích

về chế độ dinh dưỡng. Kết quả chỉ ra rằng cư dân nông thôn tiêu thụ chủ yếu sữa, trái cây

và các loại đậu ít có nguy cơ bị béo phì hơn so với cư dân thành thị, những người có tỷ

trọng nước giải khát cao trong chế độ ăn uống hàng ngày. Khuyến cáo đưa ra là nên thay

45

đổi chế độ dinh dưỡng cho học sinh tại các trường học bằng việc loại bỏ bớt các đồ u ống

chứa đường.

Thứ ba, xem xét tác động của nước giải khát đến bệnh tiểu đường. Rangan và đ.t.g (2009)

tổng kết nhiều nghiên cứu và kết luận có mối quan hệ đồng biến giữa việc lạm dụng đồ

uống có đường và các bệnh béo phì, tiểu đường. Báo cáo này đưa ra tổng hợp về những

nghiên cứu mới đây về những vấn đề sức khỏe với việc tiêu thụ nước giải khát, và kết luận

rằng có mối quan hệ đồng biến giữa việc lạm dụng đồ uống có đường và các bệnh béo phì,

tiểu đường. Một nghiên cứu thực nghiệm khác được tiến hành trên những con chuột cho

uống nước soda, kết quả nghiên cứu đăng trên tạp chí North American Journal of Medical

Sciences cho rằng nước giải khát có tác động làm biến dạng và phá vỡ cấu trúc của thận

chuột khi cho chúng uống loại nước giải khát này trong vòng 30 ngày. Có nghĩa là việc sử

dụng liên tục sản phẩm này có tác động tiêu cực đến sức khỏe của chuột (Adjene và đ.t.g,

2010).

Thứ tư, xem xét tác động của nước gải khát đối với việc giảm canxi trong máu và bệnh

loãng xương. Massey và Strang (1982) chỉ ra a xít Photphoric trong nước giải khát có cơ

chế dẫn xuất làm giảm mật độ chất khoáng trong xương dẫn đến làm loãng xương. Một

mức độ acid phosphoric cao là một nguồn phốt pho ngoại sinh gây tăng phosphate huyết

(hyperphosphatemia), giảm canxi máu là nguyên nhân gây động kinh và giảm trí nhớ.

Nghiên cứu của Massey và Hollingbery (1988) kết luận chất caffeine trong nước giải khát

làm tăng mức độ bài tiết canxi trong nước tiểu, cũng như tạo kết tủa trong các mô mềm gây

ra sỏi thận. Caffeine trong nước giải khát không có giá trị dinh dưỡng, trái lại làm giảm lưu

lượng máu đến não dẫn đến sự lo âu, mất ngủ, hoang tưởng, rối loạn tâm thần, thậm chí

dẫn đến tử vong (Mathew và Wilson, 1985; Watson và đ.t.g, 2000; Parker, 1986).

Bên cạnh đó, một vài nghiên cứu còn cố gắng chứng minh nước giải khát có nguy cơ gây

ra vấn đề sỏi thận và ung thư như Larsson và đ.t.g (2006) cho rằng tiêu thụ quá nhiều nước

ngọt làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tụy.

Ở thái cực ngược lại, một nghiên cứu được xuất bản trong Tạp chí British Juornal of

Nutrition đã chứng minh rằng tăng mức độ cacbonat trong nước giải khát làm tăng cảm

giác no và sau đó giảm tiêu thụ lượng calo. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, so với

nước giải khát có cacbonat thấp, việc tiêu thụ nước giải khát có cacbonat trung bình và cao

46

đem lại cảm giác no nhiều hơn, lúc đó việc tiêu thụ thức ăn và năng lượng được giảm đi

đáng kể (Moorhead và đ.t.g, 2008, trích trong Adjene và đ.t.g, 2010). Nói cách khác, người

uống nước giải khát có gas trước khi ăn sẽ cảm thấy no hơn và ăn ít hơn. Những kết quả

này đã được nhắc đến trong một nghiên cứu riêng biệt của Trường Đại học Iowa. Nghiên

cứu này cũng chứng minh rằng người ta sẽ cảm thấy no nhanh hơn và do đó ăn một lượng

thức ăn ít hơn khi uống nước giải khát có ga so với uống nước giải khát không có ga

(Lambert và đ.t.g, 1993, trích trong Adjene và đ.t.g, 2010). Quan điểm phổ biến cho rằng

không phải chỉ có nước giải khát gây ra các vấn đề béo phì, tiểu đường mà nhiều sản phẩm

tiêu dùng khác có sử dụng đường trong sản xuất và lối sống ít vận động, ăn nhiều đồ ngọt

là những nguyên nhân gây ra các vấn đề sức khỏe cũng như khó khăn trong việc giảm thiểu

tình trạng thừa cân của người dân (Adam và Smed, 2012)

Như vây, không có sự thống nhất về nhận định tồn tại ngoại tác tiêu cực từ việc tiêu thụ

nước giải khát đối với sức khỏe người tiêu dùng sản phẩm này. Dựa trên những dẫn chứng

đã nêu trên, tác giả không ủng hộ kết luận cho rằng nước giải khát có tác động tiêu cực lên

sức khỏa của người tiêu dùng.

Phụ lục 2: Cách xây dựng hàm cầu theo lý thuyết kinh tế học

(a) Cách tiếp cận tối ưu và hình thành cầu tiêu dùng

Có hai cách tiếp cận có thể thay thế lẫn nhau để xây dựng hàm cầu dựa trên cách tiếp cận

tối ưu hóa, hay còn gọi là cách tiếp cận đối ngẫu (xem Hình ii.1).

Hình ii.1: Tối đa hóa độ thỏa dụng và tối thiểu hóa chi phí.

Max. U(q) Điều kiện pq = x0 Min. pq Điều kiện U(q) = U0 Tiếp cận đối ngẫu

Giải bài toán tối thiểu hóa chi phí Giải bài toán tối đa hóa độ hữu dụng

Thay thế

Thay thế Hàm cầu Marshallian q = D(x0, p) (Độ co giãn không bù đắp) Hàm cầu Hicksian q = H(U0, p) (Độ co giãn bù đắp)

Mệnh đề Roy Thay vào hàm chi phí Thay vào hàm hữu dụng Bổ đề Shephard

Nghịch đảo

Hàm chi tiêu C = C(U0, p) Hàm thỏa dụng gián tiếp U = UI(x0, p)

Nguồn: Lấy từ Phạm Thành Thái, 2013, Hình 2.3, trang 13.

47

Cách thứ nhất, người tiêu dùng tối đa hóa độ thỏa dụng (Max. U(q)) với điều kiện ràng

buộc là ngân sách bị giới hạn, hướng này cho ra hàm cầu Marshallian, là một hàm theo giá

và thu nhập. Hàm cầu này thường được gọi là hàm cầu thông thường (hàm cầu có độ co

giãn không bù đắp - Uncompensated Elasticity), và ký hiệu là D(p, x). Cách thứ hai, người

tiêu dùng tối thiểu hóa chi phí (Min. pq) với điều kiện độ thỏa dụng không đổi, giả định

rằng sự thay đổi trong thu nhập của người tiêu dùng sẽ “bù đắp” cho sự thay đổi của giá cả

để duy trì được độ thỏa dụng như ban đầu, cách này cho ta hàm cầu Hicksian, là một hàm

theo giá và độ thỏa dụng (hàm cầu có độ co giãn bù đắp - Compensated Elasticity), và ký

hiệu là H(p, U) (Hugh Gravelle & Ray Rees, 2004, trích trong Phạm Thành Thái, 2013).

(b) Cách tiếp cận xây dựng hàm cầu vi phân

Trái ngược với các cách tiếp cận tối ưu hóa đã được trình bày ở trên, cách tiếp cận xác định

tổng số phương trình vi phân không đòi hỏi xác định một dạng hàm đại số cụ thể về hàm

thỏa dụng, hàm thỏa dụng gián tiếp hay hàm chi phí. Nghiệm của phương trình ma trận cơ

bản được sử dụng để xây dựng một hệ các phương trình đường cầu vi phân tổng quát. Lấy

vi phân tổng của phương trình (2.1) trong mục 2.4 ta được:

(với i = 1, 2,…, n) (ii.1)

Phương trình (ii.1) được chuyển sang dạng hàm log bằng cách nhân hai vế với pi /x và thay

wi = piqi /x ta được:

(ii.2)

Tiếp tục đơn giản hóa phương trình (ii.2) sẽ tạo ra phương trình đường cầu cho hàng hóa i

được biểu diễn bằng:

(ii.3)

Trong đó, d(lnQ) là chỉ số lượng Divisia, và d(lnP) là chỉ số giá Frisch. Vì cách tiếp cận vi

phân bắt đầu với phương trình hàm cầu Marshallian để tạo ra hệ thống các phương trình

hàm cầu được thể hiện dưới dạng mối quan hệ giữa sản lượng, giá cả và thu nhập. Do đó,

cách tiếp cận này tạo ra hệ thống các phương trình hàm cầu phù hợp với lý thuyết tiêu

48

dùng. Barten (1964) và Theil (1965) sử dụng cách tiếp cận vi phân này để xây dựng ra mô

hình Rotterdam.

Phụ lục 3: Xây dựng hàm cầu theo cách tiếp cận đối ngẫu

(a) Xây dựng hàm cầu Marshallian

Để tạo ra các phương trình hàm cầu Marshallian ta giả định rằng người tiêu dùng sẽ tối đa

hóa độ thỏa dụng trong điều kiện giới hạn ngân sách. Độ thỏa dụng được giả định là một

hàm đồng biến với lượng hàng hóa tiêu dùng, nhưng độ thỏa dụng biên sẽ giảm khi tiêu

dùng tăng lên. Hàm thỏa dụng của người tiêu dùng cho n loại hàng hóa có liên quan với

nhau có dạng sau:

(iii.4)

Trong đó: qi là số lượng tiêu dùng của hàng hóa thứ i, với i = 1, 2,…,n.

Hàm thỏa dụng được tối đa hóa với điều kiện ràng buộc về ngân sách là hàm tuyến tính.

Trong đó, pi là giá của hàng hóa i, và x là thu nhập hoặc tổng chi tiêu. Lý thuyết giả định

rằng hàm thỏa dụng là khả vi; là hàm không giảm của lượng hàng hóa tiêu dùng và các

hàng hóa có thể chia nhỏ đến vô cùng cho nên mỗi độ thỏa dụng biên là dương.

(iii.6) Khi đó, ta có: ớ )

Như đã trình bày ở trên, cầu hàng hóa của một người tiêu dùng là tối đa hóa độ thỏa dụng

trong điều kiện ràng buộc về ngân sách chi tiêu. Vì vậy, để xây dựng hàm cầu, ta giải bài

toán tối đa hóa độ thỏa dụng ở phương trình (iii.4) với ràng buộc ngân sách ở phương trình

(iii.5) . Để giải bài toán này, ta sử dụng phương pháp nhân tử Lagrange.

Hàm Lagrange cho bài toán tối đa hóa độ thỏa dụng như sau:

Tham số được gọi là nhân tử Lagrange, và được hiểu như là độ thỏa dụng biên theo thu

nhập.

49

Lấy đạo hàm riêng phần bậc 1 của phương trình (iii.7) theo q và ta có:

(iii.8) với i=1, 2, …, n

Các đạo hàm bậc nhất ở phương trình (iii.8) và (iii.9) cho ta một hệ gồm (n+1) phương

trình, giải hệ này ta tìm được (n +1) ẩn số q1, q2, ..., qn và , với n là số hàng hóa được chi

tiêu. Số lượng tiêu dùng tối ưu phụ thuộc vào thu nhập và giá cả của người tiêu dùng. Do

đó, các hàm cầu Marshallian có thể được viết là:

* = Di(p1, p2,…, pn, x) = Di(x,p) ( với i = 1, 2, …, n)

(iii.10) qi

(b) Xây dựng hàm cầu Hicksian

Hàm chi phí của người tiêu dùng là đối ngẫu với hàm thỏa dụng, để thấy được điều này, ta

xét bài toán đối ngẫu “tối thiểu hóa chi phí” để đạt mức lợi ích nhất định.

Hàm chi phí có dạng sau:

(iii.11)

Trong đó:

pi: là giá của hàng hóa i

x: là thu nhập hoặc tổng chi tiêu

Hàm chi phí tối thiểu hóa với điều kiện ràng buộc về độ thỏa dụng không đổi như sau:

(iii.12) U* = U(q1, q2,…,qn)

Trong đó: qi là số lượng tiêu dùng của hàng hóa thứ i, với i = 1, 2,…, n.

Về mặt toán học để xây dựng hàm cầu Hicksian, ta sử dụng phương pháp nhân tử

Lagrange. Hàm Lagrange cho bài toán tối thiểu hóa chi phí có dạng sau:

(iii.13)

Trong đó, tham số µ được gọi là nhân tử Lagrange.

50

Để xây dựng hàm cầu Hicksian ta sử dụng phương pháp nhân tử Lagrange và biến đổi để

giải một hệ phương trình gồm (n+1) phương trình để tìm (n +1) ẩn số q1, q2, ..., qn và µ.

Kết quả là các số lượng qi là duy nhất và dương với các giá trị đã biết của giá cả và độ thỏa

dụng. Số lượng tối ưu phụ thuộc vào độ thỏa dụng và giá cả. Hàm cầu Hicksian (hàm cầu

bù đắp) có thể được viết là:

* = Hi(p1, p2,…, pn, U) = Hi(U,p) với i = 1, 2, …, n.

(iii.14) qi

Trong đó, p = (p1, p2,…, pn).

(c) Độ co giãn của cầu

Từ hàm cầu Marshallian Di(p, x) công thức tính độ co giãn của cầu theo thu nhập, giá riêng

và giá chéo được xác định như sau:

(1) Độ co giãn của cầu theo thu nhập

Độ co giãn của cầu theo thu nhập đo lường mức độ thay đổi lượng cầu của một mặt hàng

khi thu nhập của người tiêu dùng thay đổi với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Nó cho

biết khi thu nhập thay đổi 1% thì lượng cầu thay đổi bao nhiêu %. Độ co giãn của cầu theo

thu nhập được tính theo công thức sau:

Nếu Ei < 0: mặt hàng đang xét có thể là hàng thứ cấp; nếu 0 < Ei < 1: mặt hàng đang xét có

thể là hàng thiết yếu; và nếu Ei > 1: mặt hàng đang xét có thể là hàng xa xỉ.

(2) Độ co giãn của cầu theo giá riêng

Độ co giãn của cầu theo giá riêng đo lường mức độ thay đổi lượng cầu của một hàng hóa

khi giá của nó thay đổi với điều kiện các yếu tố khác không đổi. Độ co giãn theo giá riêng

cho biết khi giá thay đổi 1% thì lượng cầu của hàng hóa đó thay đổi bao nhiêu %.

Độ co giãn của cầu theo giá riêng được tính theo công thức sau:

51

Nếu : cầu co giãn nhiều theo giá; nếu : cầu co giãn đơn vị; nếu :

cầu co giãn ít theo giá; nếu : cầu hoàn toàn không co giãn; và nếu : cầu co

giãn hoàn toàn theo giá.

(3) Độ co giãn của cầu theo giá chéo

Độ co giãn của cầu theo giá chéo đo lường mức độ thay đổi lượng cầu của một hàng hóa

khi giá các hàng hóa khác thay đổi, với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Độ co

giãn chéo cho biết khi giá của một mặt hàng liên quan thay đổi 1% thì lượng cầu của hàng

hóa đang xét thay đổi bao nhiêu %. Độ co giãn của cầu theo giá chéo giữa hàng hoá i và j

được tính theo công thức sau:

Nếu Eij < 0: i và j là hai hàng hóa bổ sung; nếu Eij > 0: i và j là hai hàng hóa thay thế; và

nếu Eij = 0: i và j là hai hàng hóa độc lập.

(d) Các tính chất của hàm cầu

Theo Deaton và Muellbauer (1980) hàm cầu có 4 tính chất quan trọng gồm: (1) tính cộng

dồn; (2) tính đồng nhất; (3) tính đối xứng; và (4) tính nghịch chiều. Đây là 4 tính chất để

kiểm định tính xác thực giá trị về mặt lý thuyết của các hàm cầu ước lượng trong nghiên

cứu thực nghiệm cầu tiêu dùng.

(1) Tính cộng dồn (adding - up): Tính chất cộng dồn được đảm bảo nếu tổng chi tiêu ước

lượng cho các hàng hóa khác nhau bằng tổng chi tiêu của người tiêu dùng tại một thời

điểm nhất định.

(2) Tính đồng nhất: Nếu cả mức giá và thu nhập thay đổi với một tỷ lệ tương ứng thì

lượng cầu vẫn không thay đổi.

(3) Tính đối xứng của các đạo hàm chéo theo giá (ảnh hưởng thay thế chéo) của hàm cầu

bù đắp (hàm cầu Hicksian).

(4) Tính nghịch chiều, dùng để chỉ các hàm cầu bù đắp (hàm cầu Hicksian) có dạng dốc

xuống.

52

Phụ lục 4: Các dạng hàm cầu mô hình phương trình đơn

(a) Các dạng hàm log kép

Mô hình nghiên cứu dạng phương trình đơn được xem là mô hình nghiên cứu về cầu tiêu

dùng xuất hiện đầu tiên, đây là dạng hàm cầu tuyến tính theo các tham số, trong đó dạng

hàm log kép là dạng hàm phổ biến nhất (Deaton và Muellbaue, 1980, trích trong Phạm

Thành Thái, 2013). Mô hình này được xây dựng như sau:

Gọi qit là số lượng được tiêu dùng của hàng hóa i tại thời điểm t, pjt là giá của hàng hóa j

tại thời điểm t và Xt là mức chi tiêu tại thời điểm t, hàm log kép có dạng

(iv.15)

Các tham số ước lượng được có thể được giải thích như là độ co giãn của cầu theo giá và

độ co giãn theo thu nhập. Với j là các hàng hóa mà chúng được giả định có mối quan hệ

với hàng hóa i.

Các nhà kinh tế đã phát hiện ra có sự khác biệt về hành vi trong ngắn hạn và dài hạn. Houthakker và Taylor’s (1966) cho rằng tiêu dùng hiện tại phụ thuộc vào tiêu dùng ở thời

ký trước đó, nên hàm log kép và được viết như sau:

(iv.16)

Đến những năm 1970, các nghiên cứu cầu tiêu dùng dựa trên dữ liệu chuỗi thời gian được

quan tâm, một dạng hàm log kép mới được đề xuất. Ý tưởng cơ bản của mô hình này là

một mô hình tự hồi quy theo các độ trễ dựa, có thể được viết như sau:

(iv.17)

Trong đó r và s là số lượng các độ trễ, và có đòi hỏi là chúng được chọn đủ lớn để giải

thích cho tất cả tính động.

Nhìn chung, hệ thống hàm cầu dạng log kép có ưu điểm là dễ ước lượng, các hệ số hồi qui

được giải thích là độ co giãn của cầu. Tuy nhiên, các hàm cầu này có nhược điểm là khả

năng dự báo kém và xảy ra hiện tượng tự tương quan khi ước lượng. Hơn nữa, việc chỉ sử

53

dụng mô hình phương trình đơn sẽ bỏ qua tác động của các hàng hóa liên quan đến lượng

cầu của hàng hóa đang xét khi giá của những hàng hóa liên quan thay đổi.

(b) Phân tích Stone

Mô hình của Stone (1954) là mô hình hàm cầu dạng logarithmic.

(iv.18)

Trong đó, Ai là độ co giãn theo thu nhập (tổng chi tiêu) và Eij là độ co giãn riêng (i = j) và

độ co giãn chéo theo giá (i ≠ j).

Sau này hàm cầu này được điều chỉnh thành dạng hàm như phương trình (v.19) khi dụng

phương trình Slutsky và thừa nhận ràng buộc đồng nhất .

(iv.19)

Với P là chỉ số giá chung, và j là các hàng hóa thay thế và bổ sung có liên quan với hàng

hóa i.

Ưu điểm của phân tích Stone là có thể ước lượng được hiệu ứng thu nhập và hiệu ứng thay

thế với một hệ số co giãn cố định, áp đặt tính đồng nhất và cho phép kiểm tra ràng buộc âm

cho các hệ số co giãn theo giá riêng. Nhược điểm của phân tích Stone là nó không bắt

nguồn từ một hàm hữu dụng hợp lý, ngoại trừ trường hợp hiếm khi gặp là khi độ co giãn

của cầu theo thu nhập và theo giá riêng thống nhất với nhau và độ co giãn theo giá chéo

bằng không. Như vậy nó không được đảm bảo về mặt lý thuyết cầu. Phân tích này được

Stone sử dụng và có ảnh hưởng đáng kể trong phân tích tiêu dùng sau chiến tranh thế giới

lần thứ 2.

Phụ lục 5: Các mô hình hàm cầu hệ thống

(a) Working-Lesser

Mô hình này do Working (1943) và Leser (1963) đề xuất, đây là một trong những dạng

hàm cầu thường được sử dụng trong nghiên cứu cầu tiêu dùng. Mô hình Working – Leser

tổng quát có thể được viết như sau:

54

(v.20)

Trong đó:

i: sản phẩm thứ i, với i = 1, 2,…, n.

wi : Phần chi tiêu cho sản phẩm i trong tổng chi tiêu.

x: Tổng chi tiêu của tất cả các mặt hàng có trong mô hình.

Công thức tính độ co giãn theo chi tiêu (Ai) được biểu diễn như sau:

(v.21)

Lấy đạo hàm của phương trình (vi.20) theo ln(pj) ta có độ co giãn (Eij) của cầu theo giá

riêng (j = i) và theo giá chéo (j ≠ i) như sau:

(v.22)

Trong đó: là chỉ số Kronecker (Kronecker delta), bằng 1 khi i = j và ngược lại bằng 0.

Mô hình Working – Leser được sử dụng khá phổ biến trong các nghiên cứu cầu tiêu dùng

trong thực nghiệm vì nó đảm bảo được yêu cầu của lý thuyết cầu của hàm cầu Marshallian

là tính cộng dồn và tính đồng nhất.

(b) Hệ thống chi tiêu tuyến tính (Linear Expenditure System - LES)

Hệ thống chi tiêu tuyến tính của Stone (1954) là một trong những mô hình hàm cầu đầu

tiên được xây dựng từ lý thuyết cầu (Phạm Thành Thái, 2013). Hàm cầu này có dạng sau:

(v.23)

Hay: (v.24)

55

Trong đó: . Tham số γi được giải thích là lượng cầu tối thiểu cần thiết (or

subsistence quantities). Chỉ số piγi ở mô hình (v.24) biểu thị cho chi tiêu, chỉ số còn lại bên

phải trong mô hình (v.24) mô tả phần còn lại sau khi đã chi tiêu cho những lượng cầu tối

thiểu đó. Dạng hàm cầu này được hình thành từ hàm thỏa dụng có dạng:

Phương trình (v.24) là tuyến tính với các biến trong mô hình nhưng không tuyến tính với

tham số βi và γi, vì vậy nó đòi hỏi sử dụng phương pháp ước lượng phi tuyến tính.

Nhìn chung, hệ thống chi tiêu tuyến tính có ưu điểm là áp đặt được các ràng buộc của lý

thuyết cầu, và được xây dựng từ một hàm thỏa dụng rõ ràng. Mặt khác, hàm thỏa dụng này

là khá chặt chẽ, và đã loại trừ hàng hóa bổ sung. Nó cũng áp đặt tính xấp xỉ của độ co giãn

của cầu theo giá và theo thu nhập, đây là ràng buộc không theo yêu cầu của lý thuyết kinh

tế. Hơn nữa, các ràng buộc kinh tế lên mô hình không được nới lỏng, vì vậy, khó có thể

kiểm định các ràng buộc được mặc định bởi lý thuyết cầu tiêu dùng đối với dữ liệu.

(c) Mô hình hàm cầu Translog

Hệ thống hàm cầu translog (TL) do Christensen và đ.t.g (1975) đề xuất. Hệ thống hàm cầu

translog được xây dựng bằng việc áp dụng mệnh đề Roy với một đặc trưng bậc hai dạng

logarit của hàm thỏa dụng gián tiếp được viết trong điều kiện giá cả được chuẩn hóa theo

chi tiêu. Hàm thỏa dụng gián tiếp logarit bậc hai được viết như sau:

(v.25)

Với k, j = 1, 2,…, n. Áp dụng mệnh đề Roy cho phương trình (v.25), kết quả phương trình

hàm cầu như sau:

(v.26)

Trong đó, i = 1, 2,…, n. Mẫu số của phương trình (v.26) là tổng giá trị các tử số tương ứng

với các mức chi tiêu. Phương trình này còn có thể được viết dưới dạng:

56

(v.27)

Trong đó, , và M = n.

(d) Mô hình Rotterdam

Mô hình Rotterdam được phát triển bởi Theil (1965) và Barten (1966). Mỗi phương trình

trong hệ thống Rotterdam có thể được viết như sau:

(v.28)

Trong đó:

là tỷ phần chi tiêu cho sản phẩm i trong tổng chi tiêu

,

là độ co giãn bù đắp Với Ai là độ co giãn của chi tiêu cho hàng hóa i. Chúng ta cũng có

theo giá chéo, mà nó liên quan đến độ co giãn không bù đắp và độ co giãn theo chi tiêu dựa

trên phương trình Slutsky .

Mô hình Rotterdam bị chỉ trích trên cơ sở lý thuyết vì các tham số bi và cij trong phương

trình (ix.28) chỉ không đổi khi tổng các hệ số co giãn theo thu nhập bằng 1, tổng các hệ số

co giãn theo giá riêng bằng -1, và tổng các hệ số co giãn theo giá chéo bằng 0. Trong thực

nghiệm, vấn đề này không nghiêm trọng nếu bi và cij gần như không đổi. Tuy nhiên, mô

hình Rotterdam không xuất phát từ một hàm thỏa dụng như hệ thống chi tiêu tuyến tính.

Mặt khác nó ít chặt chẽ hơn hệ thống chi tiêu tuyến tính, và chấp nhận các ràng buộc kinh

tế được kiểm duyệt.

57

(e) Mô hình AIDS (Almost Ideal Demand System)

Dạng hàm phổ biến nhất trong đặc trưng hệ thống hàm cầu kể từ đầu những năm 1980 là

hàm cầu AIDS của Deaton và Muellbauer (1980). Hàm cầu AIDS được hình thành trong

điều kiện giới hạn về ngân sách, và mỗi phương trình hàm cầu có thể được viết như sau:

(v.29)

Trong đó: (v.30)

Hàm cầu AIDS là tuyến tính ngoại trừ dạng hàm translog của chỉ số giá lnP trong phương

trình (v.29). Vấn đề này được khắc phục bằng chỉ số giá Stone hoặc chỉ số giá Laspeyres,

các khắc phụ này sẽ cho ra hàm cầu tuyến tính và thường được viết là LA/AIDS (Linear

Approximate Almost Ideal Demand System). Các ràng buộc sau đã được Deaton và

Muellbauer (1980) đề xuất để đảm bảo tính bền vững lý thuyết cho hàm cầu AIDS:

Tính cộng dồn: , , (v.31)

Tính đối xứng: (v.32)

Tính đồng nhất: (v.33)

Để tính các độ co giãn của cầu theo thu nhập (chi tiêu), theo giá riêng, và theo giá chéo ta

sử dụng các công thức (2.4), (2.5), và (2.6) đã trình bày ở mục 2.6.2.

Hàm cầu AIDS có ràng buộc về tính cộng dồn được áp đặt do đó một phương trình phải

được bỏ ra trước khi ước lượng để tránh tạo ra một ma trận hiệp phương sai suy biến

(singular covariance matrix). Còn các ràng buộc về tính đồng nhất và tính đối xứng có thể

được kiểm định hoặc áp đặt lên các tham số trong quá trình ước lượng mô hình. Mô hình

AIDS có ưu điểm là xuất phát từ một hàm thỏa dụng, và cho phép áp đặt các ràng buộc để

kiểm định lý thuyết cầu.

Phụ lục 6: Cách tính tỷ lệ IMR

Để tính tỷ số IMR tác giả xây dựng mô hình về quyết định tiêu dùng bằng mô hình hồi quy

Probit để xác định xác suất mua sắm một mặt hàng nào đó. Kết quả ước lượng từ mô hình

58

hồi quy Probit với phương pháp ước lượng thích hợp cực đại (maximum likelihood) được

dùng để tính tỷ lệ IMR (Inverse Mill’s Ratio). IMR là tỷ lệ của các giá trị ước lượng của

hàm mật độ chuẩn hóa (ϕ) với các giá trị ước lượng của hàm phân phối tích lũy chuẩn hóa

(Φ) (Heckman, 1979, trích trong Phạm Thành Thái, 2013)

Tỷ lệ IMR được tính cho mỗi quan sát trong bộ dữ liệu, và có thể được tính theo công thức

sau:

(vi.34)

(vi.35)

(vi.36)

Phương trình (vi.34) xác định biến tiềm ẩn p*, biến nhị nguyên p có giá trị bằng 1 nếu

p*>0 và bằng 0 nếu p*≤ 0, x là các biến độc lập, β là các tham số thích hợp được ước

lượng. Trong phương trình (vi.35), q* chứa thông tin về các quan sát có giá trị của biến nhị

nguyên bằng 1.

Các quan sát có tiêu dùng dương IMR được tính theo công thức:

(vi.37) nếu yih = 1

Các quan sát không tiêu dùng được tính theo công thức:

(vi.38) nếu yih = 0

Trong đó, x là các biến giải thích bao gồm logarit giá mặt hàng i, các biến nhân khẩu học, β

là vector tham số thích hợp, yih là biến giả bằng 1 nếu hộ gia đình h tiêu dùng hàng hóa thứ

i và bằng 0 nếu hộ gia đình h không tiêu dùng (Phạm Thành Thái, 2013).

Tỷ lệ IMR sau khi tính toán được sẽ được sử dụng như một biến giải thích trong mô hình

ước lượng hàm cầu, và được mô tả theo hàm sau đây:

(vi.39)

Trong đó: f(xβ) là hàm cầu cần ước lượng.

59

Phụ lục 7: Thủ tục ước lượng mô hình LA/AIDS

Để xử lý vấn đề thiên lệch của mẫu, tác giả áp dụng thủ tục ước lượng hai bước của

Heckman được đề xuất bởi Heckman (1979). Ở bước thứ nhất, tác giả hiệu chỉnh vấn đề

không tiêu dùng bằng cách xác định tỷ số IMR với hàm hồi quy Probit và tính toán như đã

trình bày trong Phụ lục 6. Các tỷ số IMR cho các hộ gia đình được đưa vào hàm qui để ước

lượng ở bước thứ hai. Thủ tục ước lượng hai bước của Heckman cho hàm cầu nước giải

khát dạng AIDS được tóm tắt như sau:

Bước 1, ước lượng mô hình Probit sau đây:

(vii.40)

Trong đó, Ii là biến nhị nguyên, nhận giá trị bằng 1 nếu hộ gia đình h tiêu dùng hàng hóa

thứ i (nghĩa là wi > 0), và nhận giá trị bằng 0 nếu không tiêu dùng. Các biến khác được

định nghĩa như trong Bảng 3.1. Mô hình Probit (vii.40) được ước lượng cho bốn mặt hàng

đồ uống. Sau khi ước lượng mô hình hồi quy Probit, tỷ số IMR được tính cho những hộ gia

đình với tiêu dùng dương bằng cách sử dụng công thức (vi.37) và những hộ gia đình không

tiêu dùng được tính bằng công thức (vi.38) trong Phụ lục 6.

Mô hình LA/AIDS có nhiều phương pháp để ước lượng, chẳng hạn phương pháp SUR

(Seemingly Unrelated Regression), phương pháp OLS (Ordinary Least Squares), và

phương pháp Maximum likelihood. Sử dụng cách nào tùy thuộc vào cách tính chỉ số giá

chung (lnP). Các nghiên cứu thực nghiệm cầu tiêu dùng thường sử dụng chỉ số giá Stone vì

nó thỏa mãn điều kiện cộng dồn và tính đối xứng trong hệ thống hàm cầu (Le Quang Canh,

2008). Tuy nhiên, chỉ số giá Stone là khác nhau nếu có sự thay đổi trong các đơn vị đo

lường của giá cả (ví dụ: nghìn đồng/kg và nghìn đồng/lít). Một trong những cách để hiệu

chỉnh sự khác biệt trong đơn vị đo lường là chuẩn hóa bằng cách chia giá cả cho giá trị

trung bình mẫu của nó, thường được gọi là chỉ số giá Laspeyres (Moschini,1995). Trong

nghiên cứu này chỉ số Laspeyres được sử dụng để khắc phục sự khác biệt trong các đơn vị

đo lường các sản phẩm. Chỉ số giá Laspeyres được biểu diễn như sau:

(vii.41)

Bước 2, ước lượng hàm cầu nước giải khát tại Việt Nam với mô hình hàm cầu AIDS.

Sau khi tính các tỷ số IMR và xử lý chỉ số giá Laspeyres phương trình hàm cầu dùng cho

ước lượng cho các sản phẩm đồ uống ở Việt Nam như sau:

60

(vii.42)

Trong đó: là phần chi tiêu trung bình của hàng hóa i, πi là tham số của tỷ số IMR. Hàm

cầu nước giải khát ở Việt Nam được ước lượng bằng phương pháp SUR (Seemingly

Unrelated Regression). Phương pháp SUR được lựa chọn nhằm đạt được tính hiệu quả và

khắc phục khả năng có tương quan giữa các sai số ngẫu nhiên trong hệ thống các phương

trình hàm cầu do áp đặt các ràng buộc của lý thuyết cầu tiêu dùng. Vì điều kiện cộng dồn

tạo ra một ma trận hiệp phương sai suy biến, cũng như để thỏa mãn điều kiện cộng dồn phù

hợp với tính chất của hàm cầu nên một phương trình nào đó phải được loại bỏ từ hệ thống

hàm cầu trước khi ước lượng (Phạm Thành Thái, 2013). Trong nghiên cứu này phương

trình hàm cầu cho mặt hàng chè được loại bỏ. Các ràng buộc cộng dồn từ ở các công thức

(v.31) được sử dụng để tìm các tham số trong phương trình hàm cầu cho mặt hàng chè bị

loại bỏ. Các độ co giãn của cầu cho các mặt hàng thịt và cá theo chi tiêu (thu nhập), theo

giá riêng và theo giá chéo được tính theo các công thức (2.4), (2.5), và (2.6), và được tính

tại điểm trung bình mẫu.

61

Phụ lục 8: Kết quả hồi qui hàm Probit

Bảng viii.1: Kết quả hồi qui Probit và tính IMR cho mặt hàng nước giải khát

62

Bảng viii.2: Kết quả hồi qui Probit và tính IMR cho mặt hàng sữa tươi

63

Bảng viii.3: Kết quả hồi qui Probit và tính IMR cho mặt hàng cà phê

64

Bảng viii.4: Kết quả hồi qui Probit và tính IMR cho mặt hàng chè

65

Phụ lục 9: kết quả ước lượngmô hình LA/AIDS với ràng buộc tính đồng nhất và tính

đối xứng

. constraint 1 [w_beverage]log_Pmilk = [w_milk]log_Pbever

. constraint 2 [w_beverage]log_Pcafe = [w_cafe]log_Pbever

. constraint 3 [w_milk]log_Pcafe = [w_cafe]log_Pmilk

. constraint 4 [w_beverage]log_Pbever + [w_beverage]log_Pmilk +[w_beverage]log_Pcafe

+[w_beverage]log_Ptea = 0

. constraint 5 [w_milk]log_Pbever + [w_milk]log_Pmilk + [w_milk]log_Pcafe +

[w_milk]log_Ptea = 0

. constraint 6 [w_cafe]log_Pbever + [w_cafe]log_Pmilk + [w_cafe]log_Pcafe +

[w_cafe]log_Ptea = 0

.sureg ( w_beverage log_Pbever log_Pmilk log_Pcafe log_Ptea Expen log_age log_edu

log_hhsize location gender group2 group3 group4 group5 IMR_be) ( w_milk log_Pmilk log_Pbever log_Pcafe log_Ptea Expen log_age log_edu log_hhsize location gender group2

group3 group4 group5 IMR_mi) ( w_cafe log_Pcafe log_Pbever log_Pmilk log_Ptea

Expen log_age log_edu log_hhsize location gender group2 group3 group4 group5

IMR_ca), constraint(1 2 3 4 5 6)

66

Phụ lục 10: Độ co giãn theo giá chéo của các mặt hàng.

Độ co giãn theo giá chéo Mặt hàng Sữa tươi Cà phê Chè

Nước giải khát Sữa tươi Cà phê Chè Nước giải khát -2.77 1.19 0.21 0.69 0.66 -2.05 0.17 -0.06 0.41 0.65 -2.05 0.37 0.12 0.03 0.02 -1.19 Nguồn: tính toán của tác giả

67

Phụ lục 11: Tính toán tác động của thuế

Theo lý thuyết kinh tế học vi mô thì không phải tất cả gánh nặng thuế đều chuyển qua giá

chỉ trừ trường hợp (1) đường cầu hoàn toàn không co giãn, hoặc (2) đường cung co giãn

hoàn toàn theo giá. Có nghĩa là, một thuế suất nào đó sẽ được chia làm hai phần gồm thuế

cho người tiêu dùng (td) và thuế cho người sản xuất (ts). Phần thuế td chính là phần chuyển

vào giá hàng hóa trên thị trường, còn phần ts là phần thuế mà nhà sản xuất phải gánh chịu.

Nếu cầu co giãn theo giá nhiều hơn so với cung thì người tiêu dùng sẽ gánh chịu phần lớn

thuế và ngược lại. Điều này ngụ ý rằng, nếu đường cung nước giải khát là ít co giãn, thì

thuế sẽ chuyển vào giá tiêu dùng ít hơn so với phần thuế mà nhà sản xuất phải gánh chịu,

nên lượng tiêu dùng sẽ giảm ít. Ngược lại nếu cung nước giải khát co giãn mạnh theo giá

thì thuế sẽ chuyển phần lớn vào giá tiêu dùng, nhà sản xuất chịu thuế ít hơn, nhưng lượng

tiêu dùng sẽ giảm đi nhiều hơn. Như vậy, để đo lường thuế chuyển vào giá như thế cần

phải có được độ co giãn của cầu và của cung theo giá. Tuy nhiên, hạn chế về mặt dữ liệu

nghiên cứu không cho phép tác giả ước lượng được độ co giãn của cầu theo giá. Vì vậy, tác

giả sử dụng 3 giả định đặc biệt được sắp xếp theo mức độ tăng dần của độ co giãn của

cung theo giá để phân tích: (1) cung hoàn toàn không co giãn theo giá (Es=0, đường cung

thẳng đứng); (2) cung co giãn 1 đơn vị (Es=1); và (3) cung co giãn hoàn toàn theo giá

(Es=∞). Có thể mô tả 3 trường hợp này trên đồ thị sau đây.

P

P

Hình xi.2: Các trường hợp đặc biệt của mô hình thị trường nước giải khát

ES=0

ES=1

ES=∞

P

S

S

DWL

DWL

PD=Pt

DWL=0

t=td

S

P0

td ts

PD=Pt P0 Ps

t=ts

D

D

D

P0 Pt=Ps

0

0

0

Q

Q

Q

Q1 Q0

Q0=Qs=QD

Q1 Q0

(c) Cung co giãn hoàn toàn

(b) Cung co giãn 1 đơn vị

(a) Cung không co giãn

Ghi chú: Từ trái qua phải, độ co giãn của cung theo giá tăng dần, thuế chuyển vào giá

tăng dần, và tổn thất xã hội tăng dần.

Để xem xét tác động kinh tế của thuế lên ngành nước giải khát với giả định mức thuế suất

là t=10% như đề xuất của Bộ Tài Chính năm 2014, tác giả tiến hành phân tích 3 kịch bản

68

gồm: (a) Cung nước giải khát hoàn toàn không co giãn; (b) Cung nước giải khát co giãn 1

đơn vị; và (c) Cung nước giải khát co giãn hoàn toàn theo giá. Với mức giá trung bình

trong mẫu nghiên cứu P0 = 12.560 đồng/lít, và mức tiêu thụ tại thời điểm năm 2013, Q0 =

2.083.060.000 lít. Các công thức tính toán sau đây sẽ được sử dụng.

(i) Công thức tính sự phân bổ của thuế:

(ii) Công thức tính lượng cầu thay đổi:

=>

(iii) Công thức tính tổn thất xã hội:

(iv) Công thức tính doanh thu thuế:

TRthuế = t*PD*Q1

(v) Công thức tính GDP giảm:

GDP giảm = ∆Q*P0 (nếu thuế chuyển hết vào giá), hoặc

GDPgiảm = P0*∆Q - ts∆Q/2 (nếu thuế không chuyển hết vào giá)

(1) Kịch bản 1: Ed = -2,77 và Es = 0 (Hình a)

Thuế chuyển hết vào nhà sản xuất, và không gây ra biến dạng tiêu dùng, không có tổn thất

vô ích đối nền kinh tế. Và doanh thu thuế đạt được là lớn nhất.

TRthuế = 10%*12.560*2.083.060.000 = 2.616.323.360 nghìn đồng/năm (khoảng 2.616,3 tỷ

đồng/năm)

(2) Kịch bản 2: Ed = -2,77 và Es = 1 (Hình b)

Thuế phân bổ như sau: ts= 7,4% và td = 2,6%.

Nếu thuế là 10% thì giá tiêu dùng sẽ tăng lên 2,6%, và giá nước giải khát trên thị trường là:

PD = P0(1+td) = 12.560*(1+2,6%) = 12.886 đồng.

Lượng cầu giảm:

150.021.981,20 (lít)

Tổn thất xã hội là:

69

96.663.363 nghìn đồng (khoảng 97 tỷ

đồng)

Doanh thu thuế trong một năm có thể thu được:

(10%*12.886)*(2.083.060.000-150.021.981)= 2.491.021.041 nghìn TRthuế =

đồng/năm (2.491 tỷ đồng)

GDP giảm do giảm sản lượng sản xuất:

GDPgiảm = P0*∆Q - ts∆Q/2 = (12.560*150.021.981)-(7,5%*12,886*150.021.981/2)

= 1.884.203.586 nghìn đồng (khoảng 1.884 tỷ đồng/năm)

(3) Kịch bản 3: Ed = -2,77 và Es = ∞ (Hình c)

Nếu cung nước giải khát là co giãn hoàn toàn theo giá thì toàn bộ thuế sẽ chuyển hết vào

giá tiêu dùng. Mức giá mới: P1 = P0*(1+10%) = 13.816 đồng

Lượng cầu giảm:

577.007.620 (lít)

Lượng tiêu thụ mới: Q1 = 1,506,052,380 lit/năm

Tổn thất xã hội:

362.360.785 nghìn đồng (khoảng 362,4 tỷ

đồng)

Doanh thu thuế:

TRthuế= (10%*12.560)* 1.506.052.380 = 1.891.601.789 nghìn đồng (khoảng

1.891,6 tỷ đồng/năm)

GDP giảm do giảm sản lượng sản xuất:

GDPgiảm = ∆Q*P0 =577.007.620 *12.560 = 7.247.215.707 nghìn đồng (7.247,2 tỷ

đồng/năm)

Kết quả phân tích 3 kịch bản trên có hàm ý rằng, nếu cung nước giải khát là ít co giãn theo

giá (Es<1) thì chính sách thuế sẽ ít gây ra tổn thất xã hội, chính phủ sẽ thu được nguồn

thuế cao. Nhưng nếu cung nước giải khát co giãn mạnh theo giá (Es>1) thì tổn tác động

kinh tế của thế lớn, thể hiện qua phần mất trắng (DWL), và giá trị suy giảm trong tổng

GDP lớn dần theo mức độ tăng dần của Es.

70

Phụ lục 12: Nghi vấn chuyển giá của Coca-Cola và PepsiCo

Coca-Cola và PepsiCo đang bị đặt trong mối nghi ngờ có hoạt động chuyển giá tại Việt

Nam. Tính đến năm 2011, lỗ lũy kế của Coca-Cola ở Việt Nam đã lên đến hơn 3,768 tỷ

đồng, vượt cả số vốn điều lệ đã đăng ký là 2,950 tỷ đồng. Mặc dù thua lỗ nhưng Coca-Cola

vẫn tiếp tục kế hoạch mở rộng đầu tư ở Việt Nam. Họ có kế hoạch mở rộng đầu tư thêm

300 triệu USD, và đặt mục tiêu tăng doanh thu bán hàng lên gấp đôi vào năm 2020. Tổng

doanh thu của Coca-Cola vào khoảng 2,500 tỷ đồng (năm 2010), và có mức tăng trưởng

2,5 lần trong giai đoạn 2007-2010, tuy nhiên chi phí lại tăng gấp 3 lần trong cùng giai đoạn

này. Coca-Cola liên tục thua lỗ tại Việt Nam và chưa năm nào phải đóng thuế thu nhập

doanh nghiệp, các khoản thuế mà họ đóng là thuế môn bài, thuế giá trị gia tăng và thuế thu

nhập cá nhân. Biểu đồ dưới đây mô tả tình hình kinh doanh của Coca-Cola (Đỗ Thiên Anh

Tuấn, 2014).

Hình xii.3: Doanh thu, lợi nhuận của Coca-ColaViệt Nam 2004-2010 (tỷ đồng)

Nguồn: Lấy từ Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2014, trang 8.

Để giải thích cho nghi vấn trên, phía cơ quan quản lý thuế, mà đại diện là Cục thuế

TP.HCM cho rằng nguyên nhân nằm ở chi phí nguyên phụ liệu, trong đó chủ yếu là hương

liệu được nhập trực tiếp từ công ty mẹ với giá rất cao. Năm 2010 chi phí do nhập nguyên

vật liệu từ công ty mẹ lên đến 1.671 tỷ đồng trên doanh thu 2.329 tỷ đồng, bình quân hàng

năm chi phí này chiếm đến gần 80% giá vốn hàng bán. Còn phía Coca-Cola cho rằng, chi

phí tăng cao do xuất hiện đối thủ cạnh tranh, giá nguyên nhiên liệu, giá điện và giá đường

tăng, trong đó việc mua nguyên vật liệu từ thị trường nước ngoài khá đắt đỏ đã làm đội giá

71

thành sản phẩm. Bên cạnh đó, công ty phải đi vay vốn, lãi suất, và rủi ro tỉ giá cho các

khoản vay bằng USD (Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2014).

Nhà quản lý đã xem xét kỹ báo cáo tài chính của Coca-Cola, nhưng việc chứng minh có

chuyển giá hay không là không hề dễ vì không có cơ sở so sánh khi nguyên liệu đầu vào

của Coca-Cola Việt Nam là do công ty mẹ độc quyền cung cấp. Coca-Cola Việt Nam cho

rằng, giá nguyên phụ liệu cao do đây là sáng chế lâu đời và có cả chi phí chất xám. Bên

cạnh đó, các khoản vay nợ ngắn hạn của Coca-Cola từ công ty mẹ lên đến hơn 2.020 tỷ

đồng, còn các khoản nợ khác chỉ 343 tỷ đồng. Coca-Cola Việt Nam đi vay và phải trả lãi

cho công ty mẹ có thể giúp tạo ra một khoản lợi thuế do lá chắn thuế của lãi vay, hoặc thua

lỗ do gánh nặng lãi vay cao. Cục thuế TP.HCM đã đưa Coca-Cola và vị trí số 1 trong danh

sách doanh nghiệp nghi vấn có dấu hiệu chuyển giá (Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2014).

Tình hình tương tự cũng xảy ra với PepsiCo, cho dù tình hình của công ty này có khả quan

hơn. PepsiCo đã lỗ liên tục kể từ 1991 đến 2007, lỗ lũy kế tính đến năm 2010 là 1.206 tỷ

đồng. Năm 2007 là năm đầu tiên công ty này có lãi, và có tổng thu nhập chịu thuế là 58 tỷ

đồng, nhưng được chuyển lỗ theo qui định nên chưa phải nộp thuế. Đến năm 2008 lại lỗ và

ba năm gần đây mới có lãi ở mức trên 100 tỷ đồng, con số quá nhỏ bé so với thị phần và

doanh thu của PepsiCo ở Việt Nam (năm 2009, PepsiCo có doanh thu 3.840 tỷ đồng, năm

2011 là 6.915 tỷ đồng, tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu chỉ trên 2%) (Đỗ Thiên Anh Tuấn,

2014).