intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài 5: Mở đầu sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ và quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc (1954-1960)_4

Chia sẻ: Trần Lê Kim Yến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

130
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo bài viết 'bài 5: mở đầu sự nghiệp kháng chiến chống mỹ và quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở miền bắc (1954-1960)_4', tài liệu phổ thông, ôn thi đh-cđ phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài 5: Mở đầu sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ và quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc (1954-1960)_4

  1. Bài 5: Mở đầu sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ và quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội ở miền Bắc (1954-1960) III. NGHỊ QUYẾT 15 VÀ PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI, NGHỊ QUYẾT 16 VÀ PHONG TRÀO CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) Trong không khí sục sôi căm thù và trước xu thế vùng dậy của quần chúng, tháng 1-1959 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) họp Hội nghị lần thứ 15. Nghị quyết Hội nghị 15, là kết quả của quá trình tìm tòi, nghiên cứu, thử nghiệm, đúc kết kinh nghiệm cách mạng nước ta, tổng hợp tình hình phong trào cách mạng miền Nam từ năm 1954 đến năm 1958. Hội nghị đồng thời theo dõi những diễn biến mới nhất của tình hình thế giới như Cách mạng dân chủ tư sản Irắc 1958, Cách mạng Cuba 1959. Hội nghị chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam:một là, mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam và một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và
  2. nhân dân miền Nam; hai là, mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc. Tuy tính chất khác nhau, hai mâu thuẫn cơ bản đó có mối quan hệ biện chứng và tác động lẫn nhau. Căn cứ vào sự phân tích mâu thuẫn xã hội nước ta, Hội nghị nhất trí đề ra nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới: Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, ra sức củng cố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Về nhiệm vụ của cách mạng ở miền Nam, Hội nghị quyết định: 1. Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị đế quốc và phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. 2. Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống
  3. đế quốc xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Hội nghị dự báo: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta. Nghị quyết 15 chủ trương cách mạng miền Nam cần có mặt trận dân tộc thống nhất riêng với tính chất, nhiệm vụ và thành phần thích hợp nhằm tập hợp rộng rãi tất cả các lực lượng chống đế quốc và tay sai. Đảng ta cần nghiên cứu và chủ động sử dụng khuynh hướng hoà bình, trung lập đang nảy nở trong tư sản dân tộc và trí thức lớp trên; coi trọng công tác binh vận, triệt để lợi dụng mâu thuẫn của chế độ Mỹ - Diệm, tranh thủ
  4. thêm bạn bớt thù. Về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ miền Nam, nghị quyết chỉ rõ: sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ độc tài phát xít là một yếu tố quyết định thắng lợi của phong trào cách mạng miền Nam. Vấn đề mấu chốt là phải củng cố Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đề cao công tác bí mật, triệt để sử dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để che giấu lực lượng của Đảng, không ngừng nâng cao cảnh giác, tỉnh táo đề phòng mọi sự xâm nhập, phá hoại của bọn gián điệp và những phần tử đầu hàng, phản bội để bảo vệ các cơ quan đầu não và che giấu cán bộ, xây dựng ở các địa phương những cơ sở an toàn và khu an toàn. Tại Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: - Cứu nước là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. - Không phải một lúc ta đánh đổ ngay chế độ Mỹ - Diệm. Vì vậy cần đánh lui địch từng bước, tranh từng thắng lợi về phía mình. Chuẩn bị lực lượng khi thời cơ đến. - Cách mạng miền Nam nhất định thắng lợi, vì Đảng ta và dân ta có đủ sức khắc phục khó khăn. - Chỉ cần nhân dân ta đoàn kết một lòng, trước hết là đoàn kết trong
  5. Đảng, thì mọi khó khăn sẽ vượt qua. Nghị quyết 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, đã xoay chuyển tình thế, dẫn đến cuộc "Đồng khởi" oanh liệt của toàn miền Nam năm 1960. Sau này, khi tổng kết một số vấn đề lịch sử thời kỳ 1954 - 1975, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã kết luận: "Nghị quyết Trung ương 15 rất đúng, làm xoay chuyển hẳn tình thế, nhưng trước đó Đảng có khuyết điểm về chỉ đạo cách mạng miền Nam. Đặc biệt trong hai năm 1957 - 1958, ta có sai lầm trong chỉ đạo chiến lược, chậm chuyển hướng chỉ đạo đấu tranh, chỉ nhấn mạnh đấu tranh chính trị khi địch đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng tay giết hại cán bộ, nhân dân". 2. Phong trào "Đồng khởi" ở miền Nam Ngay sau Hội nghị lần thứ 15, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương lập đơn vị vận tải quân sự dọc Trường Sơn, gọi tắt là Đoàn 559 và đơn vị vận tải vượt biển Đông, gọi tắt là Đoàn 759. Trong hai năm 1959 - 1960, hai con đường này đã đưa vào Nam hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ và hàng chục tấn hàng quân sự tiếp sức cho phong trào cách mạng miền Nam. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương (khoá II), các đảng bộ Nam Bộ và Liên khu V đã coi trọng việc đưa
  6. Nghị quyết xuống tận cơ sở và quần chúng cách mạng. Phong trào "Đồng khởi" (khởi nghĩa từng phần) bắt đầu. Ở Liên khu V, sau cuộc khởi nghĩa Bác Ái (1958), trong năm 1959 diễn ra các cuộc khởi nghĩa Trà Bồng, Sơn Hà, Ba Tơ, Đức Phổ. Ở Nam Bộ, nhân dân nhiều nơi ở miền Đông, miền Trung và miền Tây nổi dậy làm tan rã từng mảng bộ máy thống trị và kìm kẹp của địch ở cơ sở. Ngày 16-9-1959, lực lượng vũ trang cách mạng chặn đánh ở Gò Quản Cung, tỉnh Kiến Phong (nay thuộc Đồng Tháp), tiêu diệt một tiểu đoàn ngụy. Đêm 24-9-1959, Khu ủy Khu 8 (Trung Nam Bộ) họp bàn việc triển khai thực hiện Nghị quyết 15, quyết định lãnh đạo các địa phương trong khu đồng loạt nổi dậy vào tháng giêng năm 1960. Thực hiện Nghị quyết, tỉnh uỷ Bến Tre quyết định phát động tuần lễ "toàn dân đồng khởi" nhằm phá ách kìm kẹp của địch xây dựng chính quyền cách mạng. Ngày 17-1-1960, nhân dân huyện Mỏ Cày nhất tề nổi dậy, diệt ác phá đồn, đập tan bộ máy cai trị và hệ thống kìm kẹp của địch ở cơ sở. Từ thắng lợi Mỏ Cày, phong trào lan nhanh sang các huyện Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú, Bình Đại. Chính quyền tự quản và lực lượng vũ trang cách mạng được thành lập, bọn ác ôn bị đưa ra xét xử, ruộng đất của địa chủ được đem chia cho nông dân.
  7. Theo chủ trương của Xứ uỷ Nam Bộ, đêm 25 rạng ngày 26-1-1960, lực lượng vũ trang cách mạng bất ngờ tiến công căn cứ Tua Hai (Tây Ninh) tiêu diệt và bắt sống 500 quân nguỵ, cổ vũ quần chúng vùng lên giải phóng 24 xã trong tỉnh, xoá bỏ 70% bộ máy kìm kẹp của địch ở xã, ấp. Hoà nhịp với cuộc Đồng khởi ở Bến Tre và Tây Ninh, các tỉnh Mỹ Tho, Tân An, Trà Vinh, Bạc Liêu, Rạch Giá, Cà Mau, Châu Đốc, Long Xuyên, Sóc Trăng, Cần Thơ, Kiến Phong, Kiến Tường... đồng loạt nổi dậy và làm chủ khoảng 2/3 số ấp, xã. Ngọn lửa nổi dậy, tiến công bốc cao và lan rộng ở đồng bằng Nam Bộ, ở rừng núi miền Trung. Hầu hết các ban tề ấp, xã tan rã, tê liệt. Vùng giải phóng liên hoàn hình thành, nối liền các huyện, các tỉnh. Trong vùng giải phóng, quyền làm chủ hoàn toàn thuộc về quần chúng lao động. Một hình thức chính quyền nhân dân ra đời. Tính đến cuối năm 1960, cao trào "Đồng khởi" của nhân dân miền Nam đã căn bản làm tan rã cơ cấu chính quyền địch ở đại bộ phận cơ sở. Thế trận của địch ở miền Nam bị đảo lộn, từ chỗ tập trung lực lượng hô hào "Bắc tiến" chúng phải dồn về chống đỡ với cách mạng miền Nam.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2