Bài giảng Khuyến nông - Trường Cao Đẳng Lào Cai
lượt xem 10
download
(NB) Bài giảng Khuyến nông được biên soạn với sự kế thừa và phát triển các giáo trình, tài liệu về khuyến nông. Bài giảng Khuyến nông gồm 4 chương: Một số vấn đề chung về công tác khuyến nông; Hệ thống tổ chức khuyến nông; Các phương pháp khuyến nông; Bảo vệ môi trường trong công tác khuyến nông.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài giảng Khuyến nông - Trường Cao Đẳng Lào Cai
- ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG Thạc sỹ. Phạm Thạch BÀI GIẢNG KHUYẾN NÔNG Lào Cai, tháng 1 năm 2014 1
- LỜI NÓI ĐẦU Hiện nay việc xây dựng mạng lưới khuyến nông viên cơ sở đang được các cấp tích cực triển khai thực hiện. Một trong những yêu cầu về năng lực của khuyến nông viên là phải nắm vững kỹ năng nghiệp vụ khuyến nông để có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác khuyến nông ở vùng nông thôn, đặc biệt là nông thôn miền núi. Tập bài giảng Khuyến nông phục vụ chủ yếu cho đối tượng sinh viên hệ đại học. Tuy nhiên đây cũng là tài liệu tham khảo cho cán bộ khuyến nông khuyến lâm và các đối tượng nghiên cứu trong lĩnh vực này. Bài giảng Khuyến nông nhằm nâng cao nhận thức và tầm quan trọng của khuyến nông đối với công cuộc phát triển nông lâm nghiệp và nông thôn. Bài giảng cung cấp những kiến thức cơ bản về khuyến nông, những phương pháp khuyến nông, cách tổ chức, lập kế hoạch và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân. Những kỹ năng cơ bản để trở thành một người cán bộ khuyên nông cơ sở giỏi là những nội dung và yêu cầu quan trọng của bài giảng. Bài giảng Khuyến nông được biên soạn với sự kế thừa và phát triển các giáo trình, tài liệu về khuyến nông. Bài giảng Khuyến nông gồm 4 chương: Một số vấn đề chung về công tác khuyến nông; Hệ thống tổ chức khuyến nông; Các phương pháp khuyến nông; Bảo vệ môi trường trong công tác khuyến nông. 2
- Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ KHUYẾN NÔNG 1.1. KHÁI NIỆM VỀ KHUYẾN NÔNG 1.1.1. Định nghĩa khuyến nông Khuyến nông là một từ khó định nghĩa nhưng đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau tùy thuộc từng mục đích khác nhau. Sau đây là một số quan điểm và định nghĩa về khuyến nông. Trước hết, theo nghĩa Hán - Văn, “khuyến” có nghĩa là khuyên người ta có gắng sức trong công việc, còn “khuyến nông” có nghĩa là khuyến mở mang phát triển trong nông nghiệp. Theo ngôn ngữ phương Tây, thuật ngữ “extension” có nguồn gốc từ Anh từ những năm 1866 với một hệ thống trường Đại học. “Extension” - Khuyến nông được tiếp nhận trước tiên ở các trường Đại học như Cambridge và Oxford, sau đó được mở rộng tới các hội giáo dục khác ở Anh và các nước khác. “Extension” với nghĩa ban đầu là “triển khai” hay “mở rộng” nếu khi ghép với từ “Agriculture” thành “Agriculture Extension” thì được dịch là “khuyến nông” và hiện nay đôi khi chỉ nói “Extension” người ta cũng hiểu đó là khuyến nông. “Khuyến nông là phương pháp động, nhận thông tin có lợi tới người dân và giúp họ thu đươc những kiến thức, kỹ năng và những quan điểm cần thiết nhằm sử dụng một cách có hiệu quả thông tin hoặc kỹ thuật này” (theo B.E. Swanson và J.B. Claar). 3
- “Khuyến nông khuyến lâm là một sự giao tiếp thông tin tỉnh táo nhằm giúp nông dân hình thành những ý kiến hợp lý và tạo ra các quyết định đúng đắn” (theo A.W. Van den Ban và H.S. Hawkins). “Khuyến nông khuyến lâm được xem như một tiến trình của việc hòa nhập các kiến thức khoa học kỹ thuật hiện đại. Các quan điểm, kỹ năng để quyết định cái gì cần làm, cách thức làm trên cơ sở cộng đồng địa phương sử dụng các nguồn tài nguyên tại chỗ với sự trợ giúp từ bên ngoài để có khả năng vượt qua các trở ngại gặp phải” (D.Sim và H.A. Hilmi). “Khuyến nông khuyến lâm là làm việc với nông dân, lắng nghe những khó khăn, các nhu cầu và giúp họ tự quyết định giải quyết vấn đề của chính họ” (Malla, A Manual for training Field Workers). “Khuyến nông khuyến lâm là một quá trình giáo dục. Các hệ thống khuyến lâm thông báo, thuyết phục và kết nối con người, thúc đẩy các dòng thông tin giữa nông dân và các đối tượng sử dụng tài nguyên khác, các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý và các nhà lãnh đạo” (Falconer, J.) “Khuyến nông là một từ tổng quát dùng để chỉ tất cả các công việc có liên quan đến sự nghiệp phát triển nông thôn, đó là một hệ thống giáo dục ngoài nhà trường, trong đó có người già và người trẻ học bằng cách thực hành” (Thomas. G. Floes). Qua rất nhiều định nghĩa trên, chúng ta có thể định nghĩa khuyến nông như sau: “Khuyến nông là một quá trình trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, truyền bá kiến thức, đào tạo kỹ năng và trợ giúp những điều kiện cần thiết trong sản xuất nông lâm nghiệp cho nông dân để họ có đủ khả năng tự giải quyết được những công việc của chính mình nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho gia đình và cộng đồng”. Nghị định 56CP/2005/NĐ-CP ngày 26 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ về khuyến nông khuyến ngư có quy định: các tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức cá nhân nước ngoài có hoạt động khuyến nông trong lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy nông, nghề muối, chế biến, bảo quản nông lâm sản, ngành nghề nông thôn và khuyến ngư trong lĩnh vực: nuôi trồng, khai thác, bảo quản, chế biến thủy sản (gọi chung là khuyến nôn, khuyến ngư trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản). 1.1.2. Tiến trình của khuyến nông - Kiến thức và kỹ năng: Khuyến nông cung cấp kiến thức kỹ thuật và huấn luyện các kỹ năng khác nhau cho nông dân. Muốn phát triển sản xuất có hiệu quả, nông dân cần kiến thức mới và những kỹ năng mới. Ví dụ cách tổ chức và quản lý trang trại kể cả việc theo dõi và ghi chép những khoản thu, chi, cách sử dụng những loại 4
- công cụ mới hoặc khả năng phân tích các thông tin về thị trường nông sản hàng hóa. - Những khuyến cáo kỹ thuật: Khuyến nông cung cấp thông tin và những khuyến cáo kỹ thuật giúp nông dân tự mình đưa ra quyết định và hành động. Thông tin bao gồm giá cả và thị trường của những mặt hàng mà họ có thể sản xuất hoặc quan tâm, hoặc có những loài cây/con giống họ đang cần. Khuyến cáo kỹ thuật trên cơ sở những kết quả nghiên cứu, thường tập trung vào các hoạt động canh tác và những tác động cần thiết để nâng cao hiệu quả sản xuất. - Tổ chức nông dân: Nông dân có một tổ chức để đại diện cho quyền lợi của mình và thực hiện những công việc mang tính cộng đồng. Vì vậy cán bộ khuyến nông cần giúp họ tổ chức thành những tổ, nhóm khác nhau trên cơ sở mục đích hoặc lợi ích chung của họ. Những tổ nhóm như vậy thường đóng vai trò kênh thông tin đến nông dân và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác khuyến nông. - Động cơ và lòng tin: Một trong những khó khăn của tiến trình phát triển nông thôn hiện nay là nhiều nông dân phải “đơn thương độc mã” đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn và cảm thấy khó có thể làm được việc gì để thay đổi cuộc sống của mình. Họ thiếu sự động viên và hỗ trợ từ bên ngoài. Vì vậy, cán bộ khuyến nông cần đến với họ, giúp đỡ họ và khuyến khích họ tham gia các chương trình khuyến nông. Nhưng điều quan trọng hơn cả là phải thuyết phục và động viên để họ tin tưởng rằng họ hoàn toàn có thể tự quyết định và hành động để cải thiện cuộc sống của chính mình. Động cơ của hành vi có thể là một cái gì đó mà con người muốn có, muốn cảm nhận hoặc biến thành sự thật. Trong công tác khuyến nông việc tìm hiểu động cơ người dân có thể giúp ta trong hai tình huống: khi muốn giúp họ và khi muốn họ thay đổi hành vi. Để giúp con người khắc phục vấn đề nào đó của họ trước tiên ta phải tìm hiểu tại sao họ lại có hành vi như họ đang thực hiện?. Một sự phân tích có hệ thống có thể cho phép chúng ta giúp họ những vấn đề mà họ cảm thấy cần có sự giúp đỡ thực sự. Khi một cán bộ khuyến nông muốn thuyết phục người này thay đổi hành vi, thực hiện một vấn đề mới, bản thân anh ta phải tin rằng phương pháp đó là tốt hơn, hiệu quả hơn hay sinh lợi hơn. Nhưng như thế chưa đủ, còn phải xem xét tác động của vấn đề mới ra sao, liệu vấn đề mới có đáp ứng được một trong các nhu cầu của họ hay không? Khuyến nông được coi như là một công tác tổ chức, thiết kế để cải thiện điều kiện sinh sống của các nông dân và nông thôn, bằng cách hướng dẫn cho họ thực hiện tốt hơn các kỹ thuật canh tác, cải thiện phương pháp làm việc. Khuyến nông được bắt đầu từ bất cứ đâu mà con người hiện diện với nguồn lực sẵn có của họ. 5
- 1.1.3. Mục tiêu của khuyến nông Mục tiêu cơ bản của khuyến nông được cho là khá thống nhất ở các quốc gia. Theo tác giả Đỗ Tuấn Khiêm và Nguyễn Hữu Hồng, 2005 cho rằng: Mục tiêu của khuyến nông là làm thay đổi cách đánh giá, cách nhận thức của người nông dân trước những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông không chỉ nhằm hướng tới những mục tiêu phát triển kinh tế mà còn hướng tới sự phát triển toàn diện của bản thân người nông dân, nâng cao năng lực và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân ở nông thôn Đường lối đổi mới của Nhà nước được khởi sướng từ năm 1986 đã đem lại những thay đổi to lớn cho nền kinh tế và xã hội trên phạm vi cả nước. Ở nông thôn, hộ gia đình đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ, được giao đất ổn định, lâu dài. Người nông dân đã và đang ở trong thời kỳ thích nghi nhanh chóng với hệ thống giao đất, chuyển đổi kinh tế từ tự túc sang sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường năng động. Từ sau khi gia nhập WTO (ngày 7/11/2006), nhiều cơ hội và thách thức đã đến với nước ta. Những thay đổi đó đòi hỏi những hộ nông dân phải có những thông tin tư vấn để phát triển sản xuất và tăng thu nhập. Nông thôn Việt Nam hiện nay cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như đói nghèo, đất nông nghiệp bị thu hẹp, thất nghiệp, vấn đề hợp tác trong nông nghiệp. Do vậy, để giải quyết những vấn đề này thì mục tiêu tổng quát của khuyến nông Việt Nam là thúc đẩy và hỗ trợ sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu của quốc gia và địa phương trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn, đồng thời bảo tồn được các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Theo Nghị định 56/2005/NĐ-CP ngày 26/04/2005 thì mục tiêu của khuyến nông, khuyến ngư Việt Nam là: - Nâng cao nhận thức về chủ trương, chính sách, pháp luật, kiến thức, kỹ năng về khoa học kỹ thuật, quản lý, kinh doanh cho người sản xuất. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển sản xuất theo hướng bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. - Huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia khuyến nông, khuyến ngư. Theo Nghị định 02/2010/NĐ-CP ngày 8/1/2010, mục tiêu của khuyến nông được điều chỉnh là: 6
- - Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của người sản xuất để tăng thu nhập, thoát đãi nghìo, làm giàu thông qua các hoạt động đào tạo nông dân về kiến thức, kỹ năng và các hoạt động cung ứng dịch vụ để hỗ trợ nông dân sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, thých ứng cá điều kiện sinh thá khí hậu và thị trường. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, ổn định kinh tế – xã hội, bảo vệ môi trường. - Huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia khuyến nông. Như vậy, trong Nghị định mới nhất này, mục tiêu khuyến nông đã có sự thay đổi đáng kể, theo đó nhấn mạnh đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất hàng hoá, nâng cao chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Muốn đạt được những mục tiêu đó, người cán bộ khuyến nông phải thảo luận với nông dân, giúp họ có cách nhìn thực tế và lạc quan hơn đối với mọi vấn đề trong cuộc sống để họ tự quyết định biện pháp vượt qua những khó khăn. Quan điểm về mục tiêu của công tác khuyến nông hiện nay có hai xu hướng như ở bảng dưới đây: Quan điểm 1 Quan điểm 2 Nhằm tăng năng suất cây trồng, vật Nhằm giải quyết các vấn đề nuôi Từng phần Toàn diện Chỉ có khuyến nông Tổng hợp nhiều dịch vụ Đại diện Nhà nước Tự giúp đỡ, dựa vào NGOs Tập trung Phi tập trung, mang tính tham gia Làm việc trên phạm vi rộng Làm việc tại địa bàn nhỏ Chỉ chuyển giao kiến thức Cũng làm nảy sinh kiến thức Trực tiếp Không trực tiếp Ví dụ, ở một số quốc gia thiếu lương thực trầm trọng, thường được giao trách nhiệm là bằng mọi cách tăng năng suất cây trồng, nhưng cũng có thể là tìm các giải pháp để nâng cao thu nhập của người nông dân. Điều muốn trao đổi ở đây là cán bộ khuyến nông có thể nói với nông dân rằng cái mà họ phải 7
- làm là giúp nông dân tìm ra các giải pháp cho các vấn đề của họ. Phương thức khuyến nông như vậy thường được các tổ chức khuyến nông Nhà nước ở các nước đang phát triển áp dụng, bằng hình thức tập huấn và tham quan. Mặt khác, các tổ chức phi chính phủ (NGOs) làm việc ở những địa bàn nhỏ, áp dụng hình thức cùng tham gia để tạo điều kiện cho nông dân có thể trực tiếp thử nghiệm trên đồng ruộng của họ. Mỗi quan điểm trên có những mặt tích cực và hạn chế của chúng, không có một quan điểm nào là hoàn toàn và luôn luôn đúng cả, mà cách tốt nhất là khi xác định mục tiêu cho một chương trình khuyến nông cần căn cứ vào tình hình cụ thể và điều kiện cho phép của chương trình đó. Trong khi lựa chọn chúng ta nên quan tâm đến một số điểm sau: Ai là người có quyền đưa ra những quyết định đó? Nông dân đưa ra các quyết định một phần dựa vào sự trông đợi thu được kết quả của nó, và một phần dựa vào cách làm (phương pháp tiến hành) để cho những kết quả đó có giá trị. Những điều mà nông dân cho là có giá trị có thể khác với quan điểm của các nhà làm khuyến nông, hoặc chính sách, những người thường có tính lý luận nhiều. Trong khi đó chúng ta cũng không có lý do gì để kết luận rằng những cái có giá trị theo quan điểm của các nhà làm khuyến nông và cấp trên của họ lại tốt hơn những điều của nông dân và gia đình họ. Ví dụ khuyến cáo trồng lúa lai, ngô lai cho những đồng bào vùng cao, nơi mà có điều kiện giao thông đi lại rất khó khăn, xa trung tâm huyện, thị, họ phải đi bộ hàng mấy tiếng đồng hồ mới xuống tới trung tâm hay nơi mua bán, họ trồng trọt nhưng hầu như vẫn quảng canh không bón phân, trong khi đó các giống lai yêu cầu phải đầu tư phân bón và kỹ thuật chăm sóc cao hơn, do đó nếu sử dụng các giống lai thì hiệu quả kinh tế có thể không bằng các giống lúa thuần, ngô thụ phấn tự do mà họ vẫn trồng. Đồng thời hàng năm phải phụ thuộc vào nguồn giống của nhà nước. Một câu hỏi đặt ra là nếu nhà nước không trợ giá, trợ cước về tiền giống, hoặc không hỗ trợ về phân bón thì tính bền vững của việc đưa giống lai sẽ như thế nào ? Như vậy chỉ có người nông dân mới quyết định được là vấn đề tăng thu nhập là quan trọng hay là tính rủi ro là quan trọng đối với họ. Người khuyến nông có thể giúp nông dân suy nghĩ và hiểu đầy đủ về các tác dụng, hiệu quả cũng như các yếu tố hạn chế của những quyết định đó một cách hệ thống. Ai là người nhận được thông tin tốt nhất để đưa ra những quyết định này? hay nói cách khác ai đang nắm những kiến thức cần thiết? Người cán bộ khuyến nông có kiến thức về khoa học kỹ thuật, hiểu tương đối rõ về các kỹ thuật thuộc chuyên ngành của mình, nhưng với điều 8
- kiện canh tác cụ thể tại một địa điểm nào đó anh ta cũng có thể am hiểu một phần nào nhưng lại không đầy đủ bằng người nông dân, vì người nông dân đã sống lâu đời ở đó, họ biết mục đích của họ là làm gì, vốn liếng mà họ có, điều kiện canh tác, đất đai và khí hậu nơi họ sống thế nào…Vì thế nông dân và người làm công tác khuyến nông phải kết hợp với nhau để có thể tăng cường năng lực sản xuất cho người nông dân. Điều này có thể được thực hiện bằng việc đối thoại giữa nông dân và cán bộ khuyến nông, trong đó cán bộ khuyến nông lắng nghe các ý kiến của nông dân, thảo luận với họ, và để họ có khả năng tự đưa ra những quyết định phù hợp. Hiện nay công tác khuyến nông đang có xu thế chú trọng nhiều đến một hệ thống nông nghiệp bền vững hơn là hệ thống đầu tư cao như những năm trước đây. Nên người ta thừa nhận rằng những kiến thức của nông dân là cực kỳ quan trọng để phát triển một nền nông nghiệp bền vững, vì cách làm việc như thế sẽ phải được điều chỉnh để phù hợp với tình huống cụ thể của địa phương, mà nông dân thường là người hiểu rõ hơn các cán bộ nghiên cứu và người làm khuyến nông. Sự lựa chọn của người đưa ra quyết định có động cơ gì? động cơ để thực hiện các tác động đến cộng đồng và cá nhân người nông dân ra sao? Một cán bộ khuyến nông có thể khuyên nông dân trồng hoa, nó sẽ mang lại lợi nhuận cao khi mà họ chăm sóc tốt và có thị trường tiêu thụ. Nhưng hiệu quả của công việc sẽ cao hơn nhiều khi mà người dân ý thức được công việc trồng hoa sẽ đem lại lợi ích cho bản thân họ và họ tự quyết định là họ nên làm thế nào chứ không phải là do cán bộ khuyến nông quyết định. Việc thuyết phục nông dân thay đổi sự phụ thuộc vào cán bộ nhà nước và tạo điều kiện cho họ tự đưa ra những quyết định đúng đắn sẽ làm tăng kỹ năng ra quyết định của họ. Điều này rất quan trọng vì cán bộ khuyến nông làm việc ở các làng xã, không thể đưa ra những quyết định đúng đắn cho tất cả nông dân của mình. Vì có sự biến động về quy mô ruộng đất nông hộ, loại đất, vốn và lao động, mục tiêu của nông hộ v.v. làm cho nông dân ở trong cùng một làng cũng có những quyết định khác nhau về việc nên sử dụng kỹ thuật sản suất nào. 1.2. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN KHUYẾN NÔNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 1.2.1. Lịch sử khuyến nông thế giới 1.2.1.1. Pháp Thế kỷ 15-16 đánh dấu một mốc đầu tiên trong lịch sử phát triển khoa học Pháp, vì một số công trình đã được bắt đầu ở thời kỳ này như tác phẩm Ngôi nhà nông thôn của Enstienne và Liebault nghiên cứu về kinh tế nông thôn và khoa học nông nghiệp. Tác phẩm Diễn trường nông nghiệp của Oliver de Serres đề cập đến nhiều vấn đề trong nông nghiệp như cải tiến giống cây trồng vật nuôi. 9
- Thế kỷ 18, cụm từ Phổ cập nông nghiệp (Vulgazigation Argicole), hoặc chuyển giao kỹ thuật đến người nông dân (Transfert des Technologies Agricoles au Payan) được sử dụng phổ biến Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến nay (1914- 1918). Trung tâm CETA (Centre d’Etuder Techniques Agricoles) nghiên cứu kỹ thuật nông nghiệp đầu tiên được tổ chức do sáng kiến của nông dân vùng Pari hoạt động với nguyên tắc: - Người nông dân có trách nhiệm và chủ động trong công việc - Sáng kiến từ cơ sở - Hoạt động nhóm rất quan trọng Đây là một phương pháp hết sức độc đáo thời bấy giờ, người nông dân được quyền tham gia tích cực vào công việc của nông trại, họ chủ động tìm ra các giải pháp thích hợp với sự hỗ trợ của các kỹ sư nông nghiệp. 1.2.1.2. Mỹ Năm 1845 tại Ohio, N.S. Townshned Chủ nhiệm khoa Nông học đề xuất việc tổ chức những câu lạc bộ nông dân tại các quận huyện. Những câu lạc bộ này sinh hoạt định kỳ hàng tháng, nghe giảng về những chủ đề khoa học kỹ thuật nông nghiệp, nghe báo cáo đi tham quan thực tế tại những trang trại. Đây là tiền thân của giáo dục sơ đẳng về khuyến nông tại Mỹ. Năm 1891. Bang New York dành 10.000 đôla cho khuyến nông đại học. Năm 1892 Trường Đại học Chicago, Trường Wicosin bắt đầu tổ chức chương trình khuyến nông học đại học. Năm 1907, 42 Trường đại học trong 39 bang đã thực hiện công tác khuyến nông. Năm 1910, 35 trường Đại học đã có Bộ môn khuyến nông. Năm 1914 Tổ chức khuyến nông được hình thành chính thức ở Mỹ, có 1861 hội nông dân với 3050150 hội viên. Thuật ngữ Extension Education đã được sử dụng để chứng tỏ rằng đối tượng giáo dục của trường đại học không nên chỉ hạn chế ở những sinh viên do nhà trường quản lý, mà nên mở rộng tới những người đang sống ở khắp nơi trên đất nước. 1.2.1.3. Anh Thuật ngữ University Extension hay Extension of University lần đầu tiên được sử dụng ở Anh vào những năm 1840. Những năm 1866- 1868 Thuật ngữ “Extension” và “Agricultural Extension” được sử dụng ở Anh. Jemes Stuart thành viên của Trường Đại học Cambridge giảng bài cho Hiệp hội phụ nữ và Câu lạc bộ của những người làm việc ở miền Bắc nước Anh. Và Jemes Stuart thường được coi là “người cha 10
- đẻ của phổ cập đại học”. Năm 1876 Trường Đại học Luân Đôn và năm 1878 Trường Đại học Oxford cũng dạy theo chương trình đào tạo này, và từ năm 1880 hoạt động này trở thành một phong trào. Người Hà lan dùng từ Voorliching mang nghĩa việc thắp sáng con đường phía trước để giúp mọi người nhìn thấy đường đi. Theo gương Hà Lan, người Indonesia nói đến việc thắp sáng bằng ngọn đuốc (penyuluhan). Hoạt động khuyến nông ở châu Âu, Oxtraylia, New Zealand, Canada có nhiều điểm tương tự như Pháp, Anh , Mỹ tuy có khác nhau chút ít. Hoạt động dịch vụ khuyến nông thường bắt đầu từ các hội nông nghiệp, nó được giao trách nhiệm cho một cơ quan thuộc Bộ Nông nghiệp. 1.2.2. Lịch sử khuyến nông ở Việt Nam Nhìn lại lịch sử ta thấy, khuyến nông Việt Nam đã có từ thời Vua Hùng với nông nghiệp nước Văn Lang và nền văn minh lúa nước. Các vua Hùng cách đây hơn 2000 năm đã trực tiếp dạy dân làm nông nghiệp: gieo hạt, cấy lúa, mở cuộc thi để các Hoàng tử, công chúa có cơ hội trổ tài, chế biến các món ăn độc đáo bằng nông sản tại trỗ. Công chúa Thiều Hoa là người đầu tiên dạy dân chăn tằm dệt lụa. Để tỏ rõ sự quan tâm tới nông nghiệp. Vua Lê Đại Hành (979 – 1008) là ông vua đầu tiên đích thân đi cày ruộng tịnh điền ở Đọi Sơn, Bàn Hải thuộc vùng Duy Tiên, Nam Hà ngày nay. Các vua nhà Lý (1009 – 1056) rất coi trọng nghề nông và đã ra nhiều chính sách chăm lo phát triển nông nghiệp, nhiều lần vua cày ruộng tịch điền và thăm nông dân gặt hái. Sách Đại việt sử ký toàn thư ghi lại sự kiện năm Mậu dần (1038) Vua Lý Thái Tông ngự ở Bố khẩu lập đàn, tế thần nông, và cày ruộng tịch điền. Khi có người trong các quan lại can Vua không nên làm việc của nông phu, Lý Thái Tông trả lời "Trẫm không tự mình cày ruộng thì lấy gì làm xôi cúng, lấy gì để xướng xuất thiên hạ", nói xong Vua đẩy 3 đường cày. Triều vua Lê Thái Tông (1492). Triều đình đặt chức Hà Đê sứ và Khuyến nông sứ đến cấp phủ huyện và từ năm 1492 mỗi xã có 1 xã trưởng phụ trách nông nghiệp và đê điều (Triều vua Lê Thái Tông thời kỳ cực thịnh của chế độ Phong kiến nước ta, nông nghiệp có 1 bước tiến bộ lớn, nhiều năm đất nước được mùa, nạn mất mùa ít xảy ra). Triều đình ban bố chiếu khuyến nông, chiếu lập đồn điền, và lần đầu tiên sử dụng từ “khuyến nông” trong bộ luật Hồng Đức. Thời Vua Quang Trung (1788 - 1792): Từ năm 1789 sau khi thắng giặc ngoại xâm, Quang Trung ban bố ngay "chiếu khuyến nông" nhằm phục hồi dân phiêu tán, khai khẩn ruộng đất bỏ hoang sau 3 năm, những đất đai hoang hoá đã được phục hồi, sản suất phát triển 11
- Triều nhà Nguyễn (1807- 1884), đã định ra chức đinh điền sứ. Nguyễn Công Trứ được giao chức vụ này ông đã có công khai khẩn đất hoang để lập ra hai huyện Tiền Hải (tỉnh Thái Bình) và Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình). Về kỹ thuật nông nghiệp và hoạt động khuyến nông ông cha ta đã có nhiều chủ trương biện pháp đúng đắn như đắp đê trị thủy, xây dựng hệ thống thủy nông, chọn lọc ra nhiều giống cây trồng vật nuôi, công cụ thích hợp cho từng vùng sinh thái. Những kinh nghiệm làm nông nghiệp cũng đã được đúc kết thành những câu ca dao, bài hát dễ nhớ, dễ truyền khẩu mang đặc tính khuyến nông Việt nam, một số ví dụ: Nói về khai hoang: Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu Nói về làm ruộng: Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt mạ tốt lúa Nhất nước nhì phân tam cần tứ giống Không lân không vôi thì thôi trồng lạc Được mùa lúa, úa mùa cau, được mùa cau đau mùa lúa Mạ mùa sướng cao, mạ chiêm ao lấp Chiêm hơn sướng, mùa hơn đêm. Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa Người đẹp về lụa , lúa tốt về phân Một hòn đất nỏ bằng giỏ phân Xem thời tiết: Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa Chớp đông nhay nháy gà gáy thì mưa Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão Chọn trâu Mõm gầu giai, nhai hai gánh cỏ Đầy kẽ răng, bền tuổi trẻ dai Sừng cánh ná, dạ bình vôi, hay ăn cày khỏe Khô chân gân mặt, đắt tiền cũng mua Đầu thanh cao, tiền thấp hậu cao, chẳng tậu thì sao Chọn gà Nuôi gà phải chọn giống gà 12
- Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau Nhất to là giống gà nâu Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều Gà nâu chân thấp mình to Đẻ nhiều, trứng lớn con vừa khéo nuôi Chả nên nuôi giống pha mùi Đẻ không được mấy, nuôi con vụng về Thời kỳ Pháp thuộc (1884- 1945): Thực dân Pháp thực hiện chính sách lập các đồn điền thuộc quyền chiếm hữu của bọn thực dân, các quan lại, địa chủ, cường hào. Hàng vạn người Việt nam bị ép làm phu, lính trong các đồn điền đó, đời sống của họ vô cùng cực khổ như nô lệ thủa xưa, bọn chủ đồn điền như ông vua bà chúa, chúng có quyền bắt người dân nhịn đói, bỏ tù và giết chết. Những người không chịu được bỏ trốn thì bị bọn chủ bắn chết. Thời kỳ này Việt nam cũng đã nhập một số cây trồng mới như: Cà phê (1857), Cao Su (1897), Khoai tây, rau ôn đới: Súplơ, su hào.. lợn Yoorsai, gà Rôtri, gà Plymut.. Trong giai đoạn này Việt nam đã xuất khẩu được một số nông sản như gạo 967.000 tấn (năm 1919), xuất cảng 70417 tấn nhựa cao su (1920-1929). Điều đó cũng nói lên rằng phát triển nông nghiệp và khuyến nông thời kỳ này chủ yếu phục vụ cho chính sách thuộc địa phong kiến của thực dân Pháp. Người Pháp tổ chức các Sở canh nông ở Bắc Kỳ, các Ty khuyến nông ở các tỉnh. Hàng năm tổ chức thi đấu xảo các sản phẩm nông nghiệp quý vài năm một lần như thi các giống bò sữa, giống ngựa tốt. Năm 1938 Thành lập trường đào tạo kỹ sư canh nông để đào tạo các kỹ sư ngành nông nghiệp. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1958. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới nông nghiệp, người kêu gọi quốc dân "tăng gia sản xuất! tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa! đó là những việc cấp bách của chúng ta lúc này". Nghe theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, toàn dân bắt tay vào khôi phục kinh tế, phát triển sản xuất. Vụ rau mầu Đông xuân 45- 46 đã thắng lợi rực rỡ: sản lượng ngô tăng gấp 4 lần, khoai lang tăng gấp 5 lần, tổng sản lượng hoa mầu quy thóc bình quân hàng năm 133.100 tấn đến mùa xuân 1946 đã đạt 505.000 tấn, tăng gấp 4 lần. Từ năm 1958 đến năm 1975: Nông nghiệp miền Bắc Việt nam phát triển trong sự tác động trực tiếp của mô hình Hợp tác xã nông nghiệp. Từ tổ đổi công (1956), đến hợp tác xã bậc thấp năm 1960, đến hợp tác xã cấp cao (1968), đến hợp tác xã toàn xã năm 1974. Phương pháp hoạt động khuyến nông chủ yếu là: cán bộ truyền đạt chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước hay tiến bộ kỹ thuật thông qua Ban 13
- quản trị Hợp tác xã rồi từ đó đến người nông dân. Thành lập các đoàn cán bộ nông nghiệp ở Trung ương, cấp tỉnh, huyện về chỉ đạo sản suất ở cơ sở. Về thành tích đã đạt được: Lúa chiêm đã được thay thế bằng lúa xuân, năng suất cao ngắn ngày. Thái Bình là tỉnh đầu tiên đạt 5 tấn thóc/ ha năm 1966. Đến năm 1974 toàn miền Bắc đã đạt 5 tấn thóc/ ha trên đất cấy 2 vụ lúa. Năm 1988 huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình là huyện đầu tiên đạt 10 tấn thóc/ ha. Về chăn nuôi có phong trào nuôi lợn hai máu; Móng cái x Yoocsai, Lợn ỉ x Becsai, Bò lai Sind, nuôi gà công nghiệp.. Thời kỳ 1976- 1988: Nông nghiệp Việt Nam được thống nhất thành một mối, tiềm năng và thế mạnh của hai miền Nam Bắc được bổ xung cho nhau và cùng nhau phát triển theo một đường lối chung là hợp tác hóa nông nghiệp. Song diễn biến tình hình có nhiều phức tạp, do sự tác động của quan hệ sản xuất tập thể và mô hình quản lý, kế hoạch hóa tập trung. Nhiều thiếu sót đã nẩy sinh trong quản lý kinh tế và quản lý nông nghiệp, đã làm cho nông nghiệp phát triển chậm lại, đời sống nông thôn nảy sinh nhiều vướng mắc, nông dân không yên tâm sản suất và sinh sống. Trước thực trạng suy thoái kinh tế những năm cuối thập kỷ 70 và đầu năm 80 nói chung và nông nghiệp nói riêng, ngày 13/1/ 1981 chỉ thị 100 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp” được ban hành (gọi tắt là khoán 100). Với mục đích phát triển sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế trên cơ sở lôi cuốn mọi người hăng hái lao động. Khoán 100 mặc dù chưa phải là mô hình mới về tổ chức và quản lý nông nghiệp mà mới chỉ là cải tiến hình thức khoán, từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán đội sang khoán hộ. Đây cũng được coi là sự đột phá đầu tiên vào cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, sản xuất tập thể. Vì vậy coi là “chìa khóa vàng”để mở ra thời kỳ mới của sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Tiến bộ lớn nhất sau khoán 100 là sản suất lương thực. Lần đầu tiên kể từ khi nông nghiệp tập thể hóa (1958), Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng sản lượng lương thực cao hơn tốc độ tăng dân số (lương thực tăng 5%, dân số tăng 2,3%, lương thực bình quân trên đầu người tăng 273 kg/ người/ năm 1981 tăng lên 304 kg/ người/ 1985. Chăn nuôi phát triển ổn định nhất là chăn nuôi gia đình. Song những kết quả đạt được của khoán 100 không vững. Từ năm 1986 sản suất nông nghiệp bắt đầu chững lại và giảm sút, sản lượng lương thực năm 1986 đạt 18,37 triệu tấn, năm 1987 giảm còn 17,5 triệu tấn, trong khi đó dân số tăng gần 1,5 triệu người. Tháng 12 năm 1986, Đại hội VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới trong lãnh đạo và quản lý kinh tế Nghị quyết 10 của Bộ chính trị Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa VI (5/4/1988) về ”Đổi mới quản lý trong nông nghiệp” nhằm giải phóng sản suất trong nông thôn đến từng hộ nông dân, khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. (gọi tắt là khoán 10) 14
- Từ 1988 đến nay: Khoán 10 đã đem lại hiệu quả nhanh chóng tạo ra bước ngoặt mới trên mặt trận nông nghiệp. Hộ nông dân đã trở thành đơn vị sản xuất tự chủ, hộ nông dân có quyền sử dụng ruộng đất lâu dài 15-20 năm, có quyền thuê thêm lao động, có quyền phát huy vốn và vật tư kỹ thuật, chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, có tư cách pháp nhân trong quan hệ hợp đồng sản xuất kinh doanh. Ngày 2/3/1993 Chính phủ ra Nghị định 13/ CP về công tác khuyến nông. Bắt đầu hình thành hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến địa phương. Kết quả đạt được của nông nghiệp từ sau khi có đường lối đổi mới là rất rõ nét, nói riêng về sản xuất lương thực diện tích, năng suất, sản lượng tăng đều qua các năm. Nếu như trước năm 1988 trở về trước, Việt Nam là một nước thiếu lương thực trầm trọng hàng năm phải nhận viện trợ hoặc nhập khẩu gạo, thì đến năm 1989 đã xuất khẩu 1,4 triệu tấn gạo, năm 1990: 1,6 triệu tấn, 1992: 1,9 triệu tấn, năm 1994: 2 triệu tấn và từ những năm 1996- 2003 là trên 3 triệu tấn mỗi năm. Khi đánh giá về những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt nam, các nhà kinh tế thế giới đều thống nhất nhận định: Thành công lớn nhất là nông nghiệp, điều đó hoàn toàn đúng. Nông nghiệp Việt nam bắt đầu đổi mới cơ chế quản lý từ sau Nghị quyết 10 (4/1988). Nếu trước đổi mới nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính tự cung, tự cấp, làm không đủ ăn, lương thực thiếu triền miên từ năm này sang năm khác, thì từ sau đổi mới tình hình đã khác hẳn, Việt Nam không chỉ đủ lương thực, thực phẩm nuôi sống hơn 80 triệu dân trong nước mà còn dư thừa để xuất khẩu hàng năm 2- 3 triệu tấn gạo, hàng trăm nghìn tấn thịt, rau quả, thu về cho đất nước hàng tỷ USD. Tình trạng thiếu lương thực ở nông thôn đã bị đẩy lùi và không còn có khả năng tái diễn trên diện rộng. Một nền nông nghiệp hàng hóa đã hình thành với những sản phẩm xuất khẩu nổi tiếng thế giới như gạo, cà phê, cao su, hạt điều, chè… 1.3. VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG CỦA KHUYẾN NÔNG 1.3.1. Sự cần thiết của công tác khuyến nông Trong những năm gần đây, dân số trên thế giới không ngừng tăng lên theo cấp số nhân. Theo số liệu thống kê của United States Cencus Bureau , dân số thế giới năm 1999 là 5,9 tỷ; đến năm 2009 đã hơn 6,7 tỷ số liệu thống kê mới nhất, tính đến tháng 7 năm 2013, dân số thế giới đã đạt ngưỡng 7 tỷ người. Dự đoán vào năm 2050, dân số thế giới sẽ chạm mốc 8,9 tỷ người. Việt Nam hiện là quốc gia đông dân thứ 14 trên thế giới với hơn 92 triệu người theo số liệu cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở được công bố vào tháng 7 năm 2013. Như vậy, việc tất yếu sẽ diễn ra là nhu cầu về lương thực, gỗ xây dựng, củi đun.. sẽ tiếp tục gia tăng nhanh chóng. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay đang có những thay đổi lớn đó là chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, với nhiều thành phần kinh tế. Với chủ trương hộ là đơn vị kinh tế độc lập tự chủ. 15
- Mặt khác hợp tác xã kiểu cũ ở nông thôn Việt Nam trên thực tế đã không còn tác dụng. Các hộ nông dân rất cần có một tổ chức để làm chỗ dựa, hỗ trợ cho mình trong quá trình sản xuất nông lâm nghiệp. Vai trò của ngành nông nghiệp ngày càng được đề cao, phát triển kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở phát triển bền vững, đồng thời chú trọng đến việc bảo tồn tính đa dạng sinh học. Các nhà nông nghiệp làm việc ngày càng gần gũi với các cộng đồng nông thôn để quản lý có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các chương trình phát triển nông thôn miền núi, lâm nghiệp xã hội, lâm nghiệp cộng đồng.. đang được thực hiện nhiều nơi trên thế giới. Có nhiều lý do giải thích tại sao việc phát triển nông lâm nghiệp cũng như đẩy mạnh hoạt khuyến nông khuyến lâm ở Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng vì: - Áp lực của việc gia tăng dân số, đặc biệt là gia tăng dân số ở các vùng thành thị. - Suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, rừng) và môi trường (khí hậu thay đổi theo chiều hướng bất lợi) - Gia tăng khoảng cách giữa người dân thành thị và nông thôn về mức thu nhập, giáo dục, đời sống và phúc lợi xã hội. - Tiếp cận kiến thức và các kỹ thuật mới là rất khó khăn tại nhiều vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu vùng xa. - Tiếp cận các nguồn thông tin và chính sách, luật pháp, thị trường cũng như điều kiện giao thông đi lại là rất hạn chế đối với người dân nông thôn. Trước bối cảnh đó cần thiết phải có những thay đổi này, đã và đang đưa các nhà nông lâm nghiệp ở các cấp khác nhau đến với vai trò của các nhà khuyến nông. Để thực hiện vai trò này có hiệu quả, họ cần được trang bị các kiến thức, kỹ năng và thái độ thích ứng để làm việc với người dân đang sống tại các vùng nông thôn, miền núi. 1.3.2. Vai trò của khuyến nông 1.3.2.1. Khuyến nông có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông thôn Trong điều kiện nước ta hiện nay, nông dân luôn gắn liền với nông lâm nghiệp, là bộ phận cốt lõi và cũng là chủGiaothể trong quá trình phát triển nông thôn. Khuyến thông Giáo Phát triển nông thônnông là cái đích của nhiều hoạt động khác nhau dục tác động vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nông thôn, trong đó khuyến nông là một tác nhân, một bộ phận quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy phát triển nông thôn. Thông qua hoạt động khuyến nông học hỏi kiến thức và kinh nghiệm lẫn nhau để phát triển sản xuất và đờiChính sống kinh tế - xã hội. Đặc biệt khuyến nông còn tạo ra cơ Tàihội cho nông Phát triển dân trong cộng sách đồng cùng chia sẻ, học nônghỏi kinh nghiệm, truyền báchính thôn thông tin kiến thức và giúp đỡ hỗ trợ nhau cùng phát triển cộng đồng địa phương. Nghiên Tín cứu, công 16 dụng nghệ Thị trường
- Hình 1.1. Mối quan hệ giữa khuyến nông với các tổ chức phát triển nông thôn Mặc dù vai trò của nông thôn và nông nghiệp có vai trò to lớn như vậy trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhưng ở nhiều vùng nông thôn mức sống và trình độ dân trí còn rất thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ sản xuất còn lạc hậu. Đây là những thách thức rất lớn trong phát triển nông nghiệp và nông thôn. Khuyến nông được coi là một trong những con đường góp phần giải quyết những thách thức đó. Nông dân luôn gắn liền với nông nghiệp, là bộ phận cốt lõi và cũng là chủ thể trong quá trình phát triển nông thôn. Phát triển nông thôn là cái đích của nhiều hoạt động khác nhằm tác động vào nhiều lĩnh vực khác nhau của nông thôn, trong đó khuyến nông là một tác nhân, một bộ phận quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy phát triển nông thôn. Thông qua hoạt động khuyến nông, nông dân và những người bên ngoài cộng đồng có cơ hội trao đổi thông tin, học hỏi kiến thức và kinh nghiệm lẫn nhau để phát triển sản xuất và đời sống kinh tế xã hội. Đặc biệt khuyến nông khuyến lâm còn tạo ra cơ hộ cho nông dân trong cộng đồng cùng chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm, truyền bá thông tin kiến thức và giúp đỡ, hỗ trợ nhau cùng phát triển cộng đồng địa phương. Ngày nay công tác khuyến nông khuyến lâm trở nên không thể thiếu được ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương và đối với từng hộ nông dân. Mọi quốc gia đều cần có sự cung ứng đầy đủ lương thực thực phẩm, vải sợi .. cho toàn dân nước đó, nếu tiêu chuẩn sống nói chung là phải trên mức đủ để tồn tại, thì sản suất nông nghiệp phải cung cấp đủ thức ăn, áo mặc không chỉ cho nông dân và gia đình họ, mà còn cho những người làm trong ngành nghể khác như y tế, giáo dục, vận tải, công nghiệp, quốc phòng v.v. Chỉ có như thế những người này mới quay trở lại đóng góp cho sự phát triển của những vùng nông thôn và giúp cho sự sản sinh và duy trì một tiến trình chung của sự phát triển 17
- kinh tế- xã hội. Thiếu một nền sản xuất nông nghiệp tăng trưởng vững chắc thì toàn bộ những cố gắng phát triển xã hội và kinh tế sẽ bị hạn chế nghiêm trọng. Vì vậy công tác khuyến nông cần phải được tăng cường củng cố và phát triển, trong mối quan hệ này khuyến nông thực sự là phương cách hữu hiệu để thực hiện phát triển nông thôn. 1.3.2.2. Vai trò của khuyến nông trong quá trình từ nghiên cứu đến phát triển nông nghiệp Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật, công nghệ mới thường là kết quả của các cơ quan nghiên cứu khoa học như viện, trường, trạm… Những tiến bộ này cần được nông dân chọn lựa, áp dụng vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Trên thực tế giữa nghiên cứu và áp dụng thường có một khâu trung gian để chuyển tải hoặc cải tiến cho phù hợp để nông dân áp dụng được. Ngược lại những kinh nghiệm của nông dân, những đòi hỏi cũng như nhận xét đánh giá về kỹ thuật mới của nông dân cũng cần được phản hồi đến các nhà khoa học để họ giải quyết cho sát thực tế. Trong những trường hợp này, vai trò của khuyến nông khuyến lâm chính là chiếc cầu nối giữa khoa học với nông dân. Các giải pháp - Các nhà hoạch Khuyến - Nông dân định chính sách nông - Cộng đồng - Nhà nghiên cứu Các vấn đề Hình 1.2. Khuyến nông là chiếc cầu nối giữa khoa học với nông dân. 18
- 1.3.2.3. Vai trò của khuyến nông đối với nhà nước - Khuyến nông khuyến lâm là một trong những tổ chức giúp Nhà nước thực hiện các chính sách, chiến lược về phát triển nông lâm nghiệp, nông thôn và nông dân. Một trong những nội dung đã được bàn thảo tại Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ X và từ đó đã đề ra nghị quyết 26 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn (gọi tắt là tam nông). Nghị quyết 26 NQ/TW về nông nghiệp, nông dân và nông thôn thời kỳ 2009 – 2020 coi nông nghiệp, nông dân và nông thôn là một trong những nội dung luôn được quan tâm đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Khuyến nông cũng là một trong những tổ chức có vai trò, nhiệm vụ hoàn thành sứ mệnh đặc biệt này. - Vận động nông dân tiếp thu và thực hiện các chính sách về nông lâm nghiệp. Các chính sách của Đảng và Nhà nước muốn thực hiện và thực sự đi vào đời sống cần có sự tham gia của nhiều thành phần trong đó vai trò của khuyến nông đặc biệt quan trọng đòi hỏi khuyến nông phải xây dựng được lòng tin ở người nông dân, là niềm tin, chỗ dựa và động viên họ tham gia và thực hiện đầy đủ các chủ trương, chính sách. - Trực tiếp hoặc góp phần cung cấp thông tin về những nhu cầu, nguyện vọng của nông dân đến các cơ quan Nhà nước, trên cơ sở đó Nhà nước hoạch định, cải tiến đề ra được chính sách phù hợp. Như vậy, vai trò của khuyến nông được thể hiện rất rõ ràng như là nơi thu thập những phản hồi từ người nông dân để chuyển tới các cơ quan Nhà nước, góp phần làm cho hệ thống các cơ chế chính sách về nông nghiệp, nông thôn và nông dân ngày càng hoàn thiện, gắn liền với thực tế đời sống của người nông dân hơn, dễ đi vào cuộc sống hơn. 1.3.3. Chức năng của khuyến nông Chức năng cơ bản của khuyến nông không những là truyền bá thông tin và huấn luyện nông dân mà còn biến những thông tin, kiến thức được truyền bá, những kỹ năng đã đào tạo thành những kết quả cụ thể trong sản xuất và đời sống. Điều này cho thấy khuyến nông khuyến lâm cần có quan hệ chặt chẽ với điều kiện vật chất của nông hộ cũng như nguồn lực thực tế của địa phương. - Đào tạo, tập huấn nông dân: tổ chức các khoá tập huấn, xây dựng mô hình, tham quan, hội thảo đầu bờ cho nông dân. Đây là một trong những chức năng cơ bản nhất của khuyến nông Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, là những hoạt động cụ thể nhằm trao đổi, nâng cao trình độ và lôi kéo đông đảo người dân tham gia vào các hoạt động khuyến nông nhằm góp phần cải thiện cuộc sống của chính người nông dân và gia đình của họ - Thúc đẩy, tạo điều kiện cho người nông dân đề xuất các ý tưởng, sáng kiến và thực hiện thành công các ý tưởng sáng kiến của họ. Phát triển các hình thức liên kết hợp tác của nông dân nhằm mục tiêu phát triển nông lâm nghiệp và nông thôn. 19
- - Trao đổi truyền bá thông tin: bao gồm việc xử lý, lựa chọn các thông tin cần thiết, phù hợp từ các nguồn khác nhau để phổ biến cho nông dân giúp họ cùng nhau chia sẻ và học tập. Thực tế cho thấy thông tin càng chân thực, có sức thuyết phục có gắn với điều kiện địa phương thường được áp dụng thành công và có sức bền vững cao hơn các thông tin đơn thuần chỉ mang tính giới thiệu, quảng bá. - Giúp nông dân giải quyết các vấn đề khó khăn tại địa phương: tạo điều kiện giúp họ có thể phát hiện, nhận biết và phân tích được các vấn đề khó khăn trong sản xuất, đời sống và bàn bạc cùng nông dân tìm biện pháp giải quyết. Phát triển các chương trình khuyến nông khuyến lâm với các phương pháp và cách tiếp cận thích hợp. Trên cơ sở cùng người dân/ cộng đồng phân tích thực trạng địa phương, xây dựng kế hoạch, thực hiện các chương trình khuyến nông khuyến lâm phù hợp, đáp ứng được nhu cầu và lợi ích của nhiều đối tượng người dân trong cộng đồng. - Giám sát và đánh giá hoạt động khuyến nông, đây là một nội dung rất quan trọng, nếu làm tốt được công việc giám sát đánh giá, có nghĩa là chúng ta đã cụ thể hóa được quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác dân chủ ở cơ sở: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” - Phối hợp với nông dân tổ chức các thử nghiệm phát trỉển kỹ thuật mới, hoặc thử nghiệm kiểm tra tính phù hợp của kết quả nghiên cứu trên hiện trường, từ đó làm cơ sở cho việc khuyến khích lan rộng. - Hỗ trợ nông dân về kinh nghiệm quản lý kinh tế hộ gia đình, phát triển sản xuất quy mô trang trại. Đây là một chức năng đang được chú trọng trong những năm trở lại đây nhằm cung cấp thông tin về cách thức quản lý điều hành và tổ chức sản xuất với một loại hình kinh tế đang có xu hướng mở rộng hiện nay: kinh tế trang trại. - Tìm kiếm và cung cấp cho nông dân các thông tin về giá cả, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cụm từ "khuyến nông thị trường" được một số nhà khoa học và cán bộ quản lý dùng như là khái quát hóa chức năng này của khuyến nông. Khuyến nông không phải chỉ dừng lại ở hướng dẫn nông dân làm thế nào để sản xuất ra được thật nhiều nông sản mà còn cần phải biết "sản xuất khi nào, sản xuất ở đâu thì đem lại lợi nhuận cao nhất?..." 1.4. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CỦA KHUYẾN NÔNG Hiện nay, hoạt động khuyến nông đang được mở rộng trên phạm vi toàn quốc. Nhà nước đã và đang giành nhiều khoản tiền lớn để đào tạo cán bộ khuyến nông xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho mạng lưới khuyến nông và đầu tư cho nhiều chương trình và dự án khuyến nông khác nhau. Tuy vậy để hoạt động có hiệu quả, khuyến nông cần được dựa trên một số nguyên tắc sau; 1.4.1. Khuyến nông làm cùng với dân, không làm thay cho dân Khuyến nông cùng làm với dân. Chỉ có bản thân người nông dân mới có thể quyết định được phương thức canh tác trên mảnh đất của gia đình họ. Cán bộ 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài giảng khuyến nông - nông lâm
142 p | 872 | 300
-
Chuyên đề phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia và lập kế hoạch
60 p | 871 | 284
-
Bài giảng khuyến nông - khuyến lâm
142 p | 517 | 139
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 2
15 p | 311 | 86
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 1
15 p | 265 | 80
-
Bài giảng khuyến nông - Lê Văn Nam
31 p | 343 | 79
-
Bài 7: Phương pháp khuyến nông có sự tham gia
20 p | 260 | 65
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 3
15 p | 267 | 63
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 4
15 p | 213 | 59
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 9
15 p | 185 | 58
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 10
7 p | 225 | 54
-
Bài giảng quản lý dự án lâm nghiệp xã hội
99 p | 194 | 50
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 8
15 p | 160 | 37
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 5
15 p | 153 | 36
-
Bài giảng khuyến nông lâm part 7
15 p | 112 | 34
-
Các cách tiếp cận và phương pháp khuyến nông khuyến lâm
15 p | 251 | 34
-
Bài giảng Tổ chức công tác khuyến nông: Chương 1 - Nguyễn Thị Minh Thu
38 p | 122 | 20
-
Bài giảng Khuyến ngư và phát triển nông thôn (Ngành Nuôi trồng thủy sản - Trình độ Cao đẳng) - CĐ Thủy Sản
45 p | 60 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn