intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Kiểm toán tài chính – Bài 3: Quy trình kiểm toán

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:45

60
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Bài giảng Kiểm toán tài chính – Bài 3: Quy trình kiểm toán" được biên soạn nhằm cung cấp các kiến thức về các giai đoạn của quy trình kiểm toán, bao gồm lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Kiểm toán tài chính – Bài 3: Quy trình kiểm toán

  1. Bài 3: Quy trình kiểm toán BÀI 3 QUY TRINH KIỂM TOÁN Hướng dẫn học Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:  Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia thảo luận trên diễn đàn.  Đọc tài liệu:  Giáo trình Kiểm toán tài chính (2014), NXB Đại học Kinh tế quốc dân – GS.TS. Nguyễn Quang Quynh và PGS.TS. Ngô Trí Tuệ.  Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.  Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học. Nội dung Bài học này giới thiệu các vấn đề về các giai đoạn của quy trình kiểm toán, bao gồm: lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán. Mục tiêu  Giúp sinh viên hiểu được được các công việc và yêu cầu thực hiện từng công việc trong các giai đoạn của cuộc kiểm toán tài chính.  Giúp sinh viên nắm bắt được yêu cầu của lập kế hoạch kiểm toán và các công việc thực hiện trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán  Giúp sinh viên nhận thức được cách thức thực hiện các loại thủ tục kiểm toán trong giai đoạn thực hiện kiểm toán.  Giúp sinh viên thấy rõ được các yếu tố cấu thành báo cáo kiểm toán và các dạng ý kiến kiểm toán khác nhau được kiểm toán viên sử dụng trong quá trình lập báo cáo kiểm toán. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 39
  2. Bài 3: Quy trình kiểm toán Tình huống dẫn nhập Tình huống dẫn nhập 1 Parmalat là công ty ở Ý được Calisto Tanzi lập ra vào năm 1961. Công ty một thời nổi tiếng và thịnh vượng này sụp đổ vào năm 2003 khi Tanzi biển thủ 800 triệu Euro từ chính công ty của mình và để lại một lỗ hổng trong bản kê kế toán với số tiền lên tới 20 tỷ USD, khiến Parmalat trở thành vụ phá sản lớn nhất từ trước đến nay ở Châu Âu. Theo những thông tin của cơ quan điều tra, Parmalat từng làm đẹp sổ sách cả mười năm nay để che giấu những khoản lỗ hay những khoản thâm hụt tiền công ty. Cựu giám đốc tài chính khai báo với nhà chức trách Ý rằng bản thân ông Tanzi bỏ túi khoảng 500 triệu euro tiền của công ty. Dù con số này là đúng, người ta vẫn chưa hiểu hàng tỉ euro còn lại biến đâu mất. Dĩ nhiên, dư luận cũng đặt câu hỏi công ty kiểm toán cho Parmalat đã làm việc như thế nào mà không phát hiện được những gian dối trong sổ sách kế toán. Grant Thormton là công ty kiểm toán cho Parmalat trong một thời gian dài (bây giờ vẫn còn kiểm toán cho Bonlat, một công ty con của Parmalat) còn Deloitte & Touche thực hiện kiểm toán từ năm 1999 đến 2004. Cả hai hãng này đều tuyên bố họ tuân thủ tiêu chuẩn kế toán của Ý và hợp tác với cơ quan điều tra vì bản thân họ cũng bị lừa. Chẳng hạn, Grant Thornton nói bức thư giả mạo từ Bank of America xác nhận Parmalat có 4 tỉ euro trong tài khoản của Bonlat trông giống thật đến nỗi họ không chút ngần ngại đưa khoản tiền này vào mục có của công ty. Cơ quan điều tra cho biết hằng năm Parmalat giả mạo hồ sơ khoảng bốn lần, cho thấy những khoản tiền lớn trong tài khoản của Bonlat, để đưa vào cân đối cho cả tập đoàn. Grant Thornton, chịu trách nhiệm kiểm toán những khoản này, nói họ bị lừa tinh vi quá nhưng dư luận Ý cho rằng hoặc nhân viên hãng này bị Parmalat mua chuộc hoặc quá yếu kém về nghiệp vụ mới không phát hiện những gian dối này. Ví dụ Grant Thormton chỉ dựa vào thông tin của Bonlat mà không chịu kiểm tra lại với các ngân hàng mà Bonlat nói có tiền gửi. Sự sụp đổ của tập đoàn thực phẩm danh tiếng Parmalat gây ra rất nhiều tranh cãi trong giới học thuật cũng như các nhà hoạch định chính sách. Với những dữ liệu trong tình huống nêu trên, hãy phân tích những sai lầm mà kiểm toán viên mắc phải khi tiến hành kiểm toán. 40 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  3. Bài 3: Quy trình kiểm toán Tình huống dẫn nhập 2 Halvorson Co., là một công ty kiểm toán nhỏ bắt đầu tạo dựng được ít nhiều danh tiếng. Năm nay Halvorson được công ty Machinetron mời thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Al Trent, giám đốc công ty, đang có ý định niêm yết cổ phần của Machinetron trên thị trường chứng khoán và tiếp cận với nhiều nhà đầu tư hơn. Sản phẩm của Machinetron đều là máy móc có kết cấu phức tạp, trọng tải và giá trị lớn. Mỗi giao dịch bán hàng đều được thực hiện trực tiếp bởi Al Trent và được khách hàng thanh toán làm nhiều kỳ. Việc khách hàng thanh toán làm nhiều kỳ dẫn đến khả năng các bút toán ghi nhận doanh thu có thể có sai phạm trọng yếu. Trưởng nhóm kiểm toán, Bob Lehman, là người có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này, nhận ra những rủi ro tiềm ẩn trong quá trình ghi nhận doanh thu. Lehman yêu cầu tất cả các khoản phải thu cuối năm phải đối chiếu với khách hàng. Anh nhận ra rằng các khoản phải thu liên quan đến giao dịch bán hàng đều được đối chiếu và xác nhận bằng fax. Vào ngày kiểm toán cuối cùng, trước khi đưa ra ý kiến kiểm toán, Lehman khăng khăng yêu cầu việc xác nhận các khoản phải thu cần phải được thực hiện bằng văn bản. Al Trent vô cùng tức giận và không đồng ý với yêu cầu trên của kiểm toán viên. Luật sư của Machinetron đề nghị sẽ ban hành một văn bản trong đó cam kết rằng bản fax hoàn toàn đầy đủ giá trị pháp lý để xác nhận các khoản phải thu. Lehman cảm thấy quá áp lực, đành chấp nhận với đề nghị và đồng ý phát hành ý kiến chấp nhận toàn phần với báo cáo tài chính của Machintron. Với tình huống như trên, với danh nghĩa là kiểm toán viên, các bạn sẽ xử lý như thế nào trước khi đưa ra ý kiến (kết luận) kiểm toán. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 41
  4. Bài 3: Quy trình kiểm toán 3.1. Lập kế hoạch kiểm toán tài chính Trong môn học trước (Kiểm toán căn bản), chúng ta đã biết cuộc kiểm toán sẽ trải qua 3 giai đoạn: chuẩn bị kiểm toán, thực hành kiểm toán và kết thúc kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của cuộc kiểm toán nhằm chuẩn bị các tiền đề và điều kiện vật chất cơ bản cho cuộc kiểm toán.  Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các KTV nhất thiết phải thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như các điều kiện cần thiết khác cho cuộc kiểm toán. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300 cũng quy định: KTV và Công ty kiểm toán cần lập kế hoạch kiểm toán để có thể đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành một cách có hiệu quả. Như vậy, chúng ta thấy: việc lập kế hoạch kiểm toán không những xuất phát từ yêu cầu thực tế công việc mà còn được quy định thành chuẩn mực đòi hỏi các KTV và Công ty kiểm toán phải thực hiện để đảm bảo chất lượng và hiệu quả chung của cuộc kiểm toán.  Các loại kế hoạch kiểm toán Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300, kế hoạch kiểm toán bao gồm 3 loại: o Kế hoạch chiến lược bao gồm những định hướng, những nội dung trọng tâm và phương pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp lãnh đạo trong công ty kiểm toán chỉ ra dựa trên hiểu biết về tình hình hoạt động và môi trường kinh doanh của bản thân đơn vị được kiểm toán. o Kế hoạch kiểm toán tổng quát là việc cụ thể hóa kế hoạch chiến lược và phương pháp tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của các thủ tục kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể là có thể thực hiện được công việc kiểm toán có hiệu quả và theo đúng thời gian dự kiến. o Kế hoạch kiểm toán chi tiết (chương trình kiểm toán) là những dự kiến chi tiết về các công việc kiểm toán, thời gian hoàn thành và sự phân công lao động giữa các KTV cũng như dự kiến về tư liệu, thông tin có liên quan cần sử dụng và thu thập. Kế hoạch chiến lược thường không phải công việc của KTV mà chủ phần hùn sẽ thực hiện. Trên thực tế, KTV thường chỉ lập kế hoạch kiểm toán tổng quát còn chương trình kiểm toán sẽ có mẫu sẵn  chỉ cần sửa đổi một chút cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng. 42 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  5. Bài 3: Quy trình kiểm toán 3.1.1. Lập kế hoạch kiểm toán tài chính tổng quát 3.1.1.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán Theo thông lệ quốc tế, hàng năm, các công ty kiểm toán sẽ gửi thư chào hàng cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan tới khách hàng của mình. Nếu các công ty có nhu cầu kiểm toán sẽ gửi thư mời kiểm toán và sau đó, nếu công ty kiểm toán chấp nhận kiểm toán thì sẽ gửi thư hẹn kiểm toán. Thư mời và thư hẹn kiểm toán sẽ là căn cứ pháp lý ràng buộc hai phía. Tuy nhiên, ở Việt Nam, do bị chi phối bởi Luật doanh nghiệp nên các công ty sẽ thực hiện ký kết hợp đồng và cuộc kiểm toán bắt đầu từ khâu thực hiện ký kết hợp đồng kiểm toán. Tuy nhiên, trước khi thực hiện ký kết hợp đồng kiểm toán, các công ty kiểm toán phải thực hiện đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán. Do đó, bước công việc đầu tiên của khâu chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán đó là: a. Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán KTV phải đánh giá xem việc chấp nhận một khách hàng mới hay tiếp tục một khách hàng cũ có làm tăng rủi ro cho hoạt động kiểm toán và có ảnh hưởng đến uy tín và danh tiếng của công ty kiểm toán hay không. Đánh giá khả năng kiểm toán bao gồm các công việc sau:  Xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng Xem xét hệ thống kiểm soát chất lượng khác với xem xét KSNB của khách hàng. Đây là việc các công ty kiểm toán tự xem xét, kiểm tra chất lượng hoạt động kiểm toán của mình. Cần xem xét xem mình có đủ khả năng để thực hiện kiểm toán hay không (vì trong một số lĩnh vực đặc thù đòi hỏi KTV phải có sự hiểu biết. Nếu KTV không có kiến thức về lĩnh vực của khách hàng thì sẽ không đủ khả năng thực hiện kiểm toán. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến uy tín và danh tiếng của công ty). Ngoài ra, KTV cũng cần xem xét mình có đủ khả năng để đáp ứng được những yêu cầu của Ban Giám đốc doanh nghiệp hay không. Khi xem xét, KTV thường dựa trên các yếu tố: o Khả năng phục vụ tốt khách hàng của công ty kiểm toán. Thông thường, các công ty kiểm toán chỉ nên chọn kiểm toán cho những doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực mà KTV và công ty kiểm toán có thế mạnh.  Trong các công ty kiểm toán, thường chia thành các phòng nghiệp vụ để chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó. Tính độc lập của KTV (độc lập về quan hệ xã hội; độc lập về quan hệ kinh tế; và có thái độ độc lập, khách quan trong quá trình thu thập bằng chứng). o Xem xét tính liêm chính của Ban Giám đốc khách hàng. Nếu nhân viên trong doanh nghiệp có hành vi gian lận  KTV có thể trao đổi với trưởng phòng. Nếu trưởng phòng gian lận  KTV có thể trao đổi với Ban Giám đốc. Còn nếu Ban Giám đốc gian lận  KTV có thể phải hỏi thêm ý kiến tư vấn của các chuyên gia pháp luật, có thể phải thông báo lại hành vi gian lận cho cơ quan pháp luận và trong nhiều trường hợp cần rút ra khỏi hợp đồng kiểm toán. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 43
  6. Bài 3: Quy trình kiểm toán KTV cần dựa vào pháp đoán chủ quan của mình để đánh giá tính liêm chính của Ban Giám đốc. Nếu Ban Giám đốc thiếu liêm chính, KTV không nên dựa vào bất kỳ bản giải trình nào của Ban Giám đốc hoặc các tài liệu do doanh nghiệp cung cấp. Nếu những lo ngại về tính liêm chính của Ban Giám đốc quá nghiêm trọng, KTV có thể kết luận: không chấp nhận khách hàng kiểm toán.  Liên lạc với KTV tiền nhiệm Có hai loại khách hàng: o Khách hàng truyền thống (khách hàng trong nhiều năm kiểm toán/ khách hàng cũ): KTV phải cập nhật các thông tin về khách hàng và KTV phải lưu ý tới những rủi ro kiểm toán và nếu rủi ro ở mức cao thì KTV nên đưa ra kết luận không tiến hành kiểm toán. Ví dụ: những năm trước khi mình kiểm toán, có bất đồng với Ban giám đốc và rất khó khăn mới đưa ra được kết luận kiểm toán. Năm nay xuống thấy không thể giải quyết được. Chẳng hạn: khách hàng không cho KTV tham gia chứng kiến kiểm kê vì sợ can thiệp quá sâu hoặc không cung cấp cho KTV danh mục khách hàng… Hoặc năm ngoái có bất đồng với KTV cũ. Năm nay, công ty kiểm toán cử một nhóm KTV mới đi nhưng vẫn không giải quyết được bất đồng.  Tốt nhất nên rút khỏi hợp đồng kiểm toán. o Đối với khách hàng mới và khách hàng tiềm năng:  Khách hàng trước kia chưa từng được kiểm toán bởi bất kỳ công ty kiểm toán nào: KTV cần thu thập các thông tin thông qua:  Nghiên cứu tài liệu của ngành liên quan hoạt động của công ty.  Liên hệ với các bên có liên quan: Ngân hàng, chủ nợ, nhà đầu tư…  Liên hệ với cố vấn pháp luật của đơn vị khách hàng. Cố vấn pháp luật: tư vấn về pháp luật cho khách hàng và đối với các công ty nước ngoài bao giờ cũng có một nhóm tư vấn pháp luật. Ở Việt Nam, hiện nay có nhưng không phổ biến lắm và hoạt động tư vấn này có thể áp dụng với cá nhân. Cố vấn pháp luật của công ty giống như một “bộ não” cho các công ty. Cố vấn đưa ra những lời tư vấn ảnh hưởng tới các quyết định của công ty  KTV nên tham khảo và liên hệ với họ.  Khách hàng trước đây đã được kiểm toán bởi một công ty khác: KTV kế nhiệm phải chủ động liên lạc với KTV tiền nhiệm. Việc thiết lập mối quan hệ này phải được sự cho phép của khách hàng và thậm chí KTV tiền nhiệm vẫn có thể hạn chế hoặc từ chối đưa ra thông tin mặc dù họ đã được khách hàng cho phép. Những thông tin liên quan cần tìm hiểu bao gồm:  Lý do thay đổi KTV;  Thông tin về tính liêm chính của Ban Giám đốc. Nếu khách hàng trước đây đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán khác thì KTV cần liên lạc với KTV tiền nhiệm để biết lý do thay đổi KTV của khách hàng. Liệu có những bất đồng gì xảy ra giữa khách hàng và KTV tiền nhiệm 44 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  7. Bài 3: Quy trình kiểm toán không? Lý do vì sao năm nay lại không tiếp tục kiểm toán nữa? Liệu có vấn đề gì lo ngại về tính liêm chính của Ban Giám đốc hay không. Tuy nhiên, trước khi liên lạc thì phải được sự đồng ý của khách hàng và KTV tiền nhiệm cũng cần cân nhắc những thông tin có thể cung cấp. Trường hợp KTV tiền nhiệm từ chối không cung cấp thông tin cho KTV kế nhiệm thì phải đưa ra được lý do thỏa đáng. Chúng ta lưu ý: Chưa có chuẩn mực quy định về độ chính xác của thông tin  nếu 2 công ty kiểm toán là đối thủ cạnh tranh nhau thì thông tin đưa ra không thể chính xác 100%  trách nhiệm của KTV kế nhiệm là phải đánh giá độ tin cậy của những thông tin này vì đây có thể là các bẫy. b. Nhận diện lý do kiểm toán của khách hàng Thực chất của việc nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng là việc xác định người sử dụng BCTC và mục đích sử dụng của họ. Việc làm này sẽ giúp KTV xác định được số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập và mức độ chính xác của ý kiến kiểm toán. Lý do kiểm toán thường được thể hiện rõ trong thư mời kiểm toán hoặc kế hoạch kiểm toán và để nắm rõ lý do, KTV có thể phỏng vấn và trao đổi trực tiếp với Ban Giám đốc hoặc Ủy ban kiểm toán. Trong quá trình tiến hành kiểm toán, KTV sẽ thu thập thêm thông tin để nắm rõ hơn lý do kiểm toán của khách hàng. Lý do kiểm toán của khách hàng ảnh hưởng rất lớn đến số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập và mức độ tin cậy của bằng chứng. Giả sử hàng năm, khách hàng kiểm toán theo luật đầu tư nước ngoài thì sẽ cần số lượng bằng chứng ít hơn kiểm toán để công khai trên thị trường chứng khoán vì khi đó, nhiều người quan tâm hơn tới kết quả kiểm toán  đòi hỏi kết luận kiểm toán phải chính xác hơn. c. Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán Có 4 tiêu chuẩn:  Về chuyên môn;  Về đạo đức;  Về tính độc lập;  Ít nhất một người phải có chứng chỉ hành nghề (người phụ trách bắt buộc có chứng chỉ còn các trợ lý kiểm toán có thể không cần). Các nguyên tắc để lựa chọn nhân viên:  Trong nhóm kiểm toán phải có người có khả năng giám sát các nhân viên mới.  Các công ty kiểm toán nên tránh thay đổi KTV trong các cuộc kiểm toán cho một khách hàng trong nhiều năm. Tuy nhiên, cũng phải lưu ý, Luật Kiểm toán độc lập có quy định: KTV không được ký báo cáo kiểm toán cho cùng một khách hàng trong 3 năm liên tục vì sẽ mất tính độc lập.  Lựa chọn KTV có kiến thức và kinh nghiệm về ngành nghề kinh doanh của khách hàng. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 45
  8. Bài 3: Quy trình kiểm toán d. Lập hợp đồng kiểm toán Theo thông lệ quốc tế, các bên có thể cam kết cung cấp dịch vụ kiểm toán qua thư hẹn kiểm toán. Thư hẹn kiểm toán thường do KTV lập và gửi cho khách hàng. Nếu khách hàng chấp nhận các điều khoản thì họ sẽ ký vào thư hẹn và gửi trả lại bản sao. Tuy nhiên, ở Việt Nam, theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, các bên, giữa một bên cung cấp dịch vụ và một bên sử dụng dịch vụ kiểm toán phải thực hiện ký kết hợp đồng kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán là sự thỏa thuận chính thức giữa công ty kiểm toán và khách hàng về việc thực hiện dịch vụ kiểm toán và các dịch vụ khác có liên quan. Nội dung chính của hợp đồng kiểm toán:  Mô tả được mục tiêu và phạm vi kiểm toán Thường mục tiêu kiểm toán là khẳng định tính trung thực, hợp lý và hợp pháp của các thông tin tài chính. Phạm vi kiểm toán là giới hạn về không gian và thời gian của đối tượng kiểm toán.  Trách nhiệm của các bên có liên quan (Ban giám đốc và KTV) Ban Giám đốc có trách nhiệm lập và trình bày thông tin trung thực trên BCTC. Sau đó có trách nhiệm cung cấp toàn bộ tài liệu mà KTV yêu cầu. KTV có trách nhiệm đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của BCTC. KTV không chịu trách nhiệm về những sai sót thuộc về bản chất của hệ thống kế toán và KSNB trong doanh nghiệp. Đồng thời, KTV không thể và không phải chịu trách nhiệm (cam kết) là sẽ phát hiện ra mọi hành vi gian lận, KTV phải đưa ra giới hạn để giảm thiểu trách nhiệm.  Hình thức thông báo kết quả kiểm toán: Báo cáo kiểm toán và Thư quản lý (nếu có).  Thời gian tiến hành kiểm toán Phải chỉ rõ thời gian bắt đầu và kết thúc kiểm toán, thời hạn phát hành báo cáo kiểm toán.  Căn cứ tính giá phí cho cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán Thông thường giá phí được tính trên giờ công làm việc của KTV. Ở Việt Nam, giá phí thường được xác định trước khi thực hiện kiểm toán. 3.1.1.2. Thu thập thông tin cơ sở Sau khi ký hợp đồng kiểm toán, KTV bắt đầu lập kế hoạch kiểm toán. Để có thể lập được kế hoạch kiểm toán, trước hết, KTV phải tìm hiểu những thông tin cơ sở về khách hàng. Thông tin cơ sở là những thông tin mang tính khái quát ban đầu, những thông tin này giúp cho việc ra quyết định kiểm toán (chứ không phải ra kết luận kiểm toán  không phải là bằng chứng kiểm toán) Quyết định kiểm toán: ví dụ sử dụng tư vấn của chuyên gia như thế nào. Những thông tin này bao gồm:  Tìm hiểu về ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng như: những hiểu biết chung về nền kinh tế, những hiểu biết về lĩnh vực hoạt động, dây truyền công nghệ, cơ cấu tổ chức,… 46 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  9. Bài 3: Quy trình kiểm toán Hiểu biết về ngành nghề, lĩnh vực hoạt động giúp cho quá trình thực hiện các thủ tục phân tích của KTV.  Xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung. Công việc này giúp KTV theo dõi các chính sách của công ty, bản chất của các số liệu cũng như sự biến động của chúng trên BCTC và khi xem xét hồ sơ kiểm toán chung, KTV phải cập nhật thêm thông tin về sự thay đổi của đơn vị.  Quan sát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng: KTV sẽ nắm được quy trình sản xuất kinh doanh của khách hàng, bước đầu tiếp cận với các nhà quản lý và có được cái nhìn tổng thể về công việc kinh doanh của khách hàng. Từ đó đưa ra những nhận định ban đầu về phong cách quản lý, về tổ chức bộ máy và tổ chức hệ thống thông tin trong đơn vị. Ví dụ: nếu khách hàng tính giá thanh phân bước thì KTV cũng phải xuống tận đơn vị khách hàng để khảo sát, tìm hiểu tại sao người ta lại tính giá thành phân bước và phân bước như vậy có phù hợp hay không, phân bước có tính bán thành phẩm hay không…  Nhận diện các bên hữu quan Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 550: Bên hữu quan được hiểu là các bộ phận trực thuộc, các chủ sở hữu chính thức của công ty khách hàng hay bất kỳ công ty chi nhánh, một cá nhân hay tổ chức nào mà công ty có quan hệ. Các cá nhân hay tổ chức đó có khả năng điều hành, kiểm soát hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các chính sách kinh doanh hoặc chính sách quản trị của công ty khách hàng. Theo nguyên tắc kế toán, tất cả các quan hệ với các bên hữu quan cần phải được công khai cho những người sử dụng BCTC. Vì thế, KTV phải xác định được các bên liên quan và nhận định sơ bộ về mối quan hệ này nhằm dự đoán các vấn đề có thể phát sinh giữa các bên hữu quan để xây dựng kế hoạch kiểm toán phù hợp. Ví dụ về bên hữu quan: công ty mẹ, khách hàng truyền thống…  Dự kiến nhu cầu sử dụng chuyên gia Trong các cuộc kiểm toán, KTV có thể sử dụng ý kiến của chuyên gia đối với một số lĩnh vực riêng. Khi sử dụng chuyên gia bên ngoài, KTV phải đánh giá năng lực chuyên môn, tính độc lập của chuyên gia với khách hàng. Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn đánh giá về các tác phẩm nghệ thuật, vàng bạc, đá quý,… KTV có thể sử dụng ý kiến chuyên gia. Khi sử dụng ý kiến chuyên gia để đưa ra kết luận, KTV hoàn toàn phải chịu trách nhiệm về các kết luận đó  KTV phải đánh giá được mức độ tin cậy về việc tư vấn của chuyên gia. 3.1.1.3. Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng Thông tin cơ sở được thu thập là giúp KTV hiểu được các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng còn thông tin về nghĩa vụ pháp lý giúp cho KTV nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động kinh doanh. KTV sẽ thu thập những thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng, bao gồm:  Giấy phép đăng ký kinh doanh và giấy phép thành lập để thu thập thông tin về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 47
  10. Bài 3: Quy trình kiểm toán  Điều lệ công ty để nắm được các thông tin về cơ cấu tổ chức, về chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban, thủ tục phát hành cổ phiếu, trái phiếu…  BCTC, báo cáo kiểm toán, báo cáo thanh tra hay kiểm tra trong năm hiện hành hay trong các năm trước. Thu thập các thông tin này giúp KTV nắm được xu hướng phát triển của khách hàng, nhận thức rõ hơn về thực trạng hoạt động của đơn vị và dự kiến phương hướng kiểm tra. o BCTC giúp KTV nhận biết tổng quát và đánh giá xu hướng biến động tình hình tài chính của đơn vị. o Báo cáo kiểm toán, thanh tra hoặc kiểm tra: giúp KTV nắm bắt được các khả năng xảy ra sai phạm và dự kiến phương hướng kiểm tra.  Thu thập các biên bản họp hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị, Ban giám đốc. Các tài liệu này cung cấp những thông tin quan trọng của doanh nghiệp như công bố về cổ tức, hợp nhất, giải thể các đơn vị trực thuộc, xét duyệt mua bán,… Qua việc nghiên cứu các biên bản này, KTV sẽ xác định được những dữ kiện có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành và trình bày trung thực các thông tin trên Báo cáo tài chính.  Thu thập các hợp đồng và cam kết quan trọng khác giúp KTV hiểu rõ hoạt động kinh doanh chính của khách hàng. Các hợp đồng và cam kết quan trọng như: hợp đồng mua, bán hàng, các khế ước, các cam kết về việc thực hiện các hoạt động là mối quan tâm hàng đầu ở các bộ phận cá biệt của cuộc kiểm toán và trong suốt giai đoạn khảo sát chi tiết. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, việc xem xét sơ bộ các hợp đồng đó sẽ giúp KTV tiếp cận với các hoạt động chính của khách hàng, hình dung những khía cạnh pháp lý có ảnh hưởng đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị khách hàng. 3.1.1.4. Thực hiện thủ tục phân tích Khái niệm: Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 520, thủ tục phân tích là việc phân tích các số liệu, các thông tin, các tỷ suất quan trọng. Qua đó tìm ra những xu hướng biến động và những mối quan hệ có mâu thuẫn với các thông tin liên quan khác hoặc có sự chênh lệch lớn so với giá trị đã dự kiến. Mục đích của thủ tục phân tích trong giai đoạn này:  Thu thập những thông tin về sự biến đổi quan trọng trong kế toán hoặc trong hoạt động kinh doanh của khách hàng vừa mới diễn ra kể từ lần kiểm toán trước.  Nhằm tăng cường sự hiểu biết của KTV về hoạt động kinh doanh của khách hàng, giúp KTV phát hiện những vấn đề nghi vấn và khả năng hoạt động liên tục của khách hàng. Ví dụ: khi kiểm toán chi phí quản lý doanh nghiệp, thấy chi phí năm nay là 500 triệu. Nhưng khi đối chiếu với các năm trước thấy nó khoảng 250 triệu thì có thể đưa ra nhận định là có dấu hiệu sai phạm. Sau đó phải tìm hiểu nguyên nhân tại sao lại tăng đột biến. Chẳng hạn, năm nay doanh nghiệp mở thêm một chi nhánh mới thì việc tăng chi phí quản lý doanh nghiệp là chuyện bình thường. 48 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  11. Bài 3: Quy trình kiểm toán Có 2 loại phân tích:  Phân tích ngang: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các trị số của cùng một chỉ tiêu trên các BCTC như: o So sánh giữa kỳ này với kỳ trước hoặc giữa các kỳ với nhau. o So sánh giữa số thực tế với số kế hoạch hoặc số dự toán. o So sánh giữa số thực tế trên sổ sách với số liệu ước tính của KTV. o So sánh giữa số thực tế của đơn vị với các chỉ tiêu chung của ngành.  Phân tích dọc: là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh các tỷ lệ tương quan của các chỉ tiêu hoặc các khoản mục khác nhau trên BCTC. Các tỷ suất tài chính thường dùng trong phân tích dọc bao gồm: o Nhóm tỷ suất về khả năng thanh toán TS ngắn hạn Tỷ suất thanh toán chung = Nợ ngắn hạn Tỷ suất này đo lường khả năng thanh toán bằng cách xem khả năng trả nợ ngắn hạn bằng toàn bộ tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Khó có thể đưa ra một mốc cụ thể về tỷ suất này để được coi là hợp lý. Bởi vì với từng loại doanh nghiệp, từng ngành nghề kinh doanh khác nhau, mức hợp lý của tỷ suất này cũng khác nhau. Chẳng hạn: trong doanh nghiệp thương mại, tỷ suất này thường cao. Nhưng trong doanh nghiệp khai khoáng, tỷ suất này thường thấp. Tuy nhiên, ta có thể nói rằng:  Nếu tỷ suất thanh toán hiện hành > 1: Doanh nghiệp vẫn duy trì được khả năng thanh toán bằng toàn bộ tài sản lưu động đối với Nợ ngắn hạn.  Nếu tỷ suất thanh toán hiện hành < 1: Doanh nghiệp đang mất khả năng thanh toán bằng TSLĐ đối với Nợ ngắn hạn. Và nếu nó tiến dần đến 0 thì có nghĩa là doanh nghiệp đang có nguy cơ phá sản do mất khả năng thanh toán. Tiền + Các khoản đầu tư ngắn hạn + Các khoản Tỷ suất phải thu thanh toán nhanh = Nợ ngắn hạn Tỷ suất này phản ánh khả năng thanh toán bằng tiền và các khoản dễ chuyển đổi thành tiền. Tương tự như với tỷ suất thanh toán hiện hành, có thể sử dụng mốc bằng 1 để kết luận doanh nghiệp có khả năng thanh toán nợ ngắn hạn bằng tiền và các khoản dễ chuyển đổi thành tiền hay không. Vốn bằng tiền Tỷ suất thanh toán tức thời = Nợ ngắn hạn Tỷ suất này chỉ khả năng thanh toán ngay bằng tiền sẵn có trong doanh nghiệp. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 49
  12. Bài 3: Quy trình kiểm toán Nếu tỷ suất này càng nhỏ thì chứng tỏ doanh nghiệp càng không có khả năng thanh toán ngay bằng tiền. Tuy nhiên, không có nghĩa là tỷ suất này càng lớn càng tốt. Vì nếu, tỷ suất này quá lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp đang tồn quá nhiều tiền không cần thiết và gây ra hiện tượng ứ đọng vốn ngay tại két của doanh nghiệp. Ngoài ra, còn một số tỷ suất khác về khả năng thanh toán như: tỷ suất thanh toán nợ dài hạn,… Tuy nhiên, khi xem xét về khả năng thanh toán, người ta thường quan tâm tới 3 tỷ suất này. o Nhóm tỷ suất về cấu trúc tài chính Tỷ suất đầu tư TS dài hạn = vào TSCĐ Tổng tài sản Tỷ suất này phản ánh trình độ, năng lực hiện có của doanh nghiệp, đánh giá về trình độ trạng bị máy móc, thiết bị. Tỷ suất này luôn < 1, có mức độ cao hay thấp thì tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp: Đối với doanh nghiệp khai khoáng: 0,9 là hợp lý Đối với doanh nghiệp luyện kim: 0,7 Đối với doanh nghiệp thương mại: 0,5 Đối với doanh nghiệp dịch vụ: 0,1 – 0,3 là hợp lý Tổng Nợ phải trả Tỷ suất Nợ = Tổng Nguồn vốn Tuy nhiên, người ta thường sử dụng: Vốn chủ sở hữu Tỷ suất tự tài trợ = = 1 – Tỷ suất Nợ Tổng nguồn vốn Tỷ suất này phản ánh năng lực tự đảm bảo về tài chính và mức độ độc lập của doanh nghiệp đối với các chủ nợ hoặc những khó khăn mà doanh nghiệp phải đương đầu. Nếu tỷ suất này càng lớn thì chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều vốn chủ sở hữu, hoạt động chủ yếu dựa trên nguồn vốn chủ sở hữu nên không phải lo lắng tới việc thanh toán các khoản nợ. Tuy nhiên, tỷ suất này lớn quá cũng không phải là tốt vì nó chứng tỏ doanh nghiệp không chiếm dụng được vốn từ bên ngoài trong kinh doanh. Ngoài ra, thuộc nhóm này còn có một số tỷ suất khác như: Tỷ suất thanh toán lãi vay,… o Nhóm tỷ suất về khả năng sinh lời Thuộc nhóm này, gồm có một số tỷ suất như:  Tỷ suất lợi nhuận thuần/doanh thu  Tỷ suất lợi nhuận gộp/doanh thu  Tỷ suất lợi nhuận thuần/vốn chủ sở hữu  … 50 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  13. Bài 3: Quy trình kiểm toán 3.1.1.5. Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán a. Đánh giá trọng yếu Khái niệm trọng yếu: Trọng yếu là khái niệm chỉ tầm cỡ và bản chất của các sai phạm hoặc là đơn lẻ hoặc là từng nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán sẽ không chính xác hoặc rút ra những kết luận sai lầm. Một thông tin được coi là trọng yếu nếu thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó thì sẽ ảnh hưởng tới các quyết định của những người sử dụng BCTC. Trình tự đánh giá trọng yếu  Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu Mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là lượng tối đa mà KTV tin rằng ở mức đó, các BCTC có thể bị sai lệch nhưng chưa ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng thông tin. Ở đây thường hướng tới 2 loại BCTC chủ yếu là: Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Việc ước lượng ban đầu về tính trọng yếu giúp cho KTV lập kế hoạch thu thập bằng chứng kiểm toán thích hợp. Cụ thể là nếu KTV ước lượng mức trọng yếu càng thấp, nghĩa là độ chính xác của các số liệu trên BCTC càng cao thì số lượng bằng chứng phải thu thập càng nhiều và ngược lại. Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu KTV thấy rằng mức ước lượng ban đầu là quá cao hoặc quá thấp hoặc một trong các nhân tố dùng để xác định mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu bị thay đổi. Ước lượng ban đầu về tính trọng yếu là một việc làm mang tính xét đoán nghề nghiệp của KTV. KTV sẽ căn cứ vào các nhân tố ảnh hưởng đến tính trọng yếu (xét cả về mặt định lượng và định tính) để đưa ra ước tính ban đầu về mức trọng yếu đối với toàn bộ BCTC. Trên thực tế, để hỗ trợ cho các KTV trong việc đánh giá mức trọng yếu này, các công ty kiểm toán thường đưa ra những hướng dẫn về việc lựa chọn các chỉ tiêu làm số gốc và tỷ lệ tính trong các trường hợp cụ thể. KTV dựa vào các hướng dẫn này để tính được mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Tổng tài sản, tổng doanh thu, thu nhập thuần trước thuế, tài sản lưu động, tổng vốn dài hạn, nợ ngắn hạn,… là những chỉ tiêu thường được KTV sử dụng để làm số gốc trong ước lượng mức trọng yếu. Ưu điểm của việc sử dụng tổng tài sản hoặc tổng doanh thu là những chỉ tiêu này thường ít biến động qua các năm tài chính. Chỉ tiêu thu nhập thuần hoặc bình quân thu nhập của mấy năm gần đây cũng được xem như một thông tin then chốt nhất đối với những người sử dụng BCTC. Tuy nhiên, trong một số trường hợp như doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc hòa vốn thì việc sử dụng chỉ tiêu này làm số gốc là không có ý nghĩa. Vì thế, việc lựa chọn chỉ tiêu nào làm số gốc còn tùy thuộc vào từng khách hàng trong các điều kiện cụ thể và nên là chỉ tiêu có tính ổn định qua các năm. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 51
  14. Bài 3: Quy trình kiểm toán Bên cạnh đó, trong một số trường hợp, KTV có thể sử dụng phối hợp giữa các chỉ tiêu trên để xác lập mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC, ví dụ, mức trọng yếu được tính bằng một tỷ lệ phần trăm trên số lớn hơn giữa tài sản và doanh thu. Tuy nhiên, con số tính toán này sẽ được điều chỉnh tăng lên hoặc giảm xuống tùy thuộc vào các nhân tố định tính có liên quan tới cuộc kiểm toán. Chẳng hạn, mức trọng yếu này có thể được điều chỉnh tăng lên do các nhân tố định tính có lợi như: kết quả lần kiểm toán trước (lần kiểm toán trước phát hiện ít các sai phạm, không có biểu hiện của hành vi gian lận, không có các hoạt động phi pháp, vi phạm hợp đồng…); tình hình tài chính khả quan; doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề kinh doanh thuận lợi và phát triển;… Ngược lại, mức trọng yếu này sẽ được điều chỉnh giảm xuống nếu có các nhân tố định tính không thuận lợi như: kết quả lần kiểm toán trước có nhiều sai phạm trọng yếu; doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong kinh doanh, ngành nghề kinh doanh đang suy thóai, xuất hiện thêm nhiều đối thủ cạnh tranh, môi trường kinh doanh bị thắt chặt; có các dấu hiệu của hành vi gian lận, vi phạm pháp luật, chế độ tài chính kế toán, vi phạm các điều khoản hợp đồng…  Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục: o Sau khi ước lượng ban đầu về mức trọng yếu cho toàn bộ BCTC, KTV cần phân bổ mức ước lượng này cho từng khoản mục. Phân bổ ước lượng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục là cần thiết vì bằng chứng thường được thu thập theo các bộ phận hơn là theo toàn bộ BCTC nói chung. Việc phân bổ này sẽ giúp KTV xác định được số lượng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục ở mức chi phí thấp nhất có thể mà vẫn đảm bảo tổng hợp các sai sót trên BCTC không vượt quá mức ước lượng ban đầu về tính trọng yếu. Do kế toán thực hiện ghi sổ theo nguyên tắc ghi sổ kép nên nếu một sai phạm ảnh hưởng tới báo cáo kết quả kinh doanh thì hầu như cũng có ảnh hưởng tương tự như đối với bảng cân đối kế toán. Vì thế, khi thực hiện phân bổ ước lượng về tính trọng yếu cho các khoản mục trên BCTC, KTV có thể phân bổ hoặc cho các tài khoản trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, hoặc cho các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, do hầu hết các thủ tục kiểm toán tập trung vào các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán nên KTV thường phân bổ mức ước lượng cho các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán. o Cơ sở để tiến hành phân bổ:  Bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá sơ bộ đối với các khoản mục Nếu khoản mục được đánh giá là có rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao thì mức trọng yếu được phân bổ cho khoản mục đó sẽ thấp và ngược lại.  Kinh nghiệm của KTV về các sai phạm của khoản mục. Ví dụ, nếu KTV dự đoán rằng có ít hoặc không có sai phạm trong một khoản mục dựa theo kết quả của lần kiểm toán trước và một số nhân tố khác thì một giá trị trọng yếu lớn hơn có thể được phân bổ cho khoản 52 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  15. Bài 3: Quy trình kiểm toán mục này. Do dự đoán của KTV về khả năng sai sót thấp nên phạm vi kiểm toán khoản mục đó có thể giảm đi.  Chi phí kiểm toán đối với các khoản mục. Ví dụ, chi phí thu thập bằng chứng về hàng tồn kho cao hơn chi phí thu thập bằng chứng về công nợ (nợ phải thu, nợ phải trả), chi phí thu thập bằng chứng về công nợ lại cao hơn chi phí thu thập bằng chứng về các tài khoản khác (tiền, tài sản cố định, vốn chủ sở hữu,…) nên sai số có thể chấp nhận được đối với hàng tồn kho cao hơn sai số có thể chấp nhận được đối với công nợ, sai số có thể chấp nhận được đối với công nợ lại cao hơn đối với tài khoản khác. Không có sai số có thể chấp nhận được đối với lợi nhuận chưa phân phối vì chỉ tiêu này chỉ có thể suy ra từ sai số của các tài khoản khác… b. Đánh giá rủi ro kiểm toán Khái niệm: Rủi ro kiểm toán là rủi ro do KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi BCTC đã được kiểm toán còn có những sai phạm trọng yếu. Các loại rủi ro kiểm toán:  Rủi ro có sai phạm trọng yếu: là rủi ro khi BCTC chứa đựng những sai phạm trọng yếu trước khi kiểm toán. Tại cấp độ cơ sở dẫn liệu, rủi ro có sai phạm trọng yếu bao gồm hai bộ phận: o Rủi ro tiềm tàng (Inherent risk - IR): là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong bản thân các đối tượng kiểm toán chưa kể đến sự tác động của bất cứ hoạt động kiểm toán nào kể cả kiểm soát nội bộ. o Ví dụ: Cùng là khoản mục tiền nhưng với hai loại tiền mặt và tiền gửi ngân hàng thì tiền mặt luôn tiềm ẩn một rủi ro nhiều hơn. Rủi ro với tiền mặt có thể là: tiền giả, mất mát, rách nát, cháy,… Tức là ngay trong bản thân đối tượng kiểm toán (tiềm mặt) đã tiềm ẩn những rủi ro đó rồi, chưa tính đến các quá trình kiểm tra, kiểm soát để tác động vào đối tượng đó. o Rủi ro kiểm soát (Control risk - CR): là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu. Hệ thống kiểm soát nội bộ được thiết kế ra chủ yếu là nhằm phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu. Tuy nhiên, trong trường hợp có sai phạm trọng yếu mà KSNB vẫn không phát hiện ra thì đó chính là rủi ro kiểm soát. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 53
  16. Bài 3: Quy trình kiểm toán  Rủi ro phát hiện (Detection Risk - DR): là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Nguyên nhân: o Do phạm vi kiểm toán áp dụng không phù hợp. Ví dụ: Chỉ chọn mẫu một số ít cá thể  không thu thập đầy đủ thông tin  kết luận sai lầm về đối tượng kiểm toán. o Do áp dụng sai hệ thống phương pháp kiểm toán. Ví dụ: Khi kiểm toán tiền chỉ lựa chọn phương pháp kiểm toán chứng từ (đối chiếu, cân đối sổ sách), không thực hiện kiểm kê tiền để đối chiếu giữa số ghi sổ và thực tế.  Mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán Quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán được phản ánh qua mô hình rủi ro kiểm toán: Rủi ro mà KTV không Rủi ro Rủi ro có sai phạm = × phát hiện được sai kiểm toán trọng yếu phạm trọng yếu Rủi ro tiềm Rủi ro kiểm Rủi ro phát hiện = × × tàng (IR) soát (CR) (DR) IR và CR luôn luôn tồn tại một cách khách quan, KTV không tạo ra và cũng không kiểm soát được chúng. Ngược lại, đối với DR, KTV phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm quản lý và kiểm soát được rủi ro phát hiện. Thực tế, trong mỗi cuộc kiểm toán, người ta thường ấn định trước một mức AR mong muốn. Sau đó, trên cơ sở đánh giá IR và CR, KTV mới xác định mức DR cần đạt được. Từ mô hình rủi ro kiểm toán: AR = IR × CR × DR AR  DR = IR × CR Đánh giá rủi ro kiểm toán Đánh giá rủi ro kiểm toán sẽ được thực hiện theo quy trình thể hiện qua sơ đồ sau: Xác định rủi ro kiểm toán mong muốn Đánh giá rủi ro có sai phạm trọng yếu Đánh giá rủi ro Đánh giá rủi ro tiềm tàng kiểm soát Tính toán rủi ro phát hiện Thiết kế thử nghiệm cơ bản Sơ đồ 3.1: Quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán 54 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  17. Bài 3: Quy trình kiểm toán  Xác định mức rủi ro kiểm toán mong muốn (AR) Rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, nó được xác định một cách chủ quan và phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: o Mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào BCTC. Trong cơ chế thị trường, có rất nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó trong tài liệu kế toán mà trực tiếp là BCTC. Những người quan tâm này có thể là: các cơ quan nhà nước (cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế); các nhà đầu tư (cần có thông tin trung thực để có hướng đầu tư đúng đắn, điều hành sử dụng vốn đầu tư và ăn chia phân phối kết quả đầu tư); các nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà quản lý khác (cần thông tin trung thực để có những quyết định kinh doanh đúng đắn); người lao động; khách hàng; nhà cung cấp… Khi nhiều người sử dụng bên ngoài đặt niềm tin vào các BCTC thì những sai lệch trọng yếu trên BCTC dễ gây tác hại trên phạm vi rộng. Do vậy, trong trường hợp này, KTV cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm toán thu thập và tăng độ chính xác trong các kết luận đưa ra của mình. Một số yếu tố chỉ ra mức độ mà theo đó các BCTC được người sử dụng bên ngoài tin tưởng là:  Quy mô của đơn vị được kiểm toán Quy mô của đơn vị có thể được đo bằng tổng tài sản; tổng doanh thu; hoặc tổng thu nhập. Quy mô càng lớn thì BCTC càng được sử dụng rộng rãi và rủi ro kiểm toán mong muốn cần đánh giá ở mức thấp hơn.  Quyền sở hữu Nếu quyền sở hữu doanh nghiệp thuộc về nhiều bên tham gia hơn thì sẽ có nhiều người quan tâm tới BCTC hơn và rủi ro kiểm toán mong muốn cũng cần được đánh giá ở mức thấp hơn và ngược lại.  Bản chất và quy mô của công nợ Các khoản công nợ là những khoản chắc chắn có liên quan tới một bên thứ ba cho vay, cho nợ. Các chủ nợ hiện tại và tiềm năng thường quan tâm đến tình hình tài chính của công ty, đặc biệt là khả năng thanh toán để xem xét có tiếp tục duy trì và cho doanh nghiệp vay tiếp hay không. Vì thế, khi BCTC bao gồm một số lượng lớn các khoản công nợ hoặc các khoản công nợ có quy mô lớn thì chúng có khả năng được sử dụng rộng rãi hơn. o Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán công bố. Nếu khách hàng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán được công bố thì khả năng KTV sẽ liên quan tới các vụ kiện của các bên do sử dụng BCTC được kiểm toán là rất lớn. Chính vì thế, trong trường hợp này KTV phải thiết lập ngay từ đầu một mức rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn để đề phòng các trường hợp bị các bên có liên quan kiện. Trường hợp này sẽ dẫn tới chi phí kiểm toán cao hơn nhưng KTV vẫn phải xác định rủi ro kiểm toán ở mức thấp hợp lý. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 55
  18. Bài 3: Quy trình kiểm toán Việc dự đoán khả năng thất bại, khó khăn của đơn vị được kiểm toán trong tương lai là một vấn đề rất phức tạp. Tuy nhiên, KTV có thể dựa vào một số yếu tố sau để dự đoán sự kiện này:  Khả năng hoán chuyển thành tiền mặt Nếu một doanh nghiệp thường xuyên thiếu tiền và vốn lưu động thì có thể doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh toán. KTV cần phải đánh giá về khả năng thanh toán của khách hàng để dự đoán khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn trong tương lai và nếu trầm trọng hơn, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn thì dễ dẫn đến nguy cơ phá sản.  Các khoản lãi (lỗ) trong các năm trước Khi một doanh nghiệp giảm nhanh các khoản lãi hoặc tăng nhanh các khoản lỗ trong một số năm liên tục thì đây là dấu hiệu về việc kinh doanh đang có chiều hướng xấu. KTV cần phải đánh giá khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính khi thấy có các dấu hiệu này xuất hiện.  Các biện pháp nhằm gia tăng quá trình tài trợ Nếu doanh nghiệp càng phụ thuộc vào các khoản tài trợ, đặc biệt đang tìm mọi biện pháp để gia tăng khoản tài trợ này thì chứng tỏ doanh nghiệp không tự chủ được về mặt tài chính, do đó khả năng gặp khó khăn về mặt tài chính sẽ cao.  Bản chất hoạt động của công ty khách hàng Trong một số lĩnh vực hoạt động kinh doanh thì khả năng gặp rủi ro dẫn đến phá sản rất cao, chẳng hạn ngành kinh doanh môi giới chứng khoán… Khi kiểm toán những ngành kinh doanh như vậy, KTV nên đề phòng khả năng khách hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn, rủi ro trong kinh doanh để xác định mức rủi ro kiểm toán cho hợp lý. Việc thu thập thông tin và tìm hiểu về khách hàng, đặc biệt là hai yếu tố: mức độ mà theo đó người sử dụng bên ngoài tin tưởng vào BCTC và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi BCTC được công bố sẽ giúp KTV xác định được mức rủi ro kiểm toán mong muốn cho toàn bộ BCTC được kiểm toán. Sau khi thiết lập được mức rủi ro kiểm toán mong muốn, KTV sẽ đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát.  Đánh giá rủi ro tiềm tàng (IR) Việc đánh giá rủi ro tiềm tàng sẽ được thực hiện trên cả hai phương diện: trên phương diện BCTC và trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ. o Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện BCTC: KTV thường dựa vào một số yếu tố ảnh hưởng sau:  Đặc điểm của Ban Giám đốc Nếu các quyết định về kinh tế, tài chính trong đơn vị bị độc quyền bởi một cá nhân trong Ban Giám đốc thì sẽ dễ xảy ra các sai phạm trọng yếu hơn trường hợp các quyết định kinh tế, tài chính được soát xét và phê duyệt bởi một hội đồng thành viên Ban Giám đốc. 56 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
  19. Bài 3: Quy trình kiểm toán Ngoài ra, sự thiếu liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám đốc cũng như sự thay đổi thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán dễ dẫn đến việc chỉ đạo, điều hành các hoạt động sai chế độ, quy định pháp luật... Vì thế, dễ có khả năng tồn tại sai phạm đối các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Hơn nữa, khi có nhiều sự thay đổi nhân sự trong Ban Giám đốc, KTV cũng cần xem xét đến trường hợp có nhiều người trung thực, không chấp nhận những gian lận xảy ra trong doanh nghiệp nên tự nguyện xin từ chức và khi đó, rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá cao hơn.  Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các nhân viên kế toán chủ yếu, của KTV nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của họ. Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, các nhân viên kế toán chủ yếu và của kiểm toán nội bộ sẽ ảnh hưởng tới công tác kế toán của đơn vị, ảnh hưởng tới sự ghi chép và kiểm tra kế toán và tính chính xác của các thông tin tài chính được ghi chép và trình bày trên BCTC. Nếu có sự thay đổi nhân sự của các vị trí này thì những người mới có thể chưa có kinh nghiệm nên dễ dẫn tới sai sót. Trong trường hợp đó, KTV nên đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao hơn.  Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán trưởng, nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy Ban Giám đốc, kế toán trưởng phải trình bày BCTC không trung thực. Chẳng hạn, doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính và cần kêu gọi thêm vốn góp của các cổ đông để bổ sung vốn thì doanh nghiệp rất dễ gian lận trong việc khai các chỉ tiêu tài chính để làm bức tranh tài chính của doanh nghiệp sáng sủa hơn như ghi nhận những khoản doanh thu, thu nhập khi thực tế chưa xảy ra, hoặc không ghi nhận những khoản chi phí…  Đặc điểm hoạt động của đơn vị, như: Quy trình công nghệ, cơ cấu vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ. Một doanh nghiệp nếu có quy trình công nghệ lạc hậu thì hàng hóa sản xuất ra rất có khả năng bị lỗi thời và khó tiêu thụ trên thị trường, có thể ảnh hưởng tới giá trị thuần của hàng tồn kho được trình bày trên BCTC; Một doanh nghiệp có cơ cấu phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay cũng có khả năng có rủi ro tiềm tàng trong việc trình bày các chỉ tiêu liên quan tới khả năng thanh toán; Một doanh nghiệp có nhiều đơn vị phụ thuộc sẽ làm tăng khả năng sai sót ở khâu tổng hợp; Một đơn vị có quy mô lớn có khả năng sai sót nhiều hơn một đơn vị có quy mô nhỏ hơn...  Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị. Như các biến động về kinh tế, về cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị.  Hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn. Trong các hợp đồng kiểm toán lần đầu, KTV thường thiếu hiểu biết và kinh nghiệm về các sai sót của đơn vị khách hàng nên họ thường đánh giá rủi ro tiềm tàng cao hơn so với hợp đồng kiểm toán những lần sau. TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206 57
  20. Bài 3: Quy trình kiểm toán o Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ phụ thuộc vào các yếu tố: Mức rủi ro tiềm tàng đã đánh giá đối với toàn bộ BCTC, tính chất của khoản mục, các nhân tố tác động tới rủi ro tiềm tàng trên số dư tài khoản và loại nghiệp vụ trên cơ sở hiểu biết của KTV, bao gồm các nhân tố sau:  Bản chất kinh doanh của khách hàng Rủi ro tiềm tàng bị tăng lên bởi những đặc thù của ngành nghề kinh doanh mà nó có thể tạo nên những khó khăn cho kiểm toán do tồn tại những khoản không chắc chắn hoặc khả năng tồn tại một cách tiềm tàng những gian lận hoặc sai sót trên BCTC. Chẳng hạn, khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng thường có nhiều rủi ro trong việc quản lý tiền mặt và các phương tiện thanh toán, do đó việc kiểm toán vốn bằng tiền sẽ khó khăn hơn đối với các doanh nghiệp sản xuất thông thường.  Kết quả các lần kiểm toán trước Đối với tài khoản được phát hiện có sai phạm trong các lần kiểm toán của năm trước, rủi ro tiềm tàng được xác định ở mức cao. Lý do là nhiều loại sai phạm có tính chất hệ thống và các đơn vị thường chưa kịp tiến hành các biện pháp sửa chữa nên các sai phạm đã xảy ra trong năm trước có thể vẫn tiếp tục xảy ra trong các năm sau.  Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên Các nghiệp vụ này có khả năng được vào sổ sai nhiều hơn là các nghiệp vụ diễn ra hàng ngày do khách hàng thiếu kinh nghiệm trong hạch toán các nghiệp vụ đó, do đó rủi ro tiềm tàng đối với các tài khoản chứa nghiệp vụ này thường được đánh giá cao.  Các ước tính kế toán Rủi ro tiềm tàng của các tài khoản phản ánh các ước tính kế toán (dự phòng các khoản phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho,...) thường được đánh giá là cao vì việc vào sổ đúng đắn các khoản mục này không những đòi hỏi sự hiểu biết về bản chất các khoản mục, về lý thuyết liên quan mà còn cả kinh nghiệm và sự phán xét chủ quan của người có trách nhiệm.  Quy mô của các số dư tài khoản Các tài khoản có số dư bằng tiền lớn thường được đánh giá là rủi ro tiềm tàng cao hơn so với tài khoản có số dư bằng tiền nhỏ.  Đánh giá rủi ro kiểm soát: Việc đánh giá rủi ro kiểm soát phụ thuộc vào kết quả đánh giá về Kiểm soát nội bộ.  Xác định rủi ro phát hiện (DR) Rủi ro phát hiện được xác định từ ba loại rủi ro: rủi ro kiểm toán mong muốn, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Ba loại rủi ro này thay đổi theo từng khoản mục do đó rủi ro phát hiện cũng cần được xác định cho từng khoản mục và là căn cứ để KTV xác định nội dung, lịch trình và phạm vi thử nghiệm cơ bản sẽ thực hiện. 58 TXKTKI02_Bai3_v1.0016101206
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1